Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.66 MB, 120 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO và AFTA sự cạnh tranh trong các lĩnh
vực dịch vụ, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ dầu khí sẽ trở nên khốc liệt hơn vì
khi đó sẽ có nhiều nhà cung cấp có tiềm lực vượt trội về tài chính, có năng
lực, uy tín và chuyên nghiệp cùng tham gia vào thị trường cung cấp dịch vụ
trong nước. Một số công ty dịch vụ hoặc ngay cả các đối tác cũ của PTSC có
thể có hướng đầu tư lâu dài tại Việt Nam bằng cách lập các công ty 100% vốn
nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết với các đơn vị khác trong nước.
Mặt khác, trong năm 2006 PTSC đã hoàn thành công tác cổ phần hóa
và chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần hóa từ ngày
01/01/2006. Ngay sau khi chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ
phần , tổng công ty đã thực hiện chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ - công
ty con với việc thành lập công ty mẹ là Tổng công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật
dầu khí và hình thành các công ty con trên cơ sở các đơn vị trực thuộc (hiện
tại có 15 công ty con và các đơn vị trực thuộc). Việc thành lập thêm các đơn
vị thành viên và trực thuộc đã giúp PTSC đa dạng hóa và mở thêm các loại
hình dịch vụ mới tuy nhiên một vấn đề đặt ra đó là cần phải có cơ chế quản lí
tài chính trong nội bộ Tổng công ty một cách có hiểu quả để duy trì được sự
phát triển bền vững trong giai đoạn thị trường cung ứng dịch vụ dầu khí cạnh
tranh khốc liệt này.
Quý 3 năm 2007 vừa qua PTSC đã niêm yết mã chứng khoán trên sàn
giao dịch HASTC với mã chứng khoán là PVS, trong năm 2008 này Tổng
công ty cũng có chủ trương là tăng vốn điều lệ lên 2000 tỷ thông qua việc
phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn phục vụ cho việc đầu tư các dự án


dầu khí trọng điểm quốc gia theo chương trình an ninh năng lượng mà chính
phủ đề ra.
Trước tính sàng lọc của nền kinh tế thị trường tạo ra, để tồn tại và phát
triển buộc PTSC phải có tình hình tài chính doanh nghiệp tốt. Vì lí do đó mà


tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại
Tổng công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp và vận
dụng các lí luận khoa học về phân tích tài chính doanh nghiệp để phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng phân tích tài chính tại PTSC và đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại PTSC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: các luận cứ khoa học về chất lượng phân tích tài

chính doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu: chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại
PTSC.
Thời gian: tập trung vào giai đoạn từ 2005 đến 2008 vì đây là giai đoạn
công ty chuyển đổi sang công ty cổ phần, có rất nhiều sự biến động và thay
đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp
luận chung. Trên cơ sở đó sử dụng một số phương pháp cụ thể như phương pháp
phân tích kinh tế, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê.


5. Nội dung nghiên cứu
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo được kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng phân tích tài chính doanh
nghiệp

Chương 2: Thực trạng chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại PTSC
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh
nghiệp tại PTSC


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN
TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1 Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân,
hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Theo Luật Doanh Nghiệp Việt Nam: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh – tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, đó là ba vấn đề
kinh tế cơ bản mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải giải quyết để đạt được
mục tiêu. Quyết định sản xuất cái gì nghĩa là phải xác định rõ sản xuất loại
hàng hóa, dịch vụ nào, số lượng bao nhiêu, bao giờ sản xuất. Quyết định sản
xuất thế nào là phải xác định rõ nguồn lực, công nghệ và phương pháp sản
xuất. Quyết định sản xuất cho ai là phải xác định rõ đối tượng tiêu dùng hàng
hóa và dịch vụ đó.
Để thực hiện được ba vấn đề kinh tế cơ bản đó cần phải có nhiều yếu tố
tuy nhiên có một công cụ rất hữu hiệu đó là công cụ tài chính. Hoạt động tài
chính doanh nghiệp góp phần thực hiện các vấn đề cơ bản của doanh nghiệp.
Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường là hoạt động của các
luồng chuyển dịch, các luồng vận động và chuyển hóa những luồng tài chính
trong quá trình phân phối để tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ nhằm đạt mục tiêu

kinh doanh của doanh nghiệp.


Hoạt động tài chính được phản ánh trên nhiều tài liệu của doanh nghiệp
(thống kê, kế hoạch, hợp đồng kinh tế), song phản ánh tập trung và đầy đủ
nhất là trên tài liệu kế toán.
Các báo cáo kế toán tài chính định kỳ gồm: Bảng cân đối tài sản; báo
cáo thu nhập; báo cáo lưu chuyển tiền tệ là những báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh kết quả hoạt động tài chính đã diễn ra sau mỗi kỳ kinh doanh. Đây
là tài liệu kế toán quan trọng nhất phản ánh đầy đủ toàn diện hoạt động tài
chính doanh nghiệp diễn ra với độ chính xác cao được pháp lệnh quy định và
được báo cáo công khai cho người có nhu cầu tìm hiểu.
1.1.2 Sự cần thiết phân tích tài chính doanh nghiệp
Nền kinh tế thị trường mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh
sinh lời cao nhưng đồng thời cũng mang đến nhiều rủi ro tiểm ẩn. Để tồn tại
và phát triển trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh và thách thức, các
hoạt động của doanh nghiệp đòi hỏi phải được hoạch định và kế hoạch hóa.
Trên cơ sở phân tích tài chính doanh nghiệp mà nhà quản trị sẽ quyết định
chiến lược (dài hạn) và chiến thuật (ngắn hạn) kinh doanh. Phân tích tài chính
doanh nghiệp sẽ giúp Nhà quản trị đánh giá được tình hình doanh nghiệp và
đưa ra các quyết định kịp thời bởi vì các hoạt động của doanh nghiệp đều
được phản ánh qua các báo cáo tài chính. Bằng các phương pháp phân tích,
nhà phân tích có thể đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu và hiệu quả kinh
doanh trên cơ sở đó sẽ dự báo được các cơ hội, rủi ro của doanh nghiệp trong
tương lai đây là thông tin quan trọng phục vụ cho nhà quản trị đưa ra kế
hoạch kinh doanh phù hợp.
Việc phân tích tài chính được tiến hành theo nhiều cách khác nhau tùy
thuộc vào mục đích phân tích và chủ thể sử dụng kết quả phân tích.
Đối với các Nhà quản trị doanh nghiệp:



Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân
tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà phân
tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do có thông tin đầy đủ và hiểu rõ về
doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế
để có thể phân tích tài chính tốt. Đứng trên góc độ quản lý phân tích tài chính
doanh nghiệp nhằm mục tiêu:
- Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các khả năng hoạt động
kinh doanh quá khứ, tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lãi,
khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài chính doanh nghiệp.
- Định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc cũng như giám
đốc tài chính: quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần…
- Là cơ sở kiểm soát các dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, phần ngân
sách tiền mặt…
- Cuối cùng phân tích tài chính là công cụ để kiểm soát các hoạt động
quản lý.
Phân tích tài chính làm nổi bật tầm quan trọng của dự báo tài chính và là
cơ sở cho các nhà quản trị, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn
làm rõ các chính sáng chung.
Đối với các Nhà đầu tư: Các cổ đông là cá nhân hoặc doanh nghiệp
quan tâm trực tiếp đến tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì hộ đã đầu tư
vốn vào doanh nghiệp và có thể phải chịu rủi ro. Mục tiêu của các nhà đầu tư
là gia tăng giá trị tài sản, họ quan tâm đến đồng vốn của họ bỏ ra đầu tư có
sinh lời không, do đó khi phân tích tài chính họ chú trọng phân tích nội dung
này.
Đối với người cho vay: mục tiêu của chủ nợ là phân tích khả năng thanh
toán của khách hàng do vậy trong quá trình phân tích họ đặc biệt chú trọng


nội dung này. Tuy nhiên vay dài hạn và ngắn hạn có đặc điểm khác nhau vì

vậy khi phân tích cũng cần phải sử dụng các kỹ thuật khác nhau.
Nếu những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm
đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó
của doanh nghiệp đối với các món nợ đến hạn phải trả.
Nếu là những khoản vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc trả vốn và lãi sẽ tuy
thuộc vào khả năng sinh lời này.
Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và thời hạn của khoản vay,
nhưng dù cho đó là cho vay dài hạn hoặc ngắn hạn thì người cho vay đều
quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của đối tượng đi
vay.
Phân tích tài chính đối với những người hưởng lương trong doanh
nghiệp: Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp là một trong những
nguồn thu nhập của người hưởng lương. Tuy nhiên, cũng có những doanh
nghiệp, người hưởng lương có một số cổ phần nhất định trong doanh nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp này người hưởng lương có thu nhập từ tiền
lương được trả và tiền lời được chia. Cả hai khoản thu nhập này phụ thuộc
vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, phân
tích tài chính giúp họ định hướng được việc làm ổn định của mình trên cơ sở
đó yên tâm dốc sức vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tùy
vào công việc được phân công đảm nhận.
Tóm lại, phân tích tài chính có vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thông tin cho việc đưa ra các quyết định kinh doanh và quyết định quản lý.
Phân tích tài chính nó không trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh
nhưng trong dài hạn nó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động doanh nghiệp.


Phân tích tài chính là một công cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị
kinh tế, để đánh giá các mặt mạnh, các mặt yếu của một doanh nghiệp, tìm ra
nguyên nhân khách quan và chủ quan, giúp cho từng đối tượng lựa chọn và

đưa ra được những quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm.
1.1.3 Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niệm,
phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh
nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp đó. Tóm lại phân tích tài chính là sự phân giải, lý giải, đánh giá các
quan hệ, các quá trình chuyển dịch và biến đổi các luồng tài chính và sự ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh doanh nghiệp.Về bản chất của phân tích tài
chính doanh nghiệp là phân tích xử lý thông tin tài chính để đánh giá tình hình
tài chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ bản chất của phân tích tài chính và báo cáo kế toán tài chính ta thấy
rằng giữa chúng có mối quan hệ hữu. Nếu báo cáo kế toán tài chính là vật
chứa đựng thông tin tài chính thì phân tích phân tích tài chính là sử dụng vật
chứa đựng thông tin tài chính và xử lý các thông tin này để đánh giá toàn bộ
tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy phân tích
tài chính doanh nghiệp là sử dụng nhiều vật chứa thông tin tài chính trong đó
có báo cáo tài chính là nguồn tài liệu chứa thông tin tài chính đầy đủ nhất , có
độ tin cậy cao nhất được thừa nhận về mặt pháp lý. Vì vậy chất lượng thông
tin tài chính của hệ thống báo cáo kế toán tài chính quyết định kết quả phân
tích tài chính.
Nếu xét rộng hơn trong mối quan hệ với quá trình quản lý tài chính
doanh nghiệp thì phân tích tài chính là công cụ trực tiếp phục vụ quản lý,


đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp còn báo cáo tài chính được thiết lập
nhằm thực hiện tốt hơn cho việc phân tích đánh giá quá trình này. Tuy nhiên
báo cáo tài chính cũng có sự độc lập nhất định bởi báo cáo tài chính là kết quả
của quá trình hạch toán kế toán vì vậy bản thân báo cáo kế toán tài chính chịu
ảnh hưởng của chế độ, thể lệ và nguyên tắc hạch toán chính vì lẽ đó thông tin

tài chính trên báo cáo tài chính cũng có những hạn chế nhất định.
Phân tích báo cáo tài chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ
thuật phân tích và giải thích các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ
thuật này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử
dụng làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra
quyết định là mục đích chủ yếu của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là
nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà
phân tích tham mưu của một công ty đang được phân tích, thì mục tiêu cuối
cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở cho việc ra quyết định hợp lý. Các
quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên cho vay hay từ chối hoặc nên
lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là chuyển sang một quy trình
mới, tất cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả phân tích tài chính có
chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là yếu tố quan trọng
của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không thay đổi.
Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng đều
phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho việc
ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ sẽ
khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ
động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài
sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến
khả năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp,


sự định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng
chung.
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.4.1 Phương pháp phân tích
Để phân tích tài chính doanh nghiệp, người ta có thể sử dụng một hay
tổng hợp các phương pháp khác nhau trong hệ thống các phương pháp phân
tích tài chính doanh nghiệp. Những phương pháp phân tích chính sử dụng phổ

biến là: phương pháp tỷ số, phương pháp so sánh, phương pháp Dupont.
Phương pháp tỷ số
Đây là phương pháp truyền thống và thường được áp dụng phổ biến.
Phương pháp tỷ số là là phương pháp trong đó các tỷ số (cụ thể là tỷ số đơn
được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác) được sử dụng để phân
tích. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi vì các lí do sau:
Thứ nhất, nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp
đầy đủ hơn. Đó chính là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy
cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh
nghiệp.
Thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc
đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số.
Thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu
quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo
chuỗi thời gian liên tục hoặc từng giai đoạn. Về nguyên tắc, với phương pháp
này cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu ví dụ như tỷ số chung của
ngành…Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh
các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu.
Phương pháp so sánh


Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi phổ biến trong phân tích kinh tế
nói chung và phân tích tài chính doanh nghiệp nói riêng. Khi sử dụng phương
pháp so sánh cần chú ý các vấn đề sau :
Thứ nhất, điều kiện so sánh:
- Phải tồn tại ít nhất hai đại lượng
- Các đại lượng (các chỉ tiêu) phải đảm bảo tính chất so sánh được. Đó là sự
thống nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, thống
nhất về thời gian và đơn vị đo lường.

Thứ hai, xác định gốc để so sánh:
Gốc so sánh được tùy thuộc vào mục đích phân tích, gốc so sánh có thể xác
định tại từng thời điểm, cũng có thể xác định tại trong từng kỳ. Cụ thể:
- Khi xác định xu hướng và tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích thì gốc so
sánh được xác định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở một thời điểm trước, một
kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ trước. Lúc này sẽ so sánh chỉ tiêu ở thời điểm này
với thời điểm trước, giữa kỳ này với kỳ trước, năm này với năm trước hoặc
hàng loạt kỳ trước.
- Khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra thì gốc so sánh
là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích. Khi đó, tiến hành so sánh giữa thực
tế và kế hoạch của chỉ tiêu.
- Khi xác định vị trí doanh nghiệp thì gốc so sánh được xác định là giá trị
trung bình của ngành hay chỉ tiêu phân tích của đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba, kỹ thuật so sánh:
Kỹ thuật so sánh thường được sử dụng là so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh
bằng số tương đối.
- So sánh bằng số tuyệt đối để thấy sự biến động về số tuyệt đối của chỉ tiêu
phân tích.
- So sánh bằng số tương đối để thấy thực tế so với kỳ gốc chỉ tiêu tăng hay
giảm bao nhiêu phần trăm.
Phương pháp Dupont
Bản chất của phương pháp này là nhà phân tích tách một tỷ số tổng
hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản
(ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi


các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh
hưởng của các tỷ số đó đối với các tỷ số tổng hợp. Với phương pháp này các
nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt,
xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.

Nội dung phương pháp phân tích DUPONT là phân tích ROE dựa trên
mối quan hệ với ROA để thiết lập phương trình phân tích.
- ROE =

=

x

= ROA x EM (số

nhân vốn)
- ROA =

=

x

= Doanh lợi doanh

thu x Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = PM x AU
- ROE = Doanh lợi doanh thu x Số vòng quay tổng tài sản x Số nhân vốn
= (Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu) x ( Doanh thu / Tổng tài sản bình
quân) x ( Tổng tài sản bình quân / Vốn chủ sở hữu)
Phương trình Dupont có thể khái quát theo sơ đồ sau:
ROE

ROA

Doanh lợi doanh thu


Số nhân vốn

Hiệu suất sử dụng tổng tài sản

1.1.4.2 Nguồn thông tin dùng để phân tích tài chính doanh nghiệp
Hệ thống báo cáo tài chính, bao gồm các báo cáo tổng hợp, phản ánh
tổng quát bằng các các chỉ tiêu giá trị về tình hình tài sản, nguồn hình thành


tài sản theo kết cấu, kết quả hoạt động kinh doanh tại một thời điểm, thời kỳ
nhất định.
Bảng Cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát
giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một
thời điểm nhất định (cuối ngày, cuối quý, cuối năm). Do đó, các số liệu phản
ánh trên bảng CĐKT được sử dụng làm tài liệu chủ yếu khi phân tích tổng tài
sản, nguồn vốn và kết cấu tài sản, nguồn vốn.
Kết cấu của bảng CĐKT gồm 2 phần chính: phần tài sản và phần nguồn
vốn.
Phần tài sản: gồm các chỉ tiêu phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có
tại một thời điểm. Trị giá tài sản hiện có của doanh nghiệp gồm toàn bộ tài
sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và các loại tài sản đi thuê được sử
dụng lâu dài, trị giá các khoản nhận ký quỹ, ký cược…
Theo chế độ kế toán ban hành theo quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày
20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính phần tài sản gồm 2 loại:
Loại A - Tài sản ngắn hạn, gồm các mục sau: Tiền và các khoản tương
đương với tiền, Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, Các khoản phải thu
ngắn hạn, Hàng tồn kho, Tài sản ngắn hạn khác.
Loại B – Tài sản dài hạn, gồm các mục sau: Các khoản phải thu dài
hạn, Tài sản cố định, Bất động sản đầu tư, Các khoản đầu tư tài chính dài hạn,

Tài sản dài hàn khác.
Phần nguồn vốn: phần này phản ánh nguồn hình thành nên các loại
nguốn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Nguồn vốn cũng được
chia thành hai loại A, B. Loại A: Nợ phải trả, loại B: Vốn chủ sở hữu.


Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh
nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí và lợi nhuận của hoạt động
kinh doanh và hoạt động khác.
Các chỉ tiêu thuộc phần này trình bày các số liệu về tổng số phát sinh
kỳ này, kỳ trước và lũy kế từ đầu năm.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh quá
trình hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh
nghiệp.
Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp giúp các đối tượng sử
dụng báo cáo tài chính có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và
sử dụng các khoản tiền đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tác dụng chủ yếu của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là:
-

Cung cấp thông tin để đánh giá khả năng tạo ra tiền, các khoản tương

đương tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng các khoản tiền
- Cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng báo cáo phân tích đánh giá
về thời gian cũng như mức độ chắc chắn của việc tạo ra các khoản tiền trong
doanh nghiệp.

- Cung cấp thông tin về nguồn tiền hình thành từ các hoạt động kinh doanh,
hoạt động đầu tư tài chính để đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động đó đối
với tình hình tài chính doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin đánh giá khả năng thanh toán và xác định nhu cầu tiền
của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động tiếp theo.
Thuyết minh báo cáo tài chính:


Thuyết minh báo cáo tài chính là một dạng văn bản nhằm giải thích chi
tiết những nội dung thay về tài sản, nguồn vốn mà các dữ liệu bằng số trong
báo cáo tài chính không thể hiện được hết. Thuyết minh báo cáo tài chính mô
tả mang tính tường thuật và phân tích chi tiết các thông tin đã được trình bày
trong bảng CĐKT, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ cũng như các thông tin cần thiết khác nhau theo yêu cầu của các chuẩn
mực kế toán cụ thể như: đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế toán và
đơn vị tiền tệ sử dụng khi trình bày báo cáo tài chính, những tuyên bố về
chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng khi xử lý
thông tin hình thành nên báo cáo tài chính, các chính sách kế toán mà doanh
nghiệp áp dụng...Thuyết minh báo cáo có thể trình bày những thông tin khác
cung cấp cho đối tượng sử dụng khi doanh nghiệp xét thấy cần thiết cho việc
cho việc trình bày trung thực và hợp lý báo cáo tài chính.
1.1.4.3 Phân tích bảng cân đối kế toán
Thông qua bảng cân đối kế toán chúng ta biết được tình hình tài chính
của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, phân tích bảng CĐKT sẽ chú
trọng vào các nội dung sau:
Phân tích kết cấu vốn và tài sản của doanh nghiệp:
Mục đích của phân tích kết cấu vốn và tài sản là nghiên cứu lượng và tỷ
trọng của vốn và tài sản cũng như sự biến động của chúng trong thời kỳ phân
tích. Nội dung và các bước phân tích như sau:
- Chuyển bảng CĐKT dưới dạng một hình thức bảng cân đối báo cáo

- Xác định số đầu kỳ, cuối kỳ, tỷ trọng theo mẫu sau:
Chỉ tiêu

Đầu kỳ

Cuối kỳ

Cuối kỳ so với đầu
kỳ


Lượng

Tỷ trọng

Lượng

Tỷ trọng

Lượng

Tỷ trọng

I : Tài sản
II. Nguồn vốn
- Phân tích và đánh giá tình hình thực tế kết cấu vốn và tài sản của
doanh nghiệp
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn:
Là đánh giá, xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên
bảng CĐKT về vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp. sự thay đổi

được thể hiện ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc sau:
- Sử dụng vốn là tăng tài sản, giảm vốn
- Vốn là giảm tài sản, tăng vốn
- Vốn và sử dụng vốn phải cân đối với nhau
Bước cuối cùng là tiến hành sắp xếp các chỉ tiêu về nguồn vốn và sử
dụng vốn theo trình tự nhất định tùy theo mục đích phân tích và được phản
ánh theo biểu mẫu sau:
Chỉ tiêu
1. Sử dụng vốn
..............
Cộng sử dụng vốn
2. Vốn
……………..
Cộng vốn

Số tiền

Tỷ trọng

Phân tích diễn biến vốn và sử dụng vốn cho biết trong một chu kỳ kinh
doanh vốn của doanh nghiệp tăng (giảm) bao nhiêu? Các chỉ tiêu nào ảnh
hưởng chủ yếu đến sự tăng (giảm) đó? Trên cơ sở phân tích doanh nghiệp sẽ
có giải pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.


1.1.4.4 Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
Mục đích của phân tích báo cáo KQKD là xác định mối liên hệ và đặc
điểm các chỉ tiêu trong báo cáo KQKD, đồng thời so sánh chúng qua một số
niên độ kế toán liên tiếp và với số liệu trung bình ngành (nếu có) để đánh giá
xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp so

với doanh nghiệp khác.
Các chỉ tiêu sẽ được thể hiện trong mẫu bảng phân tích KQKD như sau:
Năm N-1
Chỉ tiêu

Năm N

Năm N so với
năm N-1

Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng

Tỷ
trọng

1. Doanh thu
2. Giá vốn hàng bán
3. Lãi gộp
4. Chi phí bán hàng
và quản lý
5. Lợi nhuận trước
thuế và lãi vay
6. Lợi nhuận trước
thuế
7. Thuế thu nhập
doanh nghiệp
8. Lợi nhuận sau thuế
1.1.4.3 Phân tích các chỉ số tài chính
Các chỉ số tài chính chủ yếu thường được chia thành 4 nhóm sau đây:
Tỷ số về khả năng thanh toán

Nói đến khả năng thanh toán là nói đến khả năng trả nợ, đặc biệt là khả
năng trả những món nợ đến hạn. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt,
sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động được tình hình tài chính, xử lý tốt các mối


quan hệ trong kinh doanh. Có 4 chỉ tiêu chính thường để đánh giá khả năng
thanh toán của doanh nghiệp, để đánh giá một cách chính xác và khách quan
thì cách thông thường mà các nhà phân tích tài chính vẫn làm đó là kết hợp
phân tích cả 4 chỉ tiêu đó là chỉ tiêu vốn lưu động ròng, khả năng thanh toán
hiện hành, khả năng thanh toán nhanh và tỷ lệ dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu
động ròng. Các xác định cụ thể từng chỉ tiêu như sau:
Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn
Phân tích vốn lưu động ròng của doanh nghiệp nhằm đánh giá khả năng
trả những món nợ ngắn hạn từ tài sản lưu động thông thường vốn lưu động
ròng của doanh nghiệp luôn lơn hơn 0, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đó
có khả năng thanh toán các món nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động của mình.
Nếu vốn lưu động ròng của một doanh nghiệp nhỏ hơn 0 thì doanh nghiệp đó
mất khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
Khả năng thanh toán hiện hành (Rc) =
- Hệ số này nói lên việc công ty có nhiều khả năng đáp ứng việc thanh
toán nợ ngắn hạn vì công ty dễ dàng chuyển từ tài sản lưu động khác về tiền
mặt. Một đồng vốn nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu giá trị tài sản
lưu động để thanh toán.
- Hệ số này cũng thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành,
thông thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ
số này > 0,5 lần vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không
cần đến các nguồn thu hay doanh số bán.
Về mặt bản chất hai chỉ tiêu vốn lưu động ròng và khả năng thanh toán
hiện hành là giá trị so sánh (tương đối và tuyệt đối) giữa tài sản lưu động với
nợ ngắn hạn. Kết hợp cả hai giá trị so sánh tương đối và tuyệt đối cho phép

đánh giá chuẩn xác về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.


Khả năng thanh toán nhanh (Rq) =
- Hệ số này cũng thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành,
thông thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ
số này > 0,5 lần vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không
cần đến các nguồn thu hay doanh số bán.
- Nguyên tắc cơ bản về mặt lý thuyết đối với tỷ số thanh toán nhanh
được đưa ra theo tỷ lệ 1:1. Nếu tỷ lệ thanh toán nhanh quá lớn (lớn hơn 1 quá
nhiều) chứng tỏ doanh nghiệp đó chưa tối ưu hóa hiệu quả đầu tư, nếu tỷ số
này quá bé (quá bé hơn 1) chứng tỏ doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong các
mối quan hệ kinh tế do thanh toán không được đảm bảo đủ bởi các tài sản có
khả năng thanh toán nhanh. Tuy nhiên, không có cơ sở để yêu cầu chỉ số này
phải lớn hơn 1 vì trong các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ đến
hạn ngay thì mới có nhu cầu thanh toán nhanh, những khoản chưa đến hạn
thanh toán chưa có nhu cầu phải thanh toán ngay.
Ngoài ra có thể tham khảo tỷ số sau:
Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng:
Tỷ số về khả năng cân đối hoặc cơ cấu vốn
Khi phân tích khả năng cân đối vốn các nhà phân tích tài chính thường sử
dụng 3 tỷ số sau:
-

Tỷ số nợ (Rd)

(1)

-


Tỷ số

-

Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi:

(2)


Tỷ số (1) cho chúng ta thấy được nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối
với các chủ nợ trong việc góp vốn. Đối với các chủ nợ thì họ thích tỷ số này
vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường
hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trái lại, các chủ sở hữu doanh nghiệp lại thích
tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm
soát doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu tỷ số này quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Tỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản
của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để sử dụng đầu tư vào
các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định và tài sản lưu động. Do đó các
nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài
sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng
tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính
toán tỷ số này để xem khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
- Vòng quay tiền =
- Vòng quay dự trữ (tồn kho) (Ri) =
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Tỷ số về khả năng sinh lãi
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =

Chỉ số này phản ánh lợi nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu
ROA =
ROA là hệ số tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của
một đồng vốn đầu tư. ROA cho biết cứ một đồng tài sản thì công ty tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận và ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty.
Hệ số này càng cao thì cổ phiếu càng có sức hấp dẫn hơn vì hệ số này
cho thấy khả năng sinh lợi từ chính nguồn tài sản hoạt động của công ty.


Tỷ lệ thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (Doanh lợi vốn chủ sở
hữu) ROE.
ROE =
ROE cho biết một đồng vốn tự có tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh của công ty càng mạnh và cổ phiếu của
công ty càng hấp dẫn, vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lời và tỷ suất lợi
nhuận của công ty, hơn nữa tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục
tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính của công ty.
1.1.4.5

Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian

Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ
những đánh giá về trạng thái tĩnh với đánh giá về trạng thái động để đưa ra
một bức trang toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu trạng
thái tĩnh được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán thì trạng thái động (sự dịch
chuyển của các dòng tiền) được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng
vốn (Bảng tài trợ) qua báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài
chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động
ròng, về nhu cầu vốn lưu động từ đó có thể đánh giá những thay đổi về ngân
quỹ của doanh nghiệp. Như vậy giữa các Báo cáo tài chính có mối liên quan

rất chặt chẽ. Những thay đổi trên Bảng cân đối kế toán được lập đầu kỳ và
cuối kỳ cùng với khả năng tự tài trợ được tính từ Báo cáo kết quả kinh doanh
được thể hiện trên bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quỹ của doanh
nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định,
người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi
tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh, điểm yếu của doanh


nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số rất có ý nghĩa về
hoạt động, cơ cấu vốn…của doanh nghiệp.
Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán
Thu nhập trước khấu hao và lãi = Lãi gộp – Chi phí bán hàng, quản lý
(không kể khấu hào và lãi vay)
Thu nhập trước thuế và lãi = Thu nhập trước khấu hao và lãi - Khấu hao
Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi – Lãi vay
Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp
Trên cơ sở đó, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức
tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt
động của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với
các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của
doanh nghiệp.
Một số chú ý khi phân tích tài chính doanh nghiệp: một là, nếu chúng ta
sử dụng chỉ số tài chính một cách riêng biệt có thể đưa ra một nhận định sai
lầm vì vậy việc phân tích chỉ số tài chính chỉ có hiệu quả cao nhất khi sử dụng
đồng bộ các tỷ số tài chính để tạo ra một bức tranh toàn cảnh rõ ràng nhất về
công ty.
Hai là, tài liệu dùng để phân tích tài chính là báo cáo tài chính có bản
chất tĩnh và mang tính lịch sử, đây lại là số liệu lấy theo giá trị sổ sách khác
với giá thị trường, nguyên tắc kế toán nhiều khi che đậy khuyết tật hoặc thổi

phồng giá trị thành tích không đúng với giá trị thật của nó. Vì vậy các tỷ số
tài chính không bao giờ được coi là một sự kết thúc mà đúng hơn phải được
coi là sự hướng dẫn cho tương lai.
Ba là, cẩn thận khi so sánh tỷ số tài chính giữa các công ty, cũng như
không thể coi tỷ số trung bình của ngành là một chuẩn mực để cố gắng đạt
tới, bởi vì mỗi công ty có đặc điểm riêng về công nghệ, cơ cấu đầu tư, chính


sách tài chính, kết cấu sản phẩm, chiến lược kinh doanh … và nhất là có sự
khác nhau cách nhìn nhận về các tỷ số tài chính. Do vậy nên chọn các công ty
cùng ngành, có quy mô tương đương để so sánh và sự so sánh này cũng chỉ
mang tính tham khảo.
Tuy vậy thông qua việc phân tích chỉ số tài chính đặc trưng, các nhà
đầu tư có thể đọc được rất nhiều điều tiềm năng, sự yếu kém, xu hướng phát
triển, hiệu quả hoạt động, quá trình sinh lời… của công ty để đưa ra quyết
định đầu tư khôn ngoan.
1.1.5 Phân tích các đòn bẩy của doanh nghiệp
Bên cạnh bốn nhóm chỉ tiêu tài chính quan trọng, các đòn bẩy tài chính
là cũng là công cụ hiệu quả để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Dựa vào sự đánh giá các đòn bẩy nhà quản lý hoạch định cơ cấu đầu tư cũng
như cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Đòn bẩy hoạt động (DOL)
Đòn bẩy hoạt động đo lường sự thay đổi của tỷ lệ % lợi nhuận trước thuế và
lãi (EBIT) khi doanh thu thay đổi 1%.
DOL = % ∆ EBIT / % ∆ Doanh thu

Q( P − V )

hay DOL = Q( P − V ) − F


Trong đó:
F là chi phí cố định của doanh nghiệp bao gồm chi phí quản lý, khấu
hao, chi phí thuê tài sản dài hạn, phí bảo hiểm, chi phí bảo trì TSCĐ.
V là chi phí biến đổi là chi phí biến đổi của doanh nghiệp bao gồm: chi
phí lương nhân công trực tiếp, chi phí nguyên – nhiên liệu, hoa hồng bán hàng
và một số chi phí bảo trì thay đổi theo sản lượng.


Đòn bẩy hoạt động cho biết cách thức sử dụng chi phí của doanh
nghiệp, các doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí cố định (F) cao thì lợi nhuận rất
nhạy cảm với sự thay đổi của doanh thu. Điều này đồng nghĩa rủi ro hoạt
động của doanh nghiệp lớn so với các doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí cố định
thấp tuy nhiên cần lưu ý các doanh nghiệp phải vượt qua điểm hòa vốn thì sử
dụng đòn bẩy mới có hiệu quả.
Đòn bẩy tài chính (DFL)
Đòn bẩy tài chính đo lường tỷ lệ thay đổi của EPS (thu nhập vốn cổ
đông) do sự thay đổi của 1% lợi nhuận trước thuế và lãi (EBIT).
Q( P − V ) − F

DFL = % ∆ EPS / % ∆ EBIT hay DFL = Q( P − V ) − F − R
Trong đó R là chi phí trả lãi.
Đòn bẩy tài chính cho ta biết tác động của việc sử dụng nợ đối với thu
nhập vốn cổ phần của doanh nghiệp. Công thức DFL cho thấy nếu doanh
nghiệp sử dụng nợ, do được hưởng phần tiết kiệm thuế nhờ lãi vay sẽ
khuyếch đại được thu nhập vốn cổ phần (EPS).
Đòn bẩy tổng hợp (DTL)
Đòn bẩy tổng hợp đo lường độ nhảy cảm của thu nhập vốn cổ phần
(EPS) khi doanh thu thay đổi 1%.
Q( P − V )


DTL = DOL x DFL = Q( P − V ) − F − R
Đòn bẩy hoạt động là đòn bẩy ở giai đoạn đầu còn đòn bẩy tài chính là
đòn bẩy ở giai đoạn sau. Tức là, khi doanh nghiệp xác định được cơ cấu chi
phí hoạt động tối ưu, doanh nghiệp có thể sử dụng đòn bẩy tài chính như một
công cụ để tăng thu nhập vốn cổ phần.


Nghiên cứu 3 cấp độ đòn bẩy có thể giúp nhà quản lý đánh giá được
mức độ và loại rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Nếu chi phí cố định
chiếm tỷ trọng cao thì doanh nghiệp có nguy cơ đối mặt với rủi ro hoạt động,
còn nếu doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ sẽ phải đối mặt với rủi ro tài chính.
Đối với doanh nghiệp có mức độ rủi ro hoạt động cao thì không nên tài trợ
bằng nợ quá nhiều nếu không muốn tạo ra rủi ro lớn cho doanh nghiệp.
1.2 Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp
Chất lượng là một khái niệm trừu tượng, đã có rất nhiều khái niệm khác
nhau về chất lượng tùy thuộc vào các lĩnh vực khác nhau và tiêu chí đánh giá
khác nhau. Quan điểm của hệ thống quản lý chất lượng ISO cho rằng: “Chất
lượng là mức độ của một tập hợp đặc tính vốn có của một thực thể đáp ứng
các yêu cầu của khách hàng”.
European Organization for Quality Control thì cho rằng: “ Chất lượng là
mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng”.
Chất lượng là khái niệm tương đối rộng, ngoài việc áp dụng đối với các
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà còn được áp dụng với các hoạt động, một quá
trình, một tổ chức tùy thuộc vào tiêu chí được đưa ra để đánh giá.
Trên cơ sở các khái niệm đưa ra về chất lượng, chúng ta có thể khái quát
và lựa chọn được khái niệm chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tốt
nhất như sau:
Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp được biểu hiện ở tập hợp
các tiêu chí đánh giá bao gồm thời gian phân tích, chi phí phân tích, quy
trình phân tích, nội dung phân tích, phương pháp phân tích nhằm đánh giá

chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp phục vụ cho việc ra các quyết
định tài chính tùy thuộc vào mục đích phân tích.


×