Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi Việt Nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 108 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của thời đại, xu hướng
này như một “vòng xoáy” lôi cuốn được hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các tổ chức
quốc tế, đặc biệt là Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Điều này sẽ ảnh hưởng
tới tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động trong nước. Lĩnh vực nhạy cảm nhất
và chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là lĩnh vực ngân hàng. Khi gia nhập WTO,
nghĩa là phải thực hiện các cam kết song phương, đa phương, mở cửa thị trường
tài chính ngân hàng, không hạn chế việc cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng
của các nhà cung cấp nước ngoài, tính cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ trở nên vô
cùng khốc liệt. Với năng lực hạn chế như hiện nay, các ngân hàng Việt Nam sẽ
phải đối mặt với những rủi ro lớn, và gây ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Điều
này đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình để không những đứng vững mà ngày càng phát triển hơn. Đặc biệt với
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) - một
ngân hàng cổ phần lớn với mục tiêu là sẽ trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu
Việt Nam thì vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Từ những nhận thức như
trên, đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi
Việt Nam gia nhập WTO” được chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu.
Hệ thống hóa lý luận về năng lực cạnh tranh của NHTM khi Việt Nam gia
nhập WTO. Trên cơ sở lý luận được hệ thống hóa, tiến hành phân tích, đánh giá
thực trạng năng lực cạnh tranh của Techcombank nhằm đánh giá những kết quả
đạt được và những mặt còn hạn chế. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của Techcombank.


2



3. Phạm vi và đối tượng của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là ngân hàng thương mại và các giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Số liệu thu thập và phân tích của Techcombank trong
giai đoạn từ 2005 – 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Dùng phương pháp điều tra, thu
thập thông tin, thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp và hệ thống hóa để làm rõ
các vấn đề nghiên cứu và đưa ra đánh giá cho luận văn.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Năng lực cạnh tranh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Techcombank.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi
Việt Nam gia nhập WTO.


3

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về cạnh tranh của NHTM.
1.1.1. NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM.
1.1.1.1. Khái niệm NHTM.

Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành, các lĩnh vực khác của nền

kinh tế. Ngân hàng tài trợ cho Chính phủ để đầu tư phát triển và thực hiện các
chính sách kinh tế mà chủ yếu là chính sách tiền tệ nhằm điều tiết nền kinh tế
phát triển một cách ổn định. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động của ngân hàng
có ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng thương mại, có thể định nghĩa
về ngân hàng thương mại trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp:
“Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế”
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều
hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt động đó theo 3 nhóm hoạt động
cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn
và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính.
a. Hoạt động huy động vốn.
Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình thành dựa trên
nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ tài chính của ngân
hàng. Nguồn vốn này có quy mô rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số


4

nguồn vốn, sự vận động lại phức tạp nên việc sử dụng rất mạo hiểm, cần phải
thận trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời
gian xác định sẽ được gửi vào ngân hàng sau một thời gian nhất định để hưởng
lãi suất tương ứng với kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi suất tiền gửi thanh
toán).

Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong
dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời và an toàn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng
phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ sung trong quá trình hoạt động.
Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị,
nhà cửa cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải trả lãi, tuy nhiên
chi phi để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví dụ như nguồn uỷ thác...
b. Hoạt động sử dụng vốn.
* Các hoạt động về ngân quỹ:
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà nước yêu cầu các
ngân hàng thương mại nộp vào tài khoản tại ngân hàng Nhà nước nhằm mục
đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng thương mại, vận hành
chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động ngân hàng thương mại.
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại quỹ, các
khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của ngân hàng thương mại là tài sản không sinh lời
(hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các ngân
hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính thanh khoản cao nhất, đáp


5

ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân
quỹ ở mức thấp nhất có thể được.
* Cho vay: là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác
trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc lẫn lãi. Cho vay là khoản mục
có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất nhiều loại hình cho
vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư hay các doanh nghiệp.
* Các hoạt động đầu tư: Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho người khác

dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ vốn góp. Có
nhiều hình thức đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư
dưới dạng liên doanh với nhau để hình thành các ngân hàng liên doanh.
* Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài trợ cho sự
phát triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
c. Cung cấp dịch vụ tài chính trung gian.
* Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả tiền
cho một người nào đó.
* Thanh toán không dùng tiền mặt: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng,
ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng.
Người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi
trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các hình
thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán bù trừ, sec, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng thẻ...
* Cung cấp các dịch vụ tài chính:
Dịch vụ ủy thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân
hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh
nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Nhiều khách hàng
còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính.


6

Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường
hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng
khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng là rất
lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của

mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ
chức tín dụng khác...
1.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.1.2.1. Nội dung cạnh tranh giữa các NHTM.
Môi trường hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM)
có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt động
kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền
kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng. Đó là:
Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau: Cũng như bất kỳ
một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân
hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút
khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính chất gay gắt trong cạnh
tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là có tính
tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh tranh, các ngân hàng
không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch
vụ ngân hàng,... mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm
dịch vụ, đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản phẩm,
dịch vụ, tinh thần, thỏi độ phục vụ khách hàng...
Bên cạnh đó, do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu
cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, lại các ngân hàng


7

cũng phải liên kết với nhau để cùng cung cấp một hay một số sản phẩm, dịch vụ
nhất định cho khách hàng. Vì vậy, để tránh đổ vì toàn hệ thống cũng như tiết
kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh
với nhau, một mặt, lại hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm
dịch vụ cho khách hàng.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh,

tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM phải cạnh tranh lành mạnh
thông qua cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại nếu các ngân hàng cạnh tranh không lành
mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi
suất cho vay, phí dịch vụ, nới láng các điều kiện tín dụng... sẽ làm cho nguồn thu
của các ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi
ro hệ thống. Vì vậy, mặc dự cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn
liên kết với nhau, có thể thoả thuận để giữ mặt bằng giá cả phù hợp, đảm bảo lợi
ích chung.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan rất lớn. Nếu một ngân
hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang
mang cho khách hàng gửi tiền tại các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả
năng đổ vì mang tính hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác
động đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như môi
trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư… Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào,
ngân hàng hoạt động và cạnh tranh với nhau trong những môi trường và điều kiện
kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của luật
pháp, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những
đối tượng khách hàng cụ thể.


8

- Khách hàng của ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần
của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài ngân hàng.
Với mỗi môi trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực
địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đưa ra các sản

phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế
trong cạnh tranh.
- Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế, sự giao thoa về kinh tế
giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng cường hợp tác với
các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra
thị trường các nước trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các NHTM trong
nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự tác động
của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá, lãi suất của các loại ngoại tệ liên
quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước… đều ảnh
hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy,
trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để đối
phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
1.1.2.2. Những công cụ cạnh tranh của NHTM.
Ngân hàng thương mại thực chất là một doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các
ngân hàng thương mại là một tất yếu. Cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
thể hiện ở những khía cạnh như sau:
Gia tăng các sản phẩm dịch vụ mới tiện ích: Các sản phẩm dịch vụ, nhất là
dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền
kinh tế.
Cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động nhất là phát triển thị trường dịch vụ ngân
hàng bán lẻ hiện đại trong dân cư và cung cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM


9

đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở
rộng phạm vi phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm cả các loại thẻ tín
dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, nhất là những người có thu
nhập khá, doanh nghiệp có đông người lao động, giới trẻ. Cũng với xu hướng đa

dạng dịch vụ mới, các NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi
suất, giá hàng xuất khẩu bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng.
Cải tiến hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Thị trường công nghệ ngân
hàng đang hứa hẹn rộng mở và phát triển mạnh trong thời gian tới khi các ngân
hàng trong nước đẩy mạnh phát triển các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công
nghệ, nhằm tăng cường cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không
ngần ngại bỏ ra hàng triệu đôla mua phần mềm của nước ngoài với các công nghệ
mới để tăng sức cạnh tranh. Với thế mạnh vượt trội của các loại công nghệ sẽ
tăng khả năng cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người dân.
Nâng cao năng lực tài chính: Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện
rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay còn được gọi là vốn tự có.
Vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một NHMT, là “tấm nệm
chống đỡ rủi ro“. Các ngân hàg thương mại đang chạy đua và tìm mọi cách để
tăng vốn tự có nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và bảo vệ các ngân
hàng thương mại trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền).
1.2.2.3. Lợi ích của cạnh tranh giữa các NHTM.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại sẽ làm thu hẹp chênh lệch lãi
suất cho huy động và cho vay; đa dạng hoá dịch vụ; tạo sức ép áp dụng công
nghệ ngân hàng hiện đại… từ đó tạo ra các sản phẩm dịch vụ tiện ích với các chi
phí đáp ứng với đòi hỏi của người tiêu dùng.
1.2. Năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh.


10

Theo Michael Porter, “Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp
phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất
thấp hơn, hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức
giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày

càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp
những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất
cao hơn”.
Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp và là doanh nghiệp đặc
biệt vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng là cạnh tranh trong nội bộ nghành. Từ những quan điểm trên, áp dụng
đối với các ngân hàng thương mại thì các nhà nghiên cứu cho rằng: “Năng lực
cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát
triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận
cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt
động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động
bất lợi của môi trường kinh doanh”.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính.
a. Uy tín và thương hiệu của NHTM.
Uy tín và thương hiệu của ngân hàng là những dấu hiệu (hữu hình và vô
hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm dịch vụ nào đó được cung cấp bởi một
NHTM. Thương hiệu là một loại tài sản của NHTM, thường được cấu thành từ một
cái tên, hay các chữ, các cụm từ, một logo, một biểu tượng, một hình ảnh hay sự
kết hợp của các yếu tố trên. Uy tín và thương hiệu được thể hiện số năm hoạt
động và chất lượng dịch vụ mà một NHTM cung cấp cho khách hàng. Một ngân
hàng thương mại được gọi là có thương hiệu khi được nhiều khách hàng thừa
nhận và đánh giá cao về chất lượng dịch vụ.


11

b. Năng lực công nghệ
Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là
một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi

ngân hàng. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính
tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút
tiền tự động ATM… Công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng còn bao gồm hệ thống
thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo rủi ro… trong nội bộ ngân hàng. Khả
năng nâng cấp và đổi mới công nghệ của các ngân hàng thương mại cũng là chỉ
tiêu phản ánh năng lực công nghệ của một ngân hàng. Vì với tốc độ phát triển rất
nhanh của ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ lĩnh vực ngân hàng
nói riêng, nếu chỉ tập trung phân tích vào khả năng công nghệ hiện tại mà không
chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi trong tương lai thì sẽ rất dễ có những
nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ của các ngân hàng. Vì thế, năng lực
công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn
bao gồm cả khả năng mở (nghĩa là khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại
về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế.
c. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp
cũng như ngân hàng nào. Năng lực cạnh của nguồn nhân lực của một doanh
nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành
thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp.
Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân
hàng, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới. Trình độ, hay kỹ
năng của người lao động là những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng của
nguồn nhân lực. Động cơ phấn đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ
tiêu quan trọng phản ánh một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực
của mình hay không.


12

Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và
trình độ cao được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ

lưu chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn
nhân lực. Quá trình tuyển dụng và đào tạo một chuyên viên ngân hàng thường rất
tốn kém cả về thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc
biệt là chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh
giá khả năng duy trì một đội ngũ nhân sự chất lượng cao của một ngân hàng.
d. Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức
Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng
như Ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi
phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc cũng như
Hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng, chất
lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh
doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực
quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một Hội đồng
quản trị hay một Ban giám đốc yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính
sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị trường… sẽ làm
lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó.
Năng lực quản lý của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc bị chi phối
bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu
quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù
hợp với quy mô trình độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh
tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của một
ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng, các bộ phận tác
nghiệp, các đơn vị trực thuộc… Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh
ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn


13

phụ thuộc vào mức độ phối hợp giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển

khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích
nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay những biến
động trong môi trường vĩ mô…
e. Hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp
Hệ thống kênh phân phối luôn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động
của các ngân hàng thương mại. Hệ thống kênh phân phối của ngân hàng thương
mại được thể hiện ở số lượng các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc khác (như
sở giao dịch) và sự phân bổ các chi nhánh theo địa lý lãnh thổ. Việc triển khai các
công nghệ ngân hàng hiện đại đang làm rút ngắn khoảng cách về không gian và
làm giảm tác động của một mạng lưới chi nhánh rộng khắp đối với năng lực cạnh
tranh của một ngân hàng. Tuy nhiên, vai trò của một mạng lưới chi nhánh rộng
lớn vẫn rất có ý nghĩa, đặc biệt là trong điều kiện các dịch vụ truyền thống của
ngân hàng vẫn còn phát triển. Hiệu quả của mạng lưới chi nhánh rộng cũng là
một chỉ tiêu quan trọng, thể hiện thông qua tính hợp lý trong phân bố chi nhánh ở
các vùng, miền cũng như vấn đề quản lý, giám sát hoạt động của các chi nhánh.
Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cũng là một chỉ tiêu phản ánh
năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Một ngân hàng có nhiều loại hình dịch
vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ
là một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một mặt tạo
cho ngân hàng phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi
thế nhờ quy mô. Tất nhiên, sự đa dạng hoá các dịch vụ cần phải được thực hiện
trong tương quan so với các nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu không, việc
triển khai quá nhiều dịch vụ có thể khiến ngân hàng kinh doanh không hiệu quả
do dàn trải quá mức các nguồn lực.


14

1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng.
Đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, vấn đề đầu

tiên thường được quan tâm là tiềm lực tài chính của ngân hàng đó. Tiềm lực tài
chính được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, ở đây chỉ đưa ra một số chỉ tiêu
cơ bản nhất, đó là: Quy mô nguồn vốn, mức độ an toàn vốn và khả năng huy
động vốn, chất lượng tài sản, mức sinh lợi…
a. Quy mô nguồn vốn.
Quy mô nguồn vốn của một ngân hàng thương mại thể hiện trước hết ở
quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô vốn chủ sở hữu như là tấm đệm đảm bảo cho
mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước những rủi ro trong hoạt động ngân
hàng cũng như những rủi ro của môi trường kinh doanh. Vốn chủ sở hữu của các
ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng chống đỡ cao hơn đối với
những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng trở nên quan
trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh có những biến động khôn lường, khi
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội
nhập như hiện nay, những rủi ro bất ngờ luôn tiềm ẩn. Vốn chủ sở hữu còn ảnh
hưởng tới khả năng đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì ngân hàng chỉ có thể sử
dụng vốn chủ sở hữu đầu tư vào công nghệ. Vì vậy, quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ
sẽ là một bất lợi. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định
khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Theo quy định của Basel, một tổ chức tài chính được gọi là đủ vốn khi hệ
số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio – CAR) đạt tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với
tổng tài sản “Có” rủi ro.

CAR =

Vố chủ sở hữu
Tổng tài sản điều chỉnh"Có" rủi ro


15


b. Chất lượng tài sản có và mức sinh lời.
Chất lượng tài sản: phản ánh “sức khoẻ” của một ngân hàng. Chất lượng
tài sản được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản,
mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và
đa dạng hoá của danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn.
Mức sinh lợi: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng, đồng
thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ tiêu mức
sinh lợi có thể được phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt
đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận
(cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt động kinh doanh thông
thường hay từ các khoản thu nhập bất thường), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản
có (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), các chỉ tiêu về mức sinh
lợi trong mối tương quan với chi phí. Trong số các chỉ tiêu này, hai chỉ tiêu
thường được quan tâm để đo lường kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng
là ROA, ROE.
Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):

ROA =

Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản

* 100%

Chỉ tiêu trên cho thấy khả năng bao quát của hoạt động ngân hàng thương mại
trong việc tạo thu nhập từ tài sản. Các ngân hàng thường sử dụng ROA để đo lường
mối quan hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn bởi vì một bộ phận nguồn vốn được sử
dụng tạo nên tài sản không sinh lãi và có một bộ phận tài sản không sinh lãi lại tham
gia tạo nên thu nhập cho ngân hàng. Do vậy nếu ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng thương mại tốt, cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên nếu ROA quá

lớn làm cho các nhà quản trị lo lắng vì rủi ro nhìn chung luôn đi song hành với lợi
nhuận.


16

Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE):

ROE =

Lợi nhuận ròng
VCSH

* 100%

ROE là chỉ tiêu được các ngân hàng quan tâm đến nhiều nhất, cho thấy khả
năng sinh lời từ một đồng vốn của chủ, số lợi nhuận ròng mà một cổ đông có
được. Do vậy, các ngân hàng luôn cố gắng tăng chỉ tiêu ROE để tăng tính hấp
dẫn đối với các cổ đông bằng phương pháp như: kiểm soát chi tiêu, đầu tư, quản
lý rủi ro có hiệu quả… Tuy nhiên, việc tăng ROE quá cao so với ROA chứng tỏ
nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn và do
vậy ảnh hưởng đến mức độ lành mạnh trong hoạt động của ngân hàng thương
mại.
Khả năng thanh khoản là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu
cầu thanh toán tiền của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản
và tính thanh khoản của nguồn vốn.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng được thể hiện thông qua các chỉ tiêu
như tỷ lệ khả năng chi trả (tài sản có có thể thanh toán ngay trên tài sản nợ phải
thanh toán ngay), khả năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, đánh
giá định tính về năng lực quản lý thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc

biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Việc quản lý rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng thương mại là rất quan
trọng. Sự thiếu hụt của một ngân hàng đơn lẻ có thể có những tác động nghiêm
trọng đến toàn hệ thống ngân hàng. Trong điều kiện bình thường, những ngân
hàng không xây dựng được cho mình một chiến lược hiệu quả để duy trì thanh
khoản đầy đủ thì tình hình khó khăn về nguồn vốn sẽ ảnh hưởng xấu đến kế
hoạch kinh doanh của ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế bị rơi vào khủng
hoảng hay khi ngân hàng bị những tin đồn thất thiệt đe dọa đến uy tín của ngân


17

hàng thì ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng khủng hoảng về khả năng thanh
toán. Chi phí cơ hội của một tỷ lệ thanh khoản cao là việc bớt đi những cơ hội sử
dụng nguồn vốn huy động được cho một cơ hội kinh doanh sinh lời như cho vay,
mua cổ phiếu… Vì thế, các ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa chi phí thanh
khoản và rủi ro thanh khoản để xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro thanh
khoản hiệu quả.
Để xây dựng được một chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả, đòi
hỏi các ngân hàng phải có được hệ thống thông tin đầy đủ để đo lường, giám sát
và kiểm soát và báo cáo rủi ro thanh khoản. Bên cạnh đó, phải có một đội ngũ
chuyên viên có trình độ cao, giàu kinh nghiệm, có khả năng xây dựng được chiến
lược và các quy trình quản lý thanh khoản, có khả năng giám sát và phản ứng linh
hoạt trước những biến động bất thường trong cơ cấu tài sản nợ/có.
c. Thị phần.
Thị phần phán ánh quy mô hoạt động của NHTM trên thị trường và cũng là
yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của một NHTM. Thị phần của mỗi NHTM
trên thị trường được phán ánh qua số lượng khách hàng, số lượng dư nợ, số lượng
nghành nghề mà NHTM đó phục vụ.
d. Năng suất lao động của CBNV.

Năng suất lao động của CBNV phán ảnh hiệu quả sử dụng lao động của
mỗi NHTM và cũng là một yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của NHTM. Năng
suất lao động được thể hiện qua các chỉ tiêu như tổng tài sản bình quân/người, dư
nợ bình quân/người, lợi nhuận bình quân/người…
1.2.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM.
Để có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cần đưa ra
được một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này không chỉ phản ánh năng lực cạnh
tranh hiện tại mà còn phải phản ánh được khả năng duy trì và phát triển lợi thế cạnh
tranh của ngân hàng trong tương lai. Việc xác định được hệ thống các chỉ tiêu này


18

có ý nghĩa rất quan trọng cho mỗi ngân hàng để có định hướng xây dựng, khai thác
và phát triển lợi thế cạnh tranh của mình. Các chỉ tiêu định lượng như quy mô vốn
chủ sở hữu, chất lượng tài sản, mức sinh lời… có thể lượng hóa và đánh giá dễ
dàng. Tuy nhiên, đối với các chỉ tiêu định tính như: uy tín và thương hiệu, năng lực
công nghệ, nguồn nhân lực, năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức, hệ thống kênh phân
phối và mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp do không lượng hóa được nên sẽ
được đánh giá theo phương pháp chấm điểm. Chi tiết theo Phụ lục số 1 đính
kèm.
1.2.3. Các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của NHTM.
Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu tác động của nhiều nhân tố,
chính những nhân tố này đã ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng
lực cạnh tranh của ngân hàng. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng này thành hai
nhóm lớn: nhóm các nhân tố thuộc bản thân các NHTM và nhóm các nhân tố khách
quan.
Sơ đồ 1.1: Môi trường cạnh tranh của NHTM
Môi trường
kinh tế


MT chính phủ
luật pháp chính trị

MT công nghệ

Các NH
mới

Ban điều
hành

Ngân
hàng

Cơ sở vật
chất

MT văn hoá

Chất lượng
nguồn nhân lực

MT toàn cầu

MT tự nhiên


19


1.2.3.1. Các yếu tố thuộc bản thân các ngân hàng thương mại.
a. Ban điều hành.
Ban điều hành được hiểu ở đây là bao gồm từ Hội đồng quản trị/sáng lập
đến Ban tổng giám đốc/CEO. Đây là những người có vài trò điều hành chiến
lược, có tầm nhìn và định vị các mục tiêu lâu dài. Nhiệm vụ của nhà chiến lược
phải phân tích và phán đoán được năng lực của chính ngân hàng mình và các thế
lực cạnh tranh trong môi trường ngành để xác định các cơ hội và đe doạ đối với
ngân hàng mình.Vì vậy, nếu ban điều hành không nhận thức được áp lực cạnh
tranh trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay sẽ hết sức nguy hiểm đến sự tồn vong
của NHTM.
Tuy nhiên, chỉ nhận thức thôi thì chưa đủ, yêu cầu đặt ra là ban điều hành
phải huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện các kế hoạch nhằm biến các nhận
thức thành các hành động cụ thể. Các kế hoạch hành động vừa đảm bảo phù hợp
với nguồn lực của NHTM, thu được các kết quả tương ứng và phải phù hợp với
tốc độ thực hiện với các đối thủ khác, nếu không sẽ bị chậm hoặc tụt hậu so với
các đối thủ.
b. Chất lượng nguồn nhân lực.
Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ,
vì vậy có thể nói chất lượng nhân viên ngân hàng là một yếu tố quan trọng để tạo
nên sức mạnh tranh cạnh của các NHTM. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh
dù công nghệ có hiện đại tới đâu, dù có tự động hoá cao đến mức nào thì vẫn cần
có con người điều khiển, giám sát mọi hoạt động. Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ
(như lĩnh vực ngân hàng) thì vai trò của con người càng trở nên quan trọng vì quá
trình sản xuất diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ, sản phẩm dịch vụ được tạo
ra ngay trong quá trình giao tiếp, trao đổi giữa cán bộ, nhân viên ngân hàng với
khách hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ do chính các cán bộ, nhân viên đó


20


quyết định nên, do đó những cán bộ, nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng lớn tới
năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
c. Cơ sở vật chất và kỹ thuật
Trong thời đại ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ nói chung, công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng thì ngân
hàng nào có chính sách áp dụng công nghệ hiện đại, khả năng thích ứng công
nghệ mới cao và có thể kết hợp với công nghệ của các ngân hàng trong khu vực
và trên thế giới sẽ tạo ra cho khách hàng nhiều tiện ích, phục vụ khách hàng tốt
hơn, chính là đã tạo ra sức hấp dẫn đối với khách hàng.
Cơ sở vật chất còn được thể hiện qua mạng lưới các vị trí, đại điểm kinh
doanh, quy trình sản phẩm… Ở những nơi đông dân cư, gần nhưng trung tâm
thương mại lớn sẽ có nhiều khả năng tiếp cận với khách hàng hơn và ngược lại.
Quy trình sản phẩm tốt sẽ giúp khả năng xử lý các giao dịch nhanh chóng, chính
xác…
1.2.3.2. Các nhân tố khách quan.
Bên cạnh môi trường vi mô thì môi trường vĩ mô cũng có những tác động
tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, nói đến môi trường vĩ mô
nghĩa là bao gồm những môi trường cơ bản như: môi trường kinh tế, môi trường
văn hoá – xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường chính phủ, pháp luật và chính
trị.
a. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế có ý nghĩa đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Nếu coi
hệ thống ngân hàng như là một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là nền kinh tế
thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không, có đủ máu để lưu thông và chất
lượng máu cũng như hệ thống mao mạch có tốt hay không lại phụ thuộc vào cơ
thể sống đó. Cụ thể, bất kể một ngân hàng nào cũng thưòng quan tâm tới một số
chỉ tiêu như: tốc độ phát triển của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm


21


phát. Một nền kinh tế có tốc độ phát triển cao sẽ tạo cơ hội cho đầu tư mở rộng
hoạt động ngân hàng và ngược lại. Còn mức lãi suất sẽ quyết định tới mức cầu
cho doanh nghiệp, nên các ngân hàng thường đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn với
doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng mạnh đến hoạt
động kinh doanh ngân hàng, có thể đem lại cho ngân hàng một vận hội kinh
doanh tốt hoặc cũng có thể là nguy cơ phá sản. Tỷ lệ lạm phát cũng ảnh hưởng
tới hoạt động của ngân hàng thông qua việc ảnh hưởng tới sự nhiệt tình của các
nhà đầu tư đối với các dự án. Nghiên cứu các chỉ tiêu của môi trường kinh tế
cũng như chiều hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế là cơ sở quan trọng để
các nhà chiến lược ngân hàng hoạch định về chiến lược đầu tư, đổi mới của mình.
b. Môi trường văn hoá – xã hội:
Một số yếu tố về văn hoá – xã hội có thể ảnh hưởng tới năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại, cụ thể nó ảnh hưởng thông qua việc tác động tới
nhu cầu và nguồn nhân lực.
Những đặc điểm xã hội ảnh hưởng tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân
hàng đó là: lòng tin của dân chúng đối với các ngân hàng, thói quen tiêu tiền và
tiết kiệm của người dân, trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của
ngân hàng, mức thu nhập của người dân…
Có thể nói ngân hàng là ngành kinh doanh “lòng tin”. Ngân hàng là người
giữ tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, ngân hàng chính là người giữ
hầu bao của nền kinh tế. Nếu ngân hàng không tạo được niềm tin trong dân
chúng thì chắc chắn hoạt động ngân hàng sẽ không thể tồn tại. Thói quen tiêu
dùng của người dân ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt
là tập quán sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có thói quen sử dụng tiền mặt nhiều
thì rõ ràng ngân hàng sẽ bị hạn chế trong kinh doanh. Mức tiết kiệm của người
dân càng cao càng ảnh hưởng đến nguồn cung ứng tín dụng cho các ngân hàng.
Trình độ dân trí cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng



22

dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng là một loại dịch vụ cao cấp, không phải ai
cũng tự tin để giao dịch với ngân hàng. Trình độ dân trí càng cao thì khả năng
phổ biến các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận lợi, dễ dàng và có cơ hội để
đổi mới của ngân hàng cũng sẽ cao hơn. Mức thu nhập của người dân sẽ là yếu tố
quyết định tới nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng, thu nhập có cao thì người
dân mới có khả năng tiếp cận cũng như là có nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân
hàng và ngược lại.
Bên cạnh đó, một số đặc điểm văn hoá – xã hội ảnh hưởng tới nguồn nhân
lực trong lĩnh vực ngân hàng như: quan điểm về doanh nhân và kinh doanh, quan
điểm về sự giàu có, quan điểm về thăng tiến, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp,
quan điểm về học tập và tự đào tạo, quan điểm về sự gắn bó với nghề nghiệp,
quan điểm về rủi ro và thất bại…
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp. Một đất nước phải coi trọng
doanh nghiệp và doanh nhân thì các doanh nghiệp nước đó mới có điều kiện
thuận lợi để phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng còn là một ngành dịch vụ đòi hỏi
nguồn nhân lực phải có trình độ nhất định, sự thành công của ngân hàng đòi hỏi
phải có những cá nhân xuất sắc, có tham vọng kinh doanh, làm giàu và thăng
tiến. Nếu một đất nước mà người dân coi trọng những giá trị trên thì những người
có những phẩm chất đó sẽ có điều kiện phát triển và ngân hàng có nhiều cơ hội
để tuyển chọn được nguồn nhân lực có nhiều phẩm chất đối với sự phát triển của
mình. Ngân hàng đồng thời cũng là ngành chịu nhiều rủi ro nhất, vì thế những
nhân viên ngân hàng phải là những người có khả năng phát hiện và đánh giá được
rủi ro, dám chấp nhận rủi ro, đồng thời là người có sự thận trọng cần thiết, tôn
trọng các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Coi trọng đạo đức cũng là một phẩm
chất quan trọng đối với các nhân viên ngân hàng. Việc coi trọng đạo đức là cơ sở
để ngân hàng giữ chữ tín đối với khách hàng, là chỗ dựa cho niềm tin của công
chúng đối với ngân hàng. Một xã hội coi trọng đạo đức cũng là một điều kiện



23

thuận lợi đối với việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. Do sự đòi hỏi
về mức độ tích luỹ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nên tập quán về sự gắn bó
với nghề nghiệp cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu người dân ở một nước có
thói quen ít thay đổi chỗ làm việc và thường gắn bó với một doanh nghiệp nào đó
trong một thời gian dài thì các ngân hàng nước đó sẽ có lợi thế trong việc duy trì
và liên tục nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên của mình, trên cơ sở đó để nâng
cao lợi thế cạnh tranh. Rất nhiều mảng hoạt động của ngân hàng đòi hỏi người
lao động phải có trình độ cao và kinh nghiệm tích luỹ liên tục. Ngân hàng cũng là
một ngành có tốc độ đổi mới và cải tiến rất cao, vì vậy khả năng tự học, tự đào
tạo của các nhân viên sẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì và nâng cao
lợi thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Một xã hội coi trọng việc học tập, rèn
luyện cũng là một lợi thế đối với ngành ngân hàng của nước đó.
c. Môi trường tự nhiên:
Môi trường tự nhiên bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng tới ngân hàng như:
môi trường khí hậu, sinh thái, tổng dân số, tỷ lệ phát triển dân số, xu thế thay đổi
về nhân khẩu học hay vị trí địa lý mà ngân hàng có trụ sở hay chi nhánh…
Môi trường khí hậu ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp và đời sống của các cá nhân, tổ chức – khách hàng của ngân hàng,
từ đó ảnh hưởng tới chính hoạt động của ngân hàng.
Môi trường dân số cũng là một yếu tố rất đáng quan tâm, các thông tin về
tổng số dân, tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc dân cư… sẽ giúp ngân hàng có thể dự
đoán về thị trường hiện tại cũng như tương lai của ngân hàng. Căn cứ vào những
thông tin trên, ngân hàng xác định được đoạn thị trường mục tiêu của mình để có
những chiến lược, chính sách cụ thể cho phù hợp nhằm nâng cao lợi thế cạnh
tranh của ngân hàng đó.
Vị trí của các ngân hàng cũng rất quan trọng, vì một trong những đặc tính
của ngành dịch vụ là sản phẩm dịch vụ không nhìn thấy, chất lượng sản phẩm



24

dịch vụ đó như thế nào tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Cái mà khách hàng nhìn thấy
đầu tiên đó là cơ sở hạ tầng của ngân hàng, và vị trí địa lý của nó là một yếu tố
mà nhiều khách hàng quan tâm. Một ngân hàng đóng tại vị trí trung tâm rõ ràng
sẽ được nhiều khách hàng biết đến và chiếm được cảm tình ban đầu của họ. Đây
chính là một lợi thế mà các ngân hàng phải khai thác.
d. Môi trường chính phủ, pháp luật và chính trị:
Chính phủ có vai trò quan trọng đối với bất kì một ngành nào, đặc biệt đối
với ngành ngân hàng – người thủ quỹ của toàn nền kinh tế.
Chính phủ tác động đến sự phát triển của ngân hàng trước hết với vai trò
của người quản lý, giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của Ngân hàng
Trung ương. Sự hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương
mại là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở một quốc gia. Do mối liên kết
rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại, sự đổ vỡ của một ngân
hàng thưòng gây ra những hậu quả rất to lớn và có khả năng gây ra hiệu ứng lan
truyền lên toàn bộ hệ thống. Hơn nữa ngành ngân hàng có mối quan hệ mật thiết
với tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng sẽ
gây khó khăn cho tất cả các ngành đó. Vì thế, hoạt động của các ngân hàng
thương mại phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ của các cơ quan nhà
nước nói chung và của ngân hàng trung ương nói riêng.
Ngoài chức năng của một người quản lý, giám sát các hoạt động của hệ
thống ngân hàng, chính phủ còn là chủ sở hữu, là con nợ và chủ nợ lớn, thậm chí
lớn nhất của các ngân hàng thương mại. Chính phủ cũng đồng thời là người
hoạch định đường lối phát triển chung của toàn ngành và điều phối nỗ lực chung
của toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ có thể
có những chính sách tác động đến cung cầu, đến ổn định kinh tế vĩ mô, đến các
điều kiện nhân tố sản xuất, các ngành liên quan và phụ trợ của ngành ngân hàng

để tạo thuận lợi hay kìm hãm sự phát triển của ngành ngân hàng. Đánh giá vai trò


25

của chính phủ trong việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng thương mại ở một nước vì vậy rất cần thiết.
Vai trò của Chính phủ thể hiện nhưng không giới hạn ở những nội dung: sự
đầy đủ, tính đồng bộ và hiệu lực thi hành của các quy định pháp luật, các chính
sách liên quan đến hoạt động ngân hàng, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại, vai trò của Chính phủ với tư cách là chủ sở hữu,
con nợ, chủ nợ của các ngân hàng thương mại, hiệu quả của các chính sách, các
biện pháp ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và các lĩnh vực liên quan…
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh nội tại của các ngân
hàng thương mại cũng như các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của một
ngân hàng thương mại của một nước như trình bày ở trên đã thể hiện tương đối
toàn diện năng lực cạnh tranh hiện tại cũng như khả năng duy trì và phát triển
trong tương lai của các ngân hàng thương mại.
1.3. Năng lực cạnh tranh của một số NHTM trên thế giới.
1.3.1. Ngân hàng CitiBank.
Citibank được thành lập từ năm 1812 với số vốn ban đầu là 2 triệu đô la
mỹ. Qua gần 200 năm phát triển, Citibank hiện là một trong những tập đoàn tài
chính ngân hàng lớn nhất nước Mỹ và thế giới với vốn chủ sở hữu khoảng 113 tỷ
đô la mỹ, Citigroup cung cấp một hệ thống dịch vụ vô cùng đa dạng và phong
phú cho khách hàng của mình, bao gồm cả khách hàng là cá nhân và doanh
nghiệp.
Các dịch vụ dành cho khách hàng là cá nhân: Các dịch vụ mà Ngân hàng
này cung cấp cho các khách hàng là khá đa dạng, bao gồm: Dịch vụ tài khoản
chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm, tài khoản tiết kiệm điện tử, tài khoản séc, tài khoản
dành cho sinh viên, dịch vụ qua mạng, dịch vụ không dây, tổng hợp tài khoản

trên mạng, tư vấn, phân tích nhu cầu tài chính, dịch vụ kết hợp ngân hàng và đầu
tư, dịch vụ ngân hàng cá nhân...


×