Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thủ tục thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện phú ninh, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ MINH TUYẾT

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ MINH TUYẾT

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số
: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ LÂM THI

HÀ NỘI, năm 2019




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án một khi đã được chấp hành nghiêm sẽ tác
động trực tiếp đến sự hài lòng và tin tưởng của người dân đối với pháp luật. Chính
vì thế, thi hành án là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để duy trì giữ vững
kỷ cương pháp luật, ổn định trật tự và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
thực thi quyền tư pháp độc lập, nghiêm túc trên thực tế. Để đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngoài chức năng của
cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án thì cơ quan THADS giữ một vai trò đặc
biệt và là một mắt xích khơng thể thiếu của q trình tố tụng. Mọi phán quyết của
Tòa án chỉ là những quyết định trên giấy và không thể phát huy hết hiệu quả trên
thực tế nếu không được thi hành đúng và đầy đủ, nhất là trong lĩnh vực thi hành án
dân sự. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, khi nước ta đang xây dựng
một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giao dịch phát
sinh tranh chấp cũng nhiều hơn, vì vậy số lượng công việc mà các cơ quan Tư pháp
phải giải quyết cũng ngày càng tăng và tính chất cũng phức tạp hơn. Điều đó đặt ra
yêu cầu cho các cơ quan Tư pháp nói chung và cơ quan THADS nói riêng phải hoạt
động sao cho đạt hiệu quả cao nhất nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi, xây
dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Luật Thi hành án dân sự (THADS) được Quốc hội thơng qua ngày
14/11/2008 và có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2009 là cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự. Qua 05 năm thi hành luật, công tác thi hành
án dân sự đã từng bước đi vào nề nếp và có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
q trình thi hành luật cũng cho thấy nhiều nội dung, quy định của luật khơng cịn
phù hợp với thực tiễn, tạo ra trở lực cho quá trình thi hành án, chưa thực sự đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Vì vậy, dự thảo luật THADS ban hành
ngày 21/2/2014 đã được lấy ý kiến sâu rộng từ nhân dân, và được Quốc hội biểu
quyết thông qua vào ngày 25/11/2014. Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ


1


sung năm 2014) có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 có khá nhiều quy định đổi
mới về thủ tục THADS.
Trong thời gian qua, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động THADS cịn
nhiều khó khăn, tồn tại cần khắc phục, trong đó có nguyên nhân là do thủ tục THA.
Vì vậy, Đổi mới hoạt động THA nói chung và nâng cao hiệu quả đối với THADS
nói riêng là một nội dung quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp được ghi nhận
trong nhiều văn bản như: Nghị quyết Trung Ương 8 khóa VII, Nghị quyết Trung
ương 3 Khóa VIII, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng qua các kì họp, đặc biệt Nghị
quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005,
Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020”. Bên cạnh đó, cũng dựa trên kinh nghiệm thực tế làm việc tại
của bản thân tại huyện Phú Ninh, tác giả hiểu rằng, việc nghiên cứu và hoàn thiện
pháp luật về thủ tục THADS là một yêu cầu khách quan và tất yếu.
Với lý do cấp thiết nêu trên là cơ sở để tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục Thi
hành án dân sự từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ ngành luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
THADS là lĩnh vực diễn ra khá phổ biến trong thực tiễn đời sống xã hội từ
rất nhiều năm nay, nên nó là chủ đề được nhiều giới nghiên cứu quan tâm. Có thể kể đến:
Trước năm 2008 có các cơng trình nghiên cứu như: Tác giả Nguyễn Thanh
Thủy, Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành
Luật học năm 2001; Đề tài khoa học cấp trường năm 2004, Một số vấn đề về hoàn
thiện pháp luật THADS của Trường Đại học Luật Hà Nội; Tác giả Lê Anh Tuấn, Đổi
mới thủ tục THADS ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học năm
2004; Đề tài khoa học cấp bộ năm 2006 “Bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004” của Viện khoa học pháp lý (Bộ tư pháp)… cùng với nhiều cơng trình tài liệu

nghiên cứu khác.
Từ khi Luật THADS năm 2008 có hiệu lực cho đến nay, có rất nhiều nghiên

2


cứu chú trọng về lĩnh vực THADS. Tiêu biểu, có Đề tài khoa học cấp trường năm
2011 “Những điểm mới của Luật THADS năm 2008” do Tiến sỹ Bùi Thị Huyền chủ
nhiệm ở trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó, có nhiều sách báo pháp lý, các
diễn đàn pháp luật từ 2009 đến nay công bố rất nhiều bài viết nghiên cứu trao đổi về
lĩnh vực THADS, như: Sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật Thi
hành án dân sự Việt Nam” do tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà (Học viện Tư Pháp) chủ
nhiệm, được xuất bản vào năm 2011; các bài viết đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp
luật số chuyên đề về thi hành án dân sự ở các tháng 2, tháng 4, tháng 6, tháng 12
năm 2012; tháng 12/2013 và tháng 03/2014…; cùng với khá nhiều bài viết liên
quan lĩnh vực thủ tục THADS được đăng trên tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư
pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp và các sách, báo, tạp chí nghiên cứu khác…
Từ việc kế thừa các giá trị của nhiều nghiên cứu nêu trên, luận văn của tác
giả nghiên cứu sâu hơn về một số thủ tục THADS, với việc đưa ra khái niệm, đặc
điểm, vai trị, q trình hình thành và phát triển qua các thời kì của thủ tục THADS;
Thực tiễn thi hành thủ tục thi hành án trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng
Nam chỉ ra những bất cập, đề xuất những đóng góp cho q trình sửa đổi, bổ sung
Luật thi hành án dân sự hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở nghiên cứu trình bày có hệ thống để làm rõ một số vấn đề cơ
sở lý luận và phân tích đánh giá thực trạng thực hiện thủ tục THADS trên địa bàn
huyện Phú Ninh, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả áp
dụng thủ tục THADS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục THADS.
- Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về thủ tục THADS
- Đánh giá thực tiễn thực hiện thủ tục THADS trên địa bàn huyện Phú Ninh,
tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục THADS.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về thủ tục THADS,
các quy định của pháp luật về thủ tục THADS và thực tiễn thực hiện thủ tục
THADS
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:Thủ tục THADS phạm vi rất rộng, trong khuôn khổ của một
luận văn thạc sỹ, tác giả không đi sâu vào tìm hiểu hết tất cả các thủ tục trong quá
trình THADS mà chỉ đi sâu vào một số thủ tục THADS nói chung. Luận văn khơng
nghiên cứu về thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế THADS.
- Về địa bàn: Phạm vi khảo sát là địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian: từ năm 2014 – 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp cụ
thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý
luận cũng như đánh giá thực trạng thực hiện thủ tục THADS.

- Phương pháp thống kê và so sánh được sử dụng nghiên cứu nhằm xác định
những đặc điểm chung, điểm đặc thù của cơ quan thi hành án dân sự. Phương pháp
này còn được sử dụng để so sánh mơ hình cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn
trước và giai đoạn hiện nay, thống kê các số liệu điển hình về kết quả thi hành án
trong giai đoạn 5 năm nhằm xác định được mức độ hiệu quả của cơ quan tHADS.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự qua các thời kỳ.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp vào việc làm rõ một số vấn đề cơ
sở lý luận về thủ tục THADS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định pháp luật về thủ tục THADS và
đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục hành
chính trong cơng tác THADS tại tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh
Quảng Nam trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thủ tục THADS.
Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
và các cơ quan thi hành án dân sự trong cả nước trong việc nghiên cứu và chỉ đạo
thực hiện thủ tục THADS.
7. Cơ cấu của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu nội dung gồm ba chương:
Chương 1 – Một số vấn đề lý luận về thủ tục thi hành án dân sự
Chương 2 – Các quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự
Chương 3 – Thực tiễn thực hiện thủ tục thi hành án dân sự huyện Phú Ninh,

tỉnh Quảng Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thiện thủ tục thi hành
án dân sự.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤCTHI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thủ tục thi hành án dân sự
- Khái niệm về thi hành án dân sự:
Thi hành án (theo khoa học pháp lý) có thể hiểu là việc đưa các bản án,
quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.
Đối với thi hành án dân sự (THADS), đây là hoạt động thực thi Bản án,
Quyết định về dân sự của Tòa án nhằm đưa các phán quyết của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật được thực thi trên thực tế. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về THADS:
- Ý kiến thứ nhất xác định, THADS mang tính tư pháp, là một giai đoạn của
hoạt động tố tụng. Bởi hoạt động xét xử là phải gắn liền với việc THA, nên việc
THA dựa trên cơ sở hoạt động của của công tác xét xử. Xét xử và THA là sự thống
nhất hai mặt của một quá trình bảo đảm các lợi ích của đương sự. Với lập trường
của ý kiến này, thực chất THA là hoạt động tố tụng của tòa án, của tổ chức, cơ quan
có thẩm quyền nhằm đảm bảo tính kịp thời cho các quyết định, bản án của tịa án được
thi hành chính xác. Mặt khác, việc THADS lại do cơ quan tư pháp có thẩm quyền.
- Ý kiến thứ hai xác định, THADS là dạng hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước.Vì hoạt động THADS mang tính chất chấp hành và điều hành. Hơn nữa,
quá trình tố tụng là sự tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp và phải
trải qua nhiều cơng đoạn có liên quan gắn kết với nhau trong thể thống nhất, ở đó
xét xử là cơng đoạn cuối của quá trình tố tụng, nên quyết định, bản án của toà án là
kết quả duy nhất đánh dấu về sự kết thúc của quá trình tố tụng.
- Ý kiến thứ ba, là hoạt động THADS mang tính hành chính - tư pháp. Bởi

dựa vào căn cứ THA là để các quyết định, bản án của tòa án; và quá trình THA có
sự tham gia của các cơ quan tư pháp. Hơn nữa, quá trình hoạt động THADS lại phải
tiến hành theo tính hành chính như: việc ủy quyền THADS, trước bạ chuyển quyền
sở hữu nhà cho người được THA, chứng thực bản sao giấy tờ, v.v…

6


Chúng tơi đồng tình với quan điểm thứ ba, THADS là hoạt động mang tính
hành chính – tư pháp vì:
Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra, trên cơ sở đó
đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định của pháp luật (tức là quá trình
đi tìm sự thật để áp dụng pháp luật). Cịn THADS là q trình tiến hành các hoạt
động nhằm thực thi các bản án và quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật
(tức là quá trình thực thi pháp luật). Quá trình này có thể do các chủ thể phải THA
tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi
hành. Ở quá trình THADS ln u cầu những yếu tố của hành chính như: kế
hoạch, tổ chức, đơn đốc, kiểm tra, xử lý… để tác động tới đối tượng phải THA để
họ tự giác hoặc buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các quyết
định, bản án của tịa án.
THADS cũng khơng thuần túy là hoạt động của các cơ quan hành chính.
THA là giai đoạn kế tiếp theo của giai đoạn xét xử, kết nối giữa hoạt động hành
chính với hoạt động tư pháp. Căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa
án. Trong q trình THADS, cơ quan THA và các bên có liên quan áp dụng cả các
quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật hành chính, trong đó phần lớn là các
quy định của pháp luật hành chính.
Theo quy định tại Điều 2, Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm
2014: “Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm: Bản án,
quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết
định hoặc phần bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm khơng bị kháng cáo,

kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự của
Tịa án nước ngồi, quyết định của Trọng tài nước ngồi đã được Tịa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật
đương sự khơng tự nguyện thi hành, khơng khởi kiện tại Tịa án; Phán quyết, quyết
định của Trọng tài thương mại; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. Những

7


bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có
thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công
lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động
trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Từ việc lập luận và phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về THADS
được xác định như sau: THADS là dạng hoạt động mang tính hành chính - tư pháp
của Nhà nước do cơ quan THADS và Chấp hành viên tiến hành theo trình tự, thủ
tục do pháp luật qui định và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước để đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án; Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại
Quyết định xử lý vụviệc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, được
thực hiện trên thực tế, nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức.
- Khái niệm thủ tục - theo Từ điển Tiếng Việt, đó là những việc cụ thể phải
làm theo một trình tự qui định để thực thi một cơng việc có tính chất bắt buộc.
Theo nghĩa chung nhất, thủ tục hành chính được hiểu theo nghĩa đầy đủ: Đó
vừa là một thể chế (thể lệ) thống nhất bao gồm gồm một chuổi các nhiệm vụ liên
quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt kết quả dự kiến; vừa là phương thức và cách thức
giải quyết cơng việc theo một trình tự nhất định.

Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010, thủ tục
hành chính là: “Trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể
liên quan đến cá nhân, tổ chức”.
Từ những cách tiếp cận trên, có thể hiểu: Thủ tục THADS là tồn bộ các
cơng việc do cơ quan THADS, Chấp hành viên và tổ chức, cá nhân liên quan thực
hiện theo trình tự nhất định do pháp luật quy định để thi hành hiệu lực bản án,
quyết định dân sự của Tòa án; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh nhằm,
bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ

8


chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội.
Thủ tục THADS là trình tự, cách thức thực hiện cũng như các yêu cầu, điều
kiện do pháp luật quy định để thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án; phán
quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật.
Hiện nay THADS được điều chỉnh từ Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014). Căn cứ Điều 1 của Luật THADS 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) quy định: “nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự,
hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật
chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần
tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tịa án, quyết định của Tòa án giải
quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của
Trọng tài thương mại (bản án, quyết định); hệ thống tổ chức THADS và Chấp hành
viên; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động THADS”.
Từ những quy định trên cho thấy đối tượng hướng đến của thủ tục THADS,
đó chính là:
+ Các bản án, quyết định của Tịa án về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử
lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án phí trong bản án,
quyết định của Tịa án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết
định của Tòa án về hành chính; quyết định tun bố phá sản của Tịa án;
+ Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam;
+ Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
có liên quan đến tài sản;
+ Bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, quyết định của Trọng tài

9


nước ngồi được Việt Nam cơng nhận.
(Sau đây gọi chung là bản án, quyết định dân sự).
Mục đích của thủ tục THADS nhằm bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định
dân sự của Tòa án; quyết định của Trong tài kinh tế, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Chủ thể của thủ tục THADS bao gồm: cơ quan THADS, chấp hành viên của
cơ quan THADS; người phải THADS, người được THADS; cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
THA của đương sự; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ
quanTHADS trong việc THA.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự
- Thứ nhất, thủ tục THADS mang tính pháp lý. Thủ tục THADS được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, chỉ có những

quy định về thủ tục THADS được quy định trong văn bản pháp luật mới được có
giá trị pháp lý trên thực tế. Hiện nay, thủ tục THADS được quy định trong Luật
THADS năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật này. Ngồi ra, thủ tục THADS cịn được quy định cả trong Bộ luật tố
tụng dân sự (BLTTDS) và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Thủ tục THADS được pháp luật quy định rõ và chặt chẽ từ bắt đầu đến khi
kết thúc, bảo đảm tính cơng bằng trong thực thi THA về quyền và nghĩa vụ của các bên
Thủ tục THADS có đặc trưngt về tính ràng buộc đối với tổ chức, cơ quan, cá
nhân có liên quan đến quyết định, bản án của Tịa án. Việc khơng chấp hành hoặc
chấp hành không nghiêm đối với quyết định, bản án của Tòa án dẫn đến các hậu quả
pháp lý khó lường và có thể bị xử lý bằng chế tài.
- Thứ hai, thủ tục THADS về cơ bản mang tính chất của thủ tục hành chính,
tuy nhiên nó cũng mang đặc điểm “dân sự”. Tính chất dân sự trong thủ tục THADS
thể hiện ở chỗ:Theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng của các bên
trong quan hệ dân sự, pháp luật công nhận sự thỏa thuận, tự nguyện của người được
THA và người phải THA về việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, nếu sự

10


thỏa thuận đó khơng vi phạm lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Nghĩa là điều đó xảy
ra sau khi tranh chấp đã được phân xử, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí
của mình trong quá trình THA. Đây là điểm khác nhau cơ bản của thủ tục THADS
so với THA hình sự và THA hành chính.
Hơn nữa, thủ tục THADS được áp dụng trên thực tế phần lớn là để thi hành
các quyết định về tài sản. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục THADS
được áp dụng để thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại và lao động và các quyết định về tài sản trong các bản án,
quyết định hành chính, hình sự, quyết định của trọng tài thương mại v.v... Mặc dù
hồn tồn khác biệt về tính chất của quan hệ pháp luật, nhưng nghĩa vụ THA trong

tất cả các bản án, quyết định này đều có tính chất tương đồng đó là nghĩa vụ tài sản
hoặc các công việc phải thực hiện. Đây là cơ sở để xác định tính chất "dân sự"
nhằm phân biệt với THA hình sự, hành chính.
- Thứ ba, căn cứ phát sinh thủ tục THADS là các quyết định, bản án của Tòa
án sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng bao gồm: quyết định,
bản án về dân sự, lao động, kinh tế, hơn nhân và gia đình; quyết định về tài sản
trong quyết định ,bản án hình sự (tịch thu tài sản, phạt tiền, án phí); quyền tài sản và
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; quyết định, bản án dân sự
của Tịa án ở nước ngồi, quyết định của trọng tài ở nước ngồi được Tịa án Việt
Nam cơng nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Dẫu vậy, với trường hợp trong THA
hành chính, THA hình sự, hoạt động THA hành chính, THA hình sự chỉ phát sinh
dựa trên cơ sở quyết định, bản án đã có hiệu lực thì hoạt động THADS không chỉ
phát sinh trên cơ sở quyết định, bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật, mà
quantrong nữa là còn được phát sinh dựa vào các quyết định, bản án dân sự của Tòa
án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, đó là quyết định, bản án
của Tịa án cấp sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở
lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời.

11


- Thứ tư, mục đích hướng đến của thủ tục THADS là nhằm thi hành các phán
quyết của các cơ quan Tòa án, Trọng Tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
THADS gắn liền với hoạt động xét xử (theo nghĩa rộng), xét xử chính là tiền đề của
THADS. Hoạt động THADS lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét xử, là
giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quann hệ mật thiết, đan xen với các
giai đoạn tố tụng trước đó. Những thủ tục được thực hiện trong quá trình THADS là
nhằm để thi hành các bản án, quyết định - kết quả cuả hoạt động xét xử, đảm bảo

quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp.
- Thứ năm, đặc điểm về chủ thể của thủ tục THADS:
Thủ tục THADS gắn liền với sự có mặt ba chủ thể có địa vị pháp lý khơng
giống nhau, đó là chấp hành viên, cơ quan THA với người phải THA, người được
THA. Việc bảo vệ lợi và quyền hợp pháp của công dân, gìn giữ kỷ cương, trật tự
trong THADS là trách nhiệm của chính quyền nhà nước, chứ khơng phải là nhiệm
vụ riêng có của cơng dân. Chấp hành viên, cơ quan THA tham gia quan hệ pháp
luật về THADS không đơn giản chỉ vì lợi ích của chính mình, mà vấn đề quan trọng
và cốt lõi là nhân danh cơ quan nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trên thực tế
về các phán quyết về dân sự của Tòa án, để đảm bảo lợi ích Nhà nước và lợi quyền
hợp pháp của các tổ chức, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. Là chủ thể bắt
buộc trong quan hệ THADS, chấp hành viên nhân danh Nhà nước, thực thi quyền
lực nhà nước thông qua hoạt động THA. Để chấp hành viên có cơ sở pháp lý hoạt
động, pháp luật qui định cho chấp hành viên những quyền hạn nhất định, như trong
trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, hai bên
đương sự tự nguyện bàn bạc và thỏa thuận với nhau việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ theo nội dung và quyết định của bản án, thì chấp hành viên đóng vai trị là người
"xác nhận" việc tự nguyện và thỏa thuận đó và làm các thủ tục theo qui định của
pháp luật THADS. Ở trường hợp chủ thể của quan hệ pháp luật THADS, dù rằng
chấp hành viên cơ quan THA đã giáo dục, giải thích, phân tích nhưng lại cố ý
không tôn trọng bản án, quyết định của Tịa án, khơng tự nguyện thực thi nghĩa vụ
của mình với sự chây ỳ, coi thường pháp luật thì chấp hành viên phải áp dụng biện

12


pháp cưỡng chế, buộc người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ theo phán quyết Tòa
án đă tuyên. Ở trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế THA không những thể
hiện quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện bản chất dân chủ XHCN cũng như trách
nhiệm của Nhà nước về việc bảo vệ lợi quyền hợp pháp của tổ chức, cơng dân.

Ngồi những chủ thể nói trên, trong q trình thực hiện thủ tục THADS cịn
có sự tham gia của một số chủ thể khác có liên quan như: cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ THA
của đương sự; cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp – hộ tịch, địa chính – xây dựng
– đô thị và môi trường, cán bộ công chức cấp xã; Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ
chức tín dụng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm…có trách nhiệm thực hiện yêu cầu xác minh điều kiện THA của Chấp
hành viên v.v…
1.1.3. Vai trò của thủ tục thi hành án dân sự
- Thủ tục THADS là bảo đảm pháp lý cho việc thi hành các bản án, quyết
định dân sự của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền. Các quy định về thủ tục THADS
là phương tiện để đưa các bản án, quyết định đó vào thực tế. Thiếu đi các quy định
thủ tục này thì việc thi hành các bản án, quyết định sẽ không thống nhất, dễ gây ra
những rối loạn trong quản lý xã hội. Vì vậy, thủ tục THADS là cơ sở bảo đảm việc
thực hiện quyền lực của Nhà nước, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ
pháp luật và củng cố pháp chế XHCN.
- Thủ tục THADS là công cụ hữu hiệu để bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự khi bị xâm hại, góp phần bảo đảm
trật tự pháp luật XHCN, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và thực hiện công bằng
xã hội.
- Thủ tục THADS là tạo điều kiện cho hoạt động THADS được tiến hành
nhanh chóng và thực thi đúng quy định của pháp luật về THADS, tăng cường hiệu
lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước.
- Thủ tục THADS là cơ sở cho hoạt động THA của Chấp hành viên, cán bộ
cơ quan THADS được đúng đắn, hạn chế tình trạng lạm quyền, tham nhũng, tiêu

13


cực trong THADS; cũng như góp phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng

cao vị thế của các cơ quan tư pháp.
- Thủ tục THADS góp phần thúc đẩy tích cực việc nâng cao ý thức trách
nhiệm của các chủ thể trong THADS (cả cơ quan THADS, người được THA và
người phải THA), tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật của cán bộ và nhân
dân trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Vai trị này của thủ tục THADS có ý
nghĩa quan trọng. Bởi trong thực tiễn thường gặp, đối với các vụ việc có giá trị lớn,
người phải THA hầu như khơng tự nguyện thi hành, buộc cơ quan THADS phải tổ
chức cưỡng chế theo luật định, nhưng nếu quá trình tổ chức thực thi các biện pháp
cưỡng chế THADS không đầy đủ hoặc không đúng sẽ phát sinh trong công tác
THADS các tình huống bất thường như: việc chậm thu hồi tài sản cho Nhà nước,
các tổ chức sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp.
1.2. Nội dung thủ tục thi hành án dân sự
Thủ tục THADS là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn, theo các trình tự
sau: Cấp,chuyển giao bản án, quyết định xét xử; gửi yêu cầu THA; ra quyết định
THA; tổ chức thi hành Quyết định THA; kết thúc THA. Như vậy, thủ tục THADS
bao gồm những nhóm thủ tục sau:
- Thủ tục cấp, chuyển giao bản án, quyết định.
Xét từng loại bản án, quyết định, Tồ án, cơ quan có thẩm quyền ra bản án,
quyết định phải chuyển giao cho cơ quan THADS có thẩm quyền ngay sau khi ra
quyết định, bản án hoặc trong thời hạn xác định, kể từ ngày bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật; đồng thời bản án, quyết định đó cũng phải được cấp cho các
đương sự để thi hành.
Việc cấp, chuyển giao bản án, quyết định phải được tiến hành trong thời hạn
nhất định để tránh việc chậm trễ trong THA. Cơ quan THADS có trách nhiệm nhận
quyết định, bản án để thi hành. Việc tiếp nhận bản án, quyết định cũng phải được
thực hiện theo những trình tự, thủ tục nhất định.
- Thủ tục yêu cầu THA và tiếp nhận (từ chối) yêu cầu THADS.
Khi nhận được bản án, quyết định, các đương sự (người phải THA, người

14



được THA) phải gửi đơn đến cơ quan THADS để yêu cầu THA. Việc gửi đơn yêu
cầu THA cũng phải được thực hiện theo những trình tự, thủ tục và yêu cầu, điều
kiện nhất định về nội dung, hình thức đơn, về cách thức thực hiện quyền yêu cầu
THA của đương sự. Việc gửi đơn yêu cầu THA của đương sự sẽ làm phát sinh thủ
tục tiếp nhận hoặc từ chối yêu cầu THA của cơ quan THADS. Căn cứ vào những
trường hợp cụ thể, cơ quan THADS sẽ tiếp nhận yêu cầu THA của đương sự khi
đáp ứng các yêu cầu, điều kiện đặt ra; ngược lại, cơ quan THADS sẽ từ chối yêu
cầu THA của đương sự khi không đáp ứng các yêu cầu, điều kiện đặt ra.
- Thủ tục ra quyết định THADS.
Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu THA của đương sự, cơ quan THA có trách
nhiệm ra quyết định THA. Trong một số trường hợp đặc biệt, cơ quan THADS chủ
động ra quyết định THA mà khơng cần có đơn u cầu THA của đương sự để bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, kịp thời bảo vệ lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Chẳng hạn như trong các trường hợp: để thi hành hình phạt tiền, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí cho Tịa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
tịch thu sung quỹ Nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản, các khoản thu khác
cho Nhà nước; thu hồi quyền sử dụng đất; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời… Quyết định THA phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung, hình thức và
thời hạn ra quyết định, giúp cho việc tổ chức THA được thuận lợi, nhanh chóng.
- Thủ tục tổ chức thực hiện quyết định THADS.
Để tổ chức thi hành Quyết định THA, sau khi ra quyết định THA, cơ quan
THADS có trách nhiệm gửi quyết định và thông báo về việc THA cho đương sự
biết để thi hành. Việc gửi và thông báo quyết định THA được thực hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau, tùy từng điều kiện cụ thể để tạo thuận lợi cho cơ quan THA
cũng như đảm bảo thông tin đến được đương sự.
Để tạo cơ sở cho việc đề ra biện pháp THA phù hợp đối với từng vụ việc,
cần thiết phải tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA. Vì vậy,
trong THADS, xác minh điều kiện THA là một thủ tục bắt buộc, bước tiền đề quan

trọng để nghĩa vụ THA được thực thi. Thủ tục xác minh điều kiện THA sẽ xác định

15


rõ thẩm quyền xác minh, trình tự xác minh, nội dung xác minh, quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan v.v... Kết thúc
giai đoạn xác minh, căn cứ vào kết quả xác minh, cơ quan THADS kết luận về việc
có đủ điều kiện THA hay chưa.
Khi người phải THA có điều kiện THA thì cơ quan THA tổ chức thi hành
quyết định THA. Để tạo điều kiện cho người phải THA, pháp luật cần quy định một
khoảng thời hạn tự nguyện THA. Hết thời hạn tự nguyện THA mà người phải THA
có điều kiện THA mà khơng tự nguyện THA thì sẽ bị cưỡng chế THA.
Trong quá trình tổ chức thi hành quyết định THA, sẽ có thể xuất hiện những
tình huống, sự kiện làm trì hỗn hoặc khơng thể THA được nữa. Do đó, pháp luật
cũng sẽ quy định những trường hợp phải hỗn THA, tạm đình chỉ THA hoặc đình
chỉ THA.
Khi quyết định THA được thực hiện trên thực tế, sẽ làm chấm dứt quá trình
THA và cơ quan có thẩm quyền sẽ xác nhận kết quả THA. Xác nhận kết quả THA
là trách nhiệm của cơ quan THADS để làm căn cứ pháp lý cho việc xác nhận người
phải THA đã hoàn thành nghĩa vụ chấp hành án của mình.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thủ tục thi hành án dân sự
1.3.1. Hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự
Sự ảnh hưởng của việc xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật ảnh hưởng
đến việc thi hành và áp dụng pháp luật trong THADS, trực tiếp là các thủ tục
THADS, cụ thể thể hiện ở chất lượng xây dựng và ban hành pháp luật. Việc hoạch
định chính sách pháp luật được thực hiện khoa học, hợp lý thì nhà nước sẽ có cung
cấp bộ cơng cụ hữu ích để thực thi có hiệu lực. Ngược lại, một khi chất lượng xây
dựng chưa tốt thì sẽ vướng mắc/ bất cập về một hệ thống pháp luật trong việc áp
dụng THADS. Hệ thống văn bản pháp luật chính là cơng cụ đặc biệt quan trọng của

thủ tục THADS. Vì khi hệ thống pháp luật văn minh đáp ứng được đòi hỏi của thực
tiễn thi hành thủ tục THADS và hợp với văn hóa tập qn quốc gia và thơng lệ quốc
tế, thì việc tuyên truyền, giải thích cũng như việc áp dụng thực hiện sẽ thuận lợi hơn.
Nói như thế để thấy rằng, chất lượng hệ thống pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ

16


tới việc quy định của pháp về thủ tục THADS. Đồng thời, cũng từ đó nó góp phần
quyết định tới hiệu quả và hiệu lực pháp luật. Từ lịch sử thực tiễn pháp luật ở Việt
Nam, có khá nhiều văn bản pháp luật ban hành song chưa phù hợp với qui luật phát
triển thực tiễn khách quan, chưa thống nhất và đồng bộ. Có khi nhiều văn bản pháp
luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí phải được thay thế bằng văn
bản khác, vì nếu để nguyên không những không thực hiện được trong thực tế mà
cịn gây thiệt hại cho đất nước.
1.3.2. Trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của chấp hành viên trong thi
hành án dân sự
Để bảo đảm thực hiện thủ tục THADS, bên cạnh yếu tố pháp luật về THADS
thì yếu tố con người trong tổ chức THA hết sức quan trọng, được xác định là yếu tố
then chốt trong cơ quan THADS, là hệ thống bộ máy tổ chức, trong cơ chế vận hành
và những hạn chế, yếu kém về năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước,
chuyên môn nghiệp vụ. Những cản ngại này phần nhiều có nguồn gốc từ chính
sách, cơ chế chồng chéo, thiếu phù hợp và nhất là từ chính bản thân con người ở
trong hệ thống cơ quan THADS. Quan hệ giữa thủ tục THADS và người dân là
quan hệ tương hỗ, mà trong đó Chấp hành viên, cán bộ người làm cơng tác THA những “cơng bộc của nhân dân” có trách nhiệm quản lý cơng việc của Nhà nước,
giữ gìn bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu của nhân dân trên cơ sở những
quy định của pháp luật. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải nâng cao trách nhiệm công vụ
của đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ người làm công tác THA. Phải xây dựng đội
ngũ Chấp hành viên, cán bộ người làm công tác THA có tính chun nghiệp cao, có
đủ trình độ, có kỹ năng để triển khai những quyết định THA và ý thức chuyên

nghiệp trong thi hành thủ tục THADS.
Thực tiễn cũng đã cho thấy: trong rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan, chính sự yếu kém và cửa quyền hoặc vô trách nhiệm của một bộ phận Chấp
hành viên, cán bộ người làm công tác THA đã làm cho quá trình giải quyết THA
chậm và án tồn đọng gia tăng ảnh hưởng đến quyền lợi của người THA. Vì vậy cần
tích cực xây dựng bộ máy hành chính và Chấp hành viên, cán bộ người làm công

17


tác THA trong hệ thống THADS trong sạch vững mạnh, đáp ứng lòng tin yêu của tổ
chức và người dân.
1.3.3. Ý thức pháp luật của người dân trong việc thực hiện thủ tục thi
hành án dân sự
Trong quá trình tổ chức THA, thủ tục THADS là tác nghiệp mà chấp hành
viên và cán bộ làm công tác THA phải thực hiện nhằm đảm bào quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự và những người có quyền, lợi ích liên quan đã trực tiếp
bị ảnh hưởng, nhất là đối với người phải THA. Các quyền về nhân thân, quyền về
tài sản và tài sản của người phải THA lúc này đã trực tiếp bị tác động một khi họ
không tự nguyện thì Chấp hành viên buộc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế để họ
phải thực thi đúng nội dung quyết định, bản án của Tòa án và các cơ quan có thẩm
quyền vì lợi ích của người được THA. Nên giai đoạn này, người phải THA thường
tìm cách trốn tránh, trì hỗn, cản trở việc THA, dẫn đến việc THA trở nên phức tạp
và khó khăn. Điều đó cho thấy, hiệu quả và chất lượng của công tác THADS phụ
thuộc phần lớn vào ý thức chấp hành pháp luật của đương sự các bên khi tham gia
vào quá trình THA.
Bên cạnh đó, một trong những đặc trưng của hoạt động THADS là đề cao sự
thỏa thuận của đương sự, người có nghĩa vụ THA. THADS khơng hồn tồn dùng
các biện pháp cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Pháp luật THADS công nhận sự
thỏa thuận, tự nguyện của người được THA và của người phải THA về việc chấp

hành bản án, quyết định của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó khơng vi phạm lợi ích của
Nhà nước, của xã hội. Việc hiểu biết sâu, rộng các quy định của pháp luật về
THADS của nhân dân nói chung và từng đương sự trong vụ việc THA cụ thể nói
riêng là một trong những yếu tố giúp cơng tác THA đạt kết quả cao. Thực tế cho
thấy khơng ít các trường hợp đương sự trong một vụ án không hiểu hoặc hiểu một
cách mơ hồ về pháp luật THADS dẫn đến trong quá trình giải quyết vụ việc đương
sự có nhiều thắc mắc, khiếu nại làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả giải quyết án
của cơ quan THADS. Khi đương sự không biết quy định của pháp luật thì họ khơng
thể biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quá trình THA cho nên

18


sẽ gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách hợp pháp
hoặc có hành vi chống đối, chây ỳ do thiếu hiểu biết. Ngược lại, nếu đương sự hiểu
sâu, hiểu đúng các quy định pháp luật về THADS nói riêng, pháp luật nói chung sẽ
có có sự thay đổi tư duy, nhận thức, tự nguyện thi hành phần nghĩa vụ của mình.
Chính vì vậy, trình độ, ý thức pháp luật của các đương sự trong THADS là
một trong những yếu tố tác động quan trọng đến chất lượng, hiệu quả công tác THA.
1.3.4. Chất lượng của bản án, quyết định
Chất lượng và hiệu quả của THA phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng xét xử
của tồ án và các cơ quan có thẩm quyền. Các vấn đề tranh chấp dân sự thường diễn
biến rất phức tạp qua nhiều giai đoạn, nhưng khi xét xử các cơ quan đó chưa xem
xét hoặc chưa điều tra một cách kỹ lưỡng để đưa ra phán quyết phù hợp, đúng pháp
luật.Đến khi tổ chức THA, đương sự không đồng tình, phản đối, kiên quyết khơng
thi hành. Trong THADS, việc thỏa thuận THA rất quan trọng, giúp dung hòa mâu
thuẫn, hài hịa lợi ích của hai bên tranh chấp để từ đó đi tới kết thúc hồ sơ THA.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó khăn để hai bên (người được THA và người phải
THA) thỏa thuận với nhau. Nếu bản án, quyết định được giải quyết một cách cơng
tâm, khách quan, đúng pháp luật thì tính tự nguyện thi hành của đương sự trong giai

đoạn THA rất cao. Tuy nhiên, nếu việc giải quyết của Tòa án hoặc các cơ quan có
thẩm quyền khác thiếu tính thuyết phục, khơng khả thi trên thực tế, khơng được sự
đồng tình của người dân thì dù bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì vẫn
rất khó có thể tổ chức thi hành trên thực tế và thường xuyên vấp phải sự chống đối,
không thể tiến hành thỏa thuận được cho hai bên đương sự. Chính vì vậy, khi tiến
hành CCHC trong THADS thì cũng phải chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng
xét xử các tranh chấp dân sự.
1.3.5. Việc minh bạch, thông tin tài sản trong quá trình tổ chức thi hành
án dân sự và cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan,
tổ chức liên quan đến việc tổ chức thi hành án dân sự
Để giải quyết việc THA, cơ quan THADS phải tiến hành nhiều thủ tục như:
tống đạt, xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế THA

19


v.v… Vì thế, cơ quan THADS khơng thể “đơn thân độc mã” thực hiện được các
công việc trên, mà cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Ví dụ:
Liên quan đến quyền sử dụng đất cơ quan THADS cần sự phối hợp của cơ quan
quản lý tài nguyên và môi trường; liên quan đến tài khoản cần sự phối hợp của ngân
hàng, tổ chức tín dụng; mỗi đương sự trong vụ việc THA đều có những ràng buộc
với một cơ quan, hay một tổ chức nhất định. Để giải quyết một vụ việc THADS cần
nắm bắt rất nhiều thông tin của đương sự như: nơi cư trú, làm vịêc, nhân thân, điều
kiện kinh tế, các mối quan hệ xã hội… Vì vậy, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với
các cơ quan hữu quan để nắm bắt thơng tin kịp thời và chính xác, giúp giải quyết
việc THA được nhanh gọn và đạt kết quả cao. v.v…
Việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức, ban ngành liên quan trong
THADS là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của cơng tác
THADS. Thực tiễn cho thấy q trình THADS nếu nhận được sự phối hợp, hỗ trợ
tốt từ các cơ quan, ban ngành liên quan thì cơng tác THA đạt kết quả cao. Ngược

lại, nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khơng thấy được hết trách nhiệm
của mình hoặc có nhận biết trách nhiệm nhưng không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ, không kịp thời các yêu cầu của chấp hành viên, thủ trưởng, phó thủ trưởng
cơ quan THADS, dẫn đến một thực tế không thể phủ nhận được là lượng hồ sơ
THADS tồn đọng nhiều.
Từ những phân tích trên có thể thấy việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong THADS là điều không thể thiếu trong hoạt động THADS, trong đó
đặc biệt quan trọng là mối quan hệ phối hợp với UBND các cấp, Ban chỉ đạo
THADS, các cơ quan chuyên môn ở địa phương (như: Cơ quan quản lý tài nguyên
và môi trường, cơ quan quản lý xây dựng đơ thị, cơ quan tài chính, cơ quan thuế,
ngân hàng, bảo hiểm xã hội, cơ quan quản lý doanh nghiệp, cơ quan công an, Viện
kiểm sát… trong việc xác minh, áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng
chế THADS …). Vì vậy, đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng, tác động
trực tiếp đến quá trình thực hiện các thủ tụctrong THADS.

20


Tiểu kết chương 1
Thủ tục THADS là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp do cơ quan Thi
hành án, Chấp hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để
đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án; Phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại, Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh theo qui định của pháp luật có hiệu lực trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội.
Thủ tục THADS có những đặc điểm cơ bản đó là: mang tính pháp lý; mang
“đặc điểm dân sự”; cơ sở để phát sinh thủ tục THADS đó là các bản án, quyết định
của Tịa án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi giải quyết các tranh chấp
dân sự; mục đích của thủ tục THADS là để thi hành các phán quyết của các cơ quan

Tòa án, Trọng Tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; đặc điểm về chủ thể của thủ
tục THADS.
Nội dung thủ tục THADS bao gồm: Thủ tục cấp, chuyển giao bản án, quyết
định cho đương sự và cơ quan THA;Thủ tục tiếp nhận/ từ chối yêu cầu THADS;
Thủ tục ra quyết định THADS; Thủ tục tổ chức thực hiện THADS.
Hiệu quả thực hiện thủ tục THADS chịu sự tác động của các yếu tố như:
Chất lượng của quy định pháp luật về THADS; Trình độ,năng lực, ý thức trách
nhiệm và đạo đức của đội ngũ Chấp hành viên; Ý thức pháp luật của người dân
trong thực hiện thủ tục THADS; Chất lượng của bản án, quyết định về dân sự; cơ
chế phối hợp giữa cơ quan trong tổ chức THADS.

21


CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về
thủ tục thi hành án dân sự
Nhận thức vai trò quan trọng của hoạt động THA trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về THADS, như: Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành Pháp lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp lệnh
THADS năm 2004. Sau hơn ba năm thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004, kết
quả cho thấy nhiều quy định pháp luật về thủ tục THADS đã thể hiện được chủ
trương cải cách tư pháp, CCHC, phù hợp từng bước quá trình chuyển đổi từ cơ chế

tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời nhiều vướng mắc trong
THADS. Song nếu so với nhiệm vụ và yêu cầu thực tiễn phát triển mới thì Pháp
lệnh THADS năm 2004 đã bộc lộ khơng ít hạn chế, đó là:(1) Bất cập ở sự quy định
về trình tự, thủ tục THADS và chưa rõ trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các tổ chức
có liên quan trong THADS; (2) Mơ hình tổ chức cơ quan THADS vàcơ chế quản lý
chưa khai thác hết chức năng, nhiệm vụ và tính chất đặc thù công việc; (3) Quyền
hạn của cơ quan THADS và của Chấp hành viên vẫn chưa tương xứng với yêu cầu
nhiệm vụ; (4) Chưa có cơ chế liên thông phối hợp chặt chẽ giữa THADS với THA
phạt tù, nhất là lnhững vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại, v.v... Những mặt hạn
chế này là một trong nhiều nguyên nhân chủ yếu làm cho tình trạng án dân sự cịn
tồn đọng, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu lực quản lý nhà
nước; quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân theo bản án,

22


×