Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

XÂY DỰNG đội NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ nước ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.57 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HẢI ĐĂNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………


……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HẢI ĐĂNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở TỈNH
THỪA THIÊN - HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ TRỌNG HÁCH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Học viên

Nguyễn Hải Đăng



LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng và chân thành, em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc và Khoa sau đại
học Học viện Hành chính Quốc gia, quý thầy, cô giáo đã
tham gia giảng dạy và giúp đỡ bản thân em trong quá
trình học tập, nghiên cứu. Đặc biệt là PGS.TS. Vũ Trọng
Hách, người hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành việc nghiên cứu luận văn
này.
Mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng nhưng chắc
chắn luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy, cô
giáo và độc giả.
Học viên

Nguyễn Hải Đăng


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC..................................... 6
1.1. Những khái niệm cơ bản................................................................................ 6
1.1.1. Công chức, công chức hành chính nhà nước.......................................... 6
1.1.2. Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước..............................17
1.2. Những quy định của pháp luật về xây dựng đội ngũ công chức hành chính

nhà nước............................................................................................................. 19
1.2.1. Tiêu chuẩn công chức........................................................................... 19
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của công chức........................................................ 20
1.2.3. Tuyển dụng công chức.......................................................................... 21
1.2.4. Đào tạo và bồi dưỡng công chức hành chính nhà nước.......................22
1.2.5. Quản lý, sử dụng công chức................................................................. 23
1.2.6. Thực hiện chế độ chính sách đối với công chức...................................25
1.3. Tính tất yếu khách quan và những yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức hành
chính nhà nước hiện nay..................................................................................... 26
1.3.1. Tính tất yếu khách quan........................................................................ 26
1.3.2. Yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước.................27
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà
nước.................................................................................................................... 30
1.4.1. Nhân tố khách quan.............................................................................. 30
1.4.2. Nhân tố chủ quan.................................................................................. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH

NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY................................... 34
2.1. Khái quát chung........................................................................................... 34


2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế......................34
2.1.2. Thực trạng đội ngũ công chức hành chính tỉnh Thừa Thiên Huế.........36
2.2. Đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước tỉnh
Thừa Thiên Huế.................................................................................................. 43
2.2.1. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch, vị trí việc làm cho đội ngũ công chức
hành chính tỉnh............................................................................................... 43
2.2.2. Công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ công chức hành chính
nhà nước......................................................................................................... 47
2.2.3.Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức hành chính nhà nước

tỉnh................................................................................................................. 52
2.2.4. Thu hút và tạo động lực làm việc cho đội ngũ công chức hành chính nhà
nước tỉnh........................................................................................................ 54
2.3. Nhận xét chung............................................................................................ 55
2.3.1. Những kết quả đạt được........................................................................ 55
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân...................................................................... 56
Tiểu kết chương 2.................................................................................................... 60
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC

Ở TỈNH THỪA

THIÊN HUẾ.......................................................................................................... 61
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ công chức hành chính
nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế........................................................................ 61
3.1.1. Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước của tỉnh đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh và hội nhập quốc tế...............61
3.1.2. Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu cải
cách công vụ, công chức, cải cách hành chính............................................... 63
3.2. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở tỉnh
Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay........................................................... 66
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong công tác xây dựng
đội ngũ công chức hành chính nhà nước tỉnh................................................. 67
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về công vụ, công chức........................................ 69


3.2.3. Hoàn thiện về quy hoạch và vị trí việc làm của đội ngũ công chức hành
chính nhà nước tỉnh........................................................................................ 71
3.2.4. Nâng cao chất lượng tuyển dụng, sử dụng, quản lý đội ngũ công chức
hành chính nhà nước tỉnh............................................................................... 75

3.2.5. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức hành chính
nhà nước tỉnh.................................................................................................. 79
3.2.6. Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ, tạo động lực cho đội ngũ công chức
hành chính nhà nước tỉnh............................................................................... 82
3.2.7. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát trong xây dựng đội ngũ công
chức hành chính nhà nước............................................................................. 83
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 86
KẾT LUẬN............................................................................................................ 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 89


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng công tác cán bộ và quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn coi vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định đến sự thành công hay thất bại của phong trào cách mạng. Người viết:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể, có vốn mới
làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có
lãi”. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn. Chính vì lẽ đó, cán bộ và công tác
cán bộ không phải là vấn đề mới, nhưng luôn mang tính thời sự.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ công chức hành chính nhà nước là một nội dung
quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc hoàn thiện, đổi mới hệ thống chính trị
và đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về cán bộ và công tác cán bộ. Hội nghị
lần thứ III của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) đề ra Nghị quyết về
chiến lược cán bộ, Nghị quyết khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. “Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề,
khó khăn, phức tạp và đầy thử thách, cam go, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[22]. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cũng đề ra mục tiêu
xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2011 - 2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có
tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”. Nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ XII của Đảng xác định: “…Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy
định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có trình
độ năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới…” [27, trang
180].

1


Những năm qua, công tác tổ chức cán bộ luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm, chú trọng và đạt được những kết quả quan trọng; đã từng bước xây dựng được
một đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp; công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng bố trí sử dụng, các chế độ chính sách ngày càng hoàn
thiện, số lượng, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng tăng góp phần to lớn
vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực, công tác tổ chức, cán bộ nói chung và đội ngũ công chức hành chính nhà nước
nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế cần tập trung giải quyết. Đó là việc đánh giá, bố trí,
sử dụng cán bộ, công chức còn chủ quan, chưa hợp lý, còn nặng về cơ cấu, lúng
túng, bị động dẫn đến hụt hẫng đội ngũ cán bộ, công chức; chế độ chính sách còn
nhiều bất cập, chưa thoả đáng; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa
gắn với yêu cầu, chất lượng đào tạo và hiệu quả đào tạo còn chưa cao. Công tác quy
hoạch cán bộ còn lúng túng, bị động, chắp vá. Thiếu kiên quyết sắp xếp, bố trí lại
đội ngũ công chức nhằm thay thế những công chức không hoàn thành nhiệm vụ,

hoặc yếu kém về phẩm chất và năng lực; vẫn còn tình trạng cục bộ, khép kín cán bộ
ở một số địa phương. Chính điều này dẫn tới một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, xa dân… làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Cùng với thực trạng chung của cả nước, ở tỉnh Thừa Thiên Huế, việc xây dựng
đội ngũ công chức hành chính nhà nước có đủ trình độ, năng lực phẩm chất đạo
đức, ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ là vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính lâu dài. Đội ngũ công chức hành chính nhà nước của tỉnh cơ bản đảm bảo về số
lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
bộ máy nhà nước các cấp. Tuy nhiên, đội ngũ công chức hành chính nhà nước còn
những hạn chế, bất cập so với yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới...
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài "Xây dựng đội ngũ công chức
hành chính nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên - Huế trong giai đoạn hiện nay" làm đề
tài luận văn Thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính với
mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé trong việc xây dựng đội ngũ công
chức hành chính nhà nước tỉnh nhà đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá
trình phát triển và hội nhập quốc tế.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đội ngũ công chức hành chính
nhà nước nói riêng luôn là vấn đề mang tính thời sự trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Những năm gần đây có khá nhiều các
công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn như:
"Luận chứng khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", đề tài cấp Nhà nước KHXH.05-03,
nằm trong chương trình KHXH.05 do GS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân
Sầm làm chủ nhiệm [58]; Đề tài “Nghiên cứu các giải pháp chủ yếu về đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị ở Thừa Thiên Huế” của Ban Tổ
chức Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế [4]. Trong đó đề tài "Luận chứng khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước" có ý nghĩa rất quan trọng. Trên cơ sở các quan điểm lý luận, tổng kết
thực tiễn và kế thừa kết quả của nhiều công trình đi trước, tập thể các tác giả đã phân
tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ. Từ đó, đưa ra một hệ thống các quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ công chức hành chính nhà
nước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Bên cạnh đó, đề tài: "Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà
nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của tác giả Nguyễn
Bắc Son đã phân tích, đánh giá đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam, phân tích
nguyên nhân dẫn tới những hạn chế về chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà
nước và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản
lý nhà nước, đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn
hiện nay và trong những năm tới.
Ngoài ra còn có các luận văn như: Luận văn Thạc sĩ Luật "Hoàn thiện pháp
luật về công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay" tác giả Phạm Minh
Triết, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; Luận văn Thạc sĩ Luật "Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước theo yêu cầu cải cách hành

3


chính của tỉnh Bình Phước hiện nay", tác giả Giang Thị Phương Hạnh, Ủy ban
Kiểm tra Tỉnh ủy Bình Phước;.... Các bài viết đăng trên các tạp chí: Tạp chí Xây
dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản...; các đề án về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức trên địa bàn của các cơ quan chuyên môn ở tỉnh Thừa Thiên Huế có đề

cập ít nhiều về vấn đề này.
Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tương đối đầy
đủ và toàn diện về xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở tỉnh Thừa
Thiên Huế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình
khoa học đã được công bố. Mặc dù vậy, các công trình khoa học trên đây là tài liệu
tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện bản luận văn này.
3.

Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước

ở tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội
ngũ công chức hành chính nhà nước của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau
đây: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ công chức hành chính;
Phân tích làm rõ thực trạng xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà
nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua, từ đó nêu ra vấn đề hạn chế và nguyên
nhân làm cơ sở cho việc đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng
đội ngũ công chức hành chính ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ công
chức hành chính nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu công tác xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu thực trạng xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà

nước tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2010-2015.

4


5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và

duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước ta về xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh.
6.
6.1.
-

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
ngh a lý luận
Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội

ngũ công chức hành chính nhà nước, làm rõ đặc điểm của đội ngũ công chức hành
chính nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
-

Trên cơ sở đánh giá thực trạng về đội ngũ công chức hành chính nhà nước và


công tác xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước của tỉnh Thừa Thiên
Huế, luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công
chức hành chính nhà nước của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
.2. ngh a thực tiễn
-

Luận văn đã đề xuất được hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây

dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế;
-

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tư liệu tham khảo trong các cơ

sở đào tạo và nghiên cứu trong lĩnh vực công vụ và công chức, cũng như trong hoạt
động thực tiễn về xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước.
7.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung

của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về xây dựng đội ngũ công chức
hành chính nhà nước
Chương 2: Thực trạng xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở
tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đảm bảo xây dựng đội ngũ công chức
hành chính nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế

5



Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Công chức, công chức hành chính nhà nước
1.1.1.1. Công chức
Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về công chức. Các quốc gia xác
định người nào là công chức thường dựa trên các yếu tố về thể chế chính trị; tổ chức
bộ máy nhà nước; sự phát triển kinh tế - xã hội; truyền thống lịch sử văn hóa.


Cộng hoà Pháp, pháp luật quy định công chức là những người được tuyển

dụng và bổ nhiệm vào ngạch, làm việc ở các công sở trong cơ quan công quyền, tổ
chức phục vụ sự nghiệp công do Chính phủ thống nhất quản lý [36, tr.241].
Tại Trung Quốc, khái niệm công chức nhà nước dùng để chỉ những người công
tác trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Ở đây, công chức chia thành hai
loại: công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực hành chính nhà nước,
được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều lệ
công chức và Luật Tổ chức chính quyền các cấp; công chức nghiệp vụ là những
người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ nhiệm và
quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức, họ chiếm tuyệt đại đa số công chức nhà
nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành chính sách và pháp luật [36, tr.23-24].
Ở Mỹ, công chức bao gồm tất cả những nhân viên trong ngành hành chính của
Chính phủ, kể cả những người được bổ nhiệm về chính trị như: Bộ trưởng, thứ
trưởng, trợ lý bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan Chính phủ. Tuy nhiên, khái
niệm công chức trong diện điều chỉnh của Luật Công chức lại không bao gồm
những công chức được bổ nhiệm về chính trị, họ được gọi là công chức chức
nghiệp. Đặc điểm của công chức Mỹ là không mang tính thường xuyên liên tục mà

tồn tại hệ thống thải loại; việc tuyển chọn, bổ nhiệm công chức chủ yếu theo công
trạng thực tế, công chức chỉ được tuyển dụng vào một công việc cụ thể mà không có
con đường chức nghiệp [36, tr.352].

6


Đặc điểm chung của công chức của các nước trên thế giới đó là: họ là công dân
của nước sở tại; được tuyển dụng thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển; được bổ
nhiệm vào một ngạch, một chức danh hoặc gắn với một vị trí việc làm, theo đó tồn
tại hai chế độ công chức là: chế độ công chức “chức nghiệp” và chế độ công chức
“việc làm”.
Trong chế độ công chức “chức nghiệp”, công chức được tổ chức theo ngạch,
làm việc suốt đời và được thăng cấp, bậc trong ngạch hoặc thi tuyển lên ngạch cao
hơn. Muốn được tuyển vào ngạch họ phải đáp ứng tiêu chuẩn bằng cấp và kiến thức
nhất định. Trong chế độ công chức “việc làm” (theo vị trí công việc), công chức
không nhất thiết phải có bằng cấp và được bố trí vào một vị trí nhất định trong một
hệ thống cho các vị trí rất phức tạp. Một số nước áp dụng cả hai hình thức: chế độ
“chức nghiệp” cho công chức chuyên môn nghiệp vụ và chế độ “việc làm” cho công
chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.


Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành khá sớm và ngày càng

được hoàn thiện, gắn liền với sự phát triển của nền hành chính nhà nước.
Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công chức là Sắc lệnh số 76/SL
ký ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề cập đến
vấn đề công chức nhà nước, theo Điều 1 của Quy chế: “Những công dân Việt Nam
được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ
quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này, trừ

trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định” [19]. Đây là một quan niệm về công
chức hiện đại, tương đồng với quan niệm công chức trong pháp luật của nhiều nước
hiện nay.
Giai đoạn 1960 - 1980, pháp luật sử dụng thuật ngữ “cán bộ, công nhân, viên
chức”. Thuật ngữ này là khá chung chung, không có sự phân biệt giữa cán bộ với
công chức, viên chức và công nhân .
Thời kỳ đổi mới sau năm 1986, trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải
cách nền hành chính nhà nước, thuật ngữ “công chức” được sử dụng trở lại và được
quy định cụ thể hơn. Điều 1, Nghị định 169-HĐBT ngày 25/5/1991 của Hội đồng
bộ trưởng (nay là chính phủ) quy định: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ

7


nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung
ương hay địa phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào một ngạch,
hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp gọi là công chức Nhà nước”.
Hiện nay, theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, được cụ thể hóa
tại Nghị định 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010 của Chính phủ thì "công chức" là:

Công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ
sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước (đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật).
Từ quy định các đối tượng là công chức như trên, ta thấy công chức theo quy

định của pháp luật Việt Nam có nhiều điểm khác biệt với các nước, đó là: Công
chức không chỉ bao gồm những người làm việc trong hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước, mà còn bao gồm cả những người làm việc cho các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội như: Các phòng, ban tham mưu của cơ quan Đảng, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam…; các cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là một trong những đặc trưng cơ
bản nhất của công chức nước ta, xuất phát từ đặc thù của thể chế chính trị và tổ
chức bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể của nước ta.
Pháp luật về công chức ở nước ta quy định rõ quy trình tuyển dụng, đào tạo,
điều động, khen thưởng, kỷ luật, quy định những việc công chức không được làm.
Mọi công chức ở từng vị trí đều có tên gọi, chức vụ, chức danh rõ ràng. Chức danh
thể hiện rõ cấp chức, chức vụ phù hợp với yêu cầu của công việc và tiêu chuẩn
nghiệp vụ của cấp chức, chức vụ đó. Công chức có nghĩa vụ và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc thừa hành công vụ của mình và có trách nhiệm liên quan đến

8


việc thi hành công vụ của cấp dưới, công chức chỉ hoạt động cho công vụ, không
được dựa vào danh nghĩa nghề nghiệp, lợi dụng chức quyền để tiến hành các hoạt
động tư lợi duới bất kỳ hình thức nào, nội dung này thường được quy định rõ trong
luật. Bên cạnh đó, công chức được pháp luật bảo vệ trong khi thi hành công vụ;
được cơ quan sử dụng công chức và các cơ quan nhà nước có liên quan có trách
nhiệm bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Trong hoạt động công vụ của Nhà nước, có thể phân loại công chức theo
những cách khác nhau:
* Theo đặc thù và tính chất công việc
Nhằm phục vụ cho việc quy hoạch công chức, đáp ứng vêu cầu của các loại
công việc, tạo ra sự cân đối trong việc sắp xếp và quản lý công chức, người ta phân

công chức thành 4 loại:
- Công chức lãnh đạo: Là những công chức giữ cương vị chỉ huy trong điều
hành công việc. Tùy theo tính chất công việc ở các vị trí khác nhau mà phân ra công
chức lãnh đạo ở các cấp độ cao thấp khác nhau. Công chức lãnh đạo là nhưng người
được quyền ra các quyết định quản lý, tổ chức và điều hành những người dưới
quyền thực hiện công việc. Công chức lãnh đạo được giao những thẩm quyên, trách
nhiệm nhất định. Thẩm quyền và trách nhiệm đó gắn với chức vụ người lãnh đạo
đảm nhiệm, thẩm quyền càng cao thì trách nhiệm càng nặng nề.
- Công chức chuyên gia: Là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật,

khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và thực thi công
việc chuyên môn phức tạp. Họ là những người tư vấn cho lãnh đạo, đồng thời cũng
là những nhà chuyên môn tác nghiệp những công việc đòi hỏi phải có trình độ
chuyên môn nhất định.
-

Công chức chuyên môn, nghiệp vụ: Là những người được trao thẩm quyền

nhất định trong phạm vi công tác của mình để thừa hành công việc, thi hành công
vụ nhân danh quyền lực nhà nước. Trên cơ sở chuyên môn nghiệp vụ và nhiệm vụ
được giao, họ tham mưu cho lãnh đạo ra các quyết định quản lý hành chính và có
thể họ là người trực tiếp thực hiện các quyết định hành chính đó.
- Công chức là nhân viên hành chính: là những người thừa hành nhiệm vụ do

9


công chức lãnh đạo giao phó. Họ là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở
mức thấp nên chủ yếu là làm công tác phục vụ trong bộ máy nhà nước.
Phân loại công chức như trên chỉ có ý nghĩa định tính, nhằm giúp cho việc xác định

cơ cấu công chức trong việc quy hoạch, mà chưa rõ trình độ, năng lực của công chức trong
từng loại khác nhau, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa công chức.

Nghị định 117/2003/NĐ-CP phân loại công chức theo các tiêu chí sau:
* Phân loại theo trình độ đào tạo
Công chức được chia làm ba loại:
-

Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu đào tạo chuyên

môn giáo dục đại học và sau đại học.
- Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn giáo dục nghề nghiệp.
- Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào
tạo chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
Cách phân loại này kết hợp giữa trình độ đào tạo và công việc đảm nhiệm có ý nghĩa
nhất định về lý luận và thực tiễn trong việc chuẩn hóa trình độ chuyên môn của công chức,
khuyến khích họ phấn đấu học tập, nâng cao trình độ, thăng tiến theo chức nghiệp.

* Phân loại theo ngạch công chức
Ngạch công chức là một khái niệm chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên
môn và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một cấp độ về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và có tiêu chuẩn riêng, bao gồm 5 loại:
- Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên;
- Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương;
- Công chức ngạch chuyên viên và tương đương;
- Công chức ngạch cán sự và tương đương;
- Công chức ngạch nhân viên và tương đương.
1.1.1.2. Công chức hành chính nhà nước
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ

chưa có khái niệm chính thức về công chức hành chính nhà nước mà chỉ đề cập
chung như một thành phần chủ yếu trong khái niệm "công chức nhà nước".

10


Khái niệm về công chức đã được quy định tại Điều 4, Luật Cán bộ, công chức.
Vận dụng khái niệm này vào trường hợp cụ thể là công chức hành chính nhà nước,
có thể lấy khái niệm sau đây để làm sáng tỏ hơn: công chức hành chính nhà nước là
những công chức hoạt động trong các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương
đến địa phương đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước.


Việt Nam, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan của Nhà nước thực hiện

quyền hành pháp của Nhà nước, bao gồm cả quyền lập quy và quyền điều hành:
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, một số cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban
nhân dân các cấp và một số cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân các cấp.
Như vậy, có hai điểm cần lưu ý:
Thứ nhất, đây là một bộ phận của đội ngũ công chức nhà nước nói chung.
Thứ hai, lĩnh vực công tác của nhóm công chức này là quản lý nhà nước về
kinh tế, về xã hội, y tế, giáo dục...
Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ đi sâu vào phạm vi công chức hành chính
nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế, tức là ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã của Thừa
Thiên Huế. Theo Điều 6, Nghị định 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010 của Chính
phủ quy định những người là công chức thì công chức trong cơ quan hành chính ở
cấp tỉnh, cấp huyện, gồm:
- Ở cấp tỉnh:
Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng, người giữ chức vụ cấp trưởng,
cấp phó và người làm việc trong cơ cấu tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc

hội và Hội đồng nhân dân, Văn phòng ủy ban nhân dân;
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc ủy
ban nhân dân; người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong các tổ
chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân;
+

Trưởng ban, Phó Trưởng ban, người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và

người làm việc trong các tổ chức không phải là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ
cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thuộc ủy
ban nhân dân.

11


- Ở cấp huyện:
Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng và người làm việc trong Văn
phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
+

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, Chánh Văn phòng,

Phó Chánh Văn phòng và người làm việc trong văn phòng ủy ban nhân dân quận,
huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân;
Người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân.
- Đồng thời, tại Điểm 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức nêu rõ: Công chức
cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân

sách nhà nước. Công chức cấp xã, do làm việc ở cơ quan hành chính nhà nước cấp
xã - ủy ban nhân dân cấp xã - vì vậy cũng thuộc phạm vi xem xét trong khái niệm
công chức hành chính nhà nước.
Tại điểm 3, Điều 61 Luật Cán bộ, công chức, công chức cấp xã có các chức
danh sau: - Trưởng Công an;
- Chỉ huy trưởng Quân sự;
- Văn phòng - thống kê;
- Địa chính - xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc
địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
- Tài chính - kế toán;
- Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội.
Từ việc xem xét, làm rõ khái niệm, trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài này đi sâu
nghiên cứu công chức hành chính ở tỉnh Thừa Thiên Huế bao gồm những công chức trong
các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã của tỉnh Thừa Thiên Huế;
trong đó đề tài tập trung vào xây dựng đội ngũ công chức hành chính trong ủy ban nhân
dân và cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Văn phòng Đoàn đại
biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh, Văn phòng ủy ban nhân dân cấp huyện,
Ban Quản lý Khu kinh tế, công nghiệp tỉnh, còn phần công chức cấp xã tác giả chỉ đề cập
những vấn đề chung mà không đi sâu đánh giá.

12


1.1.1.3. Đặc điểm của công chức hành chính nhà nước
Công chức hành chính nhà nước là lực lượng trực tiếp thực thi các chức năng
hành pháp của nhà nước, thực hiện quản lý và điều hành đất nước theo pháp luật và
làm cho đất nước phát triển trên cơ sở đảm bảo kỷ cương phép nước. Các mệnh
lệnh, quyết định quản lý trong mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội là do công
chức hành chính triển khai thực hiện. Do vậy, công chức hành chính nhà nước có
những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Là chủ thể của nền công vụ
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước chủ yếu được vận hành thông qua nền
công vụ và đội ngũ công chức hành chính. Đội ngũ công chức hành chính nhà nước
là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, có chức năng
thực thi pháp luật và thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội.
Những loại nhiệm vụ này do chính đội ngũ công chức hành chính nhà nước các cấp
thực hiện, không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào bên ngoài. Đội
ngũ công chức là hạt nhân cơ bản của nền công vụ, là chủ thể thực sự tiến hành các
công vụ cụ thể và cũng chính là yếu tố đảm bào cho nền công vụ hoạt động, vận
hành có hiệu lực, hiệu quả.
Công chức hành chính nhà nước là người thực thi công vụ, trực tiếp thi hành
quyền lực nhà nước. Lao động của họ thực chất là lao động quyền lực, khác với lao
động sản xuất, kinh doanh và các dạng lao động xã hội khác. Sản phẩm lao động
của họ là các đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật hoặc các quyết định quản lý để
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời
sống, nhằm bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; quản lý, sử dụng có
hiệu qủa nguồn tài sản chung và ngân sách nhà nước, phát triển và ổn định kinh tế xã hội; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân danh quyền lực
nhà nước, phục vụ nhân dân, thực hiện ý tưởng phụng sự Tổ quốc là đặc điểm nổi
bật và duy nhất của nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Công chức trong bộ máy
hành chính nhà nước được trao quyền để thực thi công vụ, đồng thời, họ có bổn
phận phục vụ xã hội, công dân và chịu những ràng buộc nhất định do liên quan đến
chức trách đang đảm nhiệm. Họ có thể phải từ chức, bị truy cứu trách nhiệm hoặc

13


phải bồi thường thiệt hại nếu không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, ra quyết
định hành chính làm tổn hại lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Để thực hiện công vụ, công chức hành chính nhà nước được Nhà nước cung cấp
các điều kiện cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, phương tiện, điều kiện

làm việc... Họ được đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần như: hưởng lương từ
ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách và công việc, nhận các loại trợ cấp, phụ
cấp khác bằng tiền hoặc hiện vật và lương hưu khi đủ thời gian cống hiến cho nền công
vụ, được khen thưởng khi có công lao xứng đáng. Sự đảm bảo quyền lợi cho nguồn
nhân lực này có tính chất ổn định, lâu dài, thực tế là suốt đời nếu như công chức không
vi phạm kỷ luật bị thải hồi hoặc bị truy tố trước pháp luật.

- Là lực lượng lao động chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao
Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được tổ chức
và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện quyền hành pháp của
Nhà nước để điều hành, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo pháp luật và
bằng pháp luật, vì lợi ích của Nhà nước và của toàn xã hội, nhằm đảm bảo cho xã
hội ổn định và phát triển. Với chức năng đó, bộ máy nhà nước đòi hỏi phải có đội
ngũ công chức quản lý mang tính chất chuyên nghiệp, là những người thực hiện
công vụ thường xuyên, liên tục, có trình độ chuvên môn và được đào tạo, bồi dưỡng
về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước ở các mức độ khác nhau.
Hơn nữa, chức năng cơ bản của công chức hành chính nhà nước là thực thi
công vụ, thực thi quyền lực nhà nước, thực thi pháp luật; đây là một dạng lao động
đặc thù và phức tạp không cho phép có sai sót, không được vi phạm. Đồng thời, qua
thực tiễn hoạt động, chính đội ngũ công chức hành chính nhà nước là lực lượng
sáng tạo pháp luật, tham mưu đề xuất những chủ trương, chính sách, pháp luật quản
lý và phát triển xã hội, đất nước. Do vậy, công chức hành chính nhà nước phải am
hiểu và tinh thông pháp luật, thực hiện đúng pháp luật; nắm vững chuyên môn,
nghiệp vụ.
Tính chuyên nghiệp của công chức hành chính nhà nước được quy định bởi địa vị
pháp lý và được thể hiện qua hai yếu tố: thời gian, thâm niên công tác và trình độ năng
lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ hành chính. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ

14



với nhau tạo nên mức độ chuyên nghiệp của người công chức hành chính nhà nuớc.
Thời gian, thâm niên công tác tạo điều kiện để công chức thành thạo công việc và
đúc rút kinh nghiệm trong thực thi công vụ, còn trình độ hiểu biết pháp luật, năng
lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ hành chính tạo khả năng hoàn thành những
công việc được giao.
Chính vì vậy, ngay khi tuyển dụng, cơ quan nhà nước đã yêu cầu người dự tuyển
phải có chuyên môn, có đủ tiêu chuẩn về độ tuổi, phẩm chất chính trị, đạo đức... Trong
điều kiện hiện nay, đội ngũ công chức phải có trình độ chuyên môn hóa cao, được đào
tạo một cách chính quy và hệ thống, đồng thời phải luôn luôn được bồi dưỡng, cập nhật
kịp thời các thông tin và tri thức mới của khoa học công nghệ. Không thể xây dựng
được nền công vụ và nền hành chính nhà nước nói chung, chính quy hiện đại, phục vụ
đắc lực nhân dân nếu đội ngũ công chức chưa được quản lý và đào tạo cơ bản theo
hướng chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cao.

- Là đội ngũ tương đối ổn định, mang tính kế thừa
Đội ngũ công chức hành chính nhà nước của nước ta hoạt động ổn định, ít chịu
biến động nhằm duy trì tính ổn định, liên tục của nền hành chính; họ được bảo hộ
bằng quy định "biên chế nhà nước". Tuy nhiên, cơ chế này cũng tạo thành môi
trường nuôi dưỡng sự thụ động, dựa dẫm, trì trệ của một bộ phận không nhỏ công
chức. Bởi công chức đã thuộc diện biên chế chỉ trừ khi vi phạm pháp luật, hoặc vi
phạm đến mức bị kỷ luật buộc thôi việc còn thường thì họ làm việc từ khi được
tuyển dụng cho đến khi nghỉ hưu.
Hiện nay, xã hội không ngừng phát triển; đối tượng điều chỉnh của pháp luật
ngày càng mở rộng và phức tạp hơn; yêu cầu của khách hàng về chất lượng phục vụ
ngày càng cao nhưng các cơ quan hành chính nhà nước không thể tuyển dụng hàng
loạt người lao động mới, vì rằng việc tuyển dụng và giải quyết các lao động dôi dư
trong các cơ quan hành chính nhà nước luôn liên quan đến một loạt các vấn đề về
chính sách, chế độ xã hội phức tạp.
Trước thực tế khách quan đó, đòi hỏi công chức hành chính nhà nước phải

luôn được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Giải pháp hiệu quả thích hợp trong
điều kiện hiện nay là xây dựng hệ thống chính sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng,

15


sắp xếp, đề bạt, thuyên chuyển, đãi ngộ phù hợp để giảm thiểu tối đa sự chênh lệch
về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực hiện có bằng bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công
chức nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các cơ quan hành chính nhà nước.
Chú trọng chất lượng tuyển dụng nhân lực, thu hút, khuyến khích nhân tài thực thi
công vụ. Hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm trong tuyển dụng công chức
hành chính nhà nước.
- Hoạt động của công chức hành chính nhà nước diễn ra thường xuyên,
liên tục
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương
đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, chính trị, xã hội, ngoại giao, an ninh quốc phòng với các mặt hoạt động hết sức
phong phú và phức tạp gồm tài chính, ngân sách nhà nước, kế toán, kiểm toán,
thống kê, tín dụng, bảo hiểm, tài sản công, khoa học, công nghệ, môi trường, kế
hoạch, xây dựng, bưu chính viễn thông, giao thông vật tải, nông nghiệp, y tế, văn
hóa, giáo dục... Tất cả các hoạt động đó đều liên quan hàng ngày và trực tiếp hoặc
gián tiếp đến cuộc sống của tất cả mọi người dân, đòi hỏi hệ thống các cơ quan quản
lý hành chính nhà nước và đội ngũ công chức hành chính nhà nước phải đủ năng
lực, thẩm quyền để giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi quản lý, điều hành
một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả.
- Đội ngũ công chức hành chính nhà nước phải am hiểu và tôn trọng luật
pháp và thông lệ quốc tế
Trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, tất yếu Nhà nước phải giải
quyết các quan hệ pháp lý mang yếu tố quốc tế, đồng thời phải ký kết và thực hiện các

công ước quốc tế, các tập quán và thông lệ quốc tế trong tất cả các lĩnh vực. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này, đội ngũ công chức hành chính nhà nước phải có tri thức, phải am
hiểu và tôn trọng luật pháp và thông lệ quốc tế. Muốn vậy, trước hết họ phải có kiến
thức pháp luật và trình độ ngoại ngữ nhất định, đủ để có thể giao tiếp, đọc hiểu các văn
bản pháp luật, hợp đồng mang tính quốc tế. Do vậy, Nhà nước cần phải quan tâm, chú
trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức có đầy đủ

16


phẩm chất và năng lực, am hiểu và có khả năng thực sự giải quyết tốt các quan hệ có

yếu tố nước ngoài.
1.1.2. Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước
1.1.2.1. Xây dựng, xây dựng đội ngũ
Hiểu theo nghĩa chung nhất, xây dựng là quá trình tác động của chủ thể có
nhiệm vụ xây dựng đến một đối tượng nhất định theo ý tưởng, mục tiêu mong muốn
từ trước. Theo Từ điển tiếng Việt, cụm từ “xây dựng” có nghĩa là làm nên, gây dựng
nên; tạo ra cái có giá trị tinh thần, có ý nghĩa trừu trượng; thái độ, ý kiến có thiện ý,
nhằm làm cho tốt hơn [59, tr.1411].
Việc xây dựng đội ngũ công chức của một ngành, một lĩnh vực hay một cơ
quan đơn vị giống như xây dựng một công trình. Muốn cho chất lượng công trình
tốt, bền đòi hỏi phải có vật liệu tốt, người thợ xây phải có kỹ thuật, có đạo đức, có
tinh thần trách nhiệm... Tổ chức của một ngành, một đơn vị cũng vậy, muốn vững
mạnh thì nền tảng của nó phải là đội ngũ nhân sự là những công chức có năng lực
và phẩm chất. Mặt khác, trong quá trình xây dựng đội ngũ còn đòi hỏi những người
“thợ xây”, những người làm công tác tổ chức phải có tâm, có tầm. Hay nói cách
khác, công tác tổ chức cán bộ cũng là một trong những yếu tố quyết định xây dựng
đội ngũ nhân lực, quyết định sự thành công hay thất bại của một đơn vị.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung là tổng thể các biện pháp của

các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể trong xây dựng tiêu chuẩn; đánh giá; quy
hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; luân chuyển, điều động; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề
bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức... nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán
bộ, công chức theo hướng bố trí đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn
yêu cầu hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới.
1.1.2.2. Đội ngũ, đội ngũ công chức hành chính nhà nước:
Từ “đội ngũ” được xem là chỉ một nhóm người, được tổ chức và tập hợp thành
một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng hoặc nghề nghiệp nhất định.
Theo từ điển tổ chức và công tác tổ chức thì: “Đội ngũ là tập hợp số đông
người, xếp thành hàng ngũ, để thực hiện công việc nào đó. Các thành viên trong
một tổ chức hợp thành đội ngũ để thực hiện mục tiêu chung của cách mạng”[60].

17


Từ những quan niệm trên, có thể hiểu đội ngũ công chức là tập hợp nhiều
người được xác định là công chức, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện các
nhiệm vụ quản lý nhà nước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, tạo thành một khối thống nhất và
hoạt động theo sự phân công, phối hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong thực
hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Đội ngũ công chức hành chính nhà nước có vị trí vô cùng quan trọng đối với
sự tồn vong và phát triển của mỗi quốc gia. Vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là:
nếu đội ngũ công chức hành chính nhà nước có số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp
lý, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, thì chẳng
những đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được xây dựng
đúng, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mà việc tổ
chức thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước có khả năng hiện thực. C.Mác đã

khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn" là như vậy.
1.1.2.3. Khái niệm xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước


bình diện chung nhất có thể hiểu xây dựng đội ngũ công chức hành chính

nhà nước là hoạt động của nhà nước, cụ thể là cơ quan có thẩm quyền nhằm hình
thành đội ngũ công chức hành chính nhà nước đảm bảo các yêu cầu, đòi hòi của
hoạt động quản lý nhà nước trong hiện tại và tương lai.
Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước là quá trình tuyển dụng, đào
tạo và quá trình xây dựng tổ chức bộ máy. Bao gồm việc xác định chủ trương, mục
tiêu, đến việc xây dựng tiêu chuẩn, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức... Nói cách khác đây là quá trình trang bị một cách hệ
thống và toàn diện kỹ năng nghề nghiệp cơ bản nhất để đáp ứng các tiêu chuẩn đối
với từng loại công chức không chỉ về chuyên môn nghiệp vụ mà cả về phẩm chất,
nhân cách có thể đảm đương được nhiệm vụ thực thi công vụ.
Như vậy: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước là toàn bộ các
hoạt động, từ việc xác định chủ trương, mục tiêu, đến việc xây dựng tiêu chuẩn,

18


×