Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC VỀ VẤN ĐỀ CÁC MẶT ĐỐI LẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.86 KB, 11 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN:
TRIẾT HỌC MAC-LÊNIN

Đề: Bạn hiểu thế nào về kết hợp các mặt đối lập? Hãy vận dụng lý luận
này vào việc giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong hoạt động kinh doanh
hoặc trong cuộc sống hằng ngày của bạn.

-Sinh viên thực hiện:
-Khóa/Lớp:
-MSSV:
TP.HCM/ngày 28 tháng 11 năm 2019


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh
LỜI MỞ ĐẦU

-Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc.
Sự vật mâu thuẫn hình thành bởi nhiều nhiều mâu thuẫn bên trong và khi mâu
thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác bắt đầu hình thành.
-Trong cuộc sống của chúng ta được bao quanh bởi các sự vật, hiện tượng
của tự nhiên; những sự vật, hiện tượng đó luôn tồn tại theo những chiều hướng
khác nhau như đúng hoặc sai, hợp lý hay chưa hợp lý,… tùy thuộc vào cách nhìn
nhận, nhận thức của chúng ta về mối quan hệ biện chứng tồn tại trong các sự vật,
hiện tượng để từ đó chúng ta tìm được hướng giải pháp tốt nhất trong từng trường
hợp cụ thể.



MỤC LỤC


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

I. Sự kết hợp các mặt đối lập:………………………………………………………1
I.1. Mặt đối lập:…………………………………………………………………1
I.2. Cắc mặt đối lập vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau:………………….1
I.3. Sự đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập:………………………….2
II. Sự vận dụng vào cuộc sống hiện tại:……………………………………………3
II.1. Trong lĩnh vực kinh tế:…………………………………………………….3
II.2. Trong cuộc sống hiện nay:………………………………………………...6


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

NỘI DUNG
I. Sự kết hợp các mặt đối lập:
I.1.Mặt đối lập:
-Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ
biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả các sự
vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau.
-Ví dụ: trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền. Những mặt trái

ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.

I.2. Các mặt đối lập vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau:
-Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa, ràng buộc quy định lẫn
nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau của các mặt đối lập. Không có sự thống nhất của
các mặt đối lập thì không tạo ra sự vật.
-Theo nghĩa hẹp sự thống nhất là sự đồng nhất, phù hợp ngang nhau của hai
mặt đối lập đó là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối
lập là tạm thời tương đối, nghĩa là nó chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, đó
chính là trạng thái đứng im, ổn định tương đối của sự vật, tính tương đối của sự
thống nhất của các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hoá thành các bộ
phận các sự vật đa dạng phức tạp, gián đoạn.
-Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ phủ định biện chứng lẫn
nhau của các mặt đối lập (sự đấu tranh hiểu theo nghĩa tác động ảnh hưởng lẫn
nhau của các mặt đối lập chứ không phải theo nghĩa đen).Sự đấu tranh của các mặt
đối lập là tuyệt đối vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất.
Page |5


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

Sự đấu tranh của các mặt đối lập tạo lên tính chất tự thân, liên tục của sự vận động
phát triển của sự vật. Cũng vì vậy muốn thay đổi sự vật thì phải tăng cường sự đấu
tranh.
-Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp diễn ra từ thấp đến
cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng.
+ Giai đoạn đầu: Mâu thuẫn biểu hiện ra ở sự khác nhau của hai mặt đối lập

song không phải sự khác nhau nào cũng là mâu thuẫn mà chỉ hai mặt khác nhau
nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể có khuynh hướng phát triển
trái ngược nhau mới tạo thành giai đoạn đầu của mâu thuẫn, trong giai đoạn này
sự đấu tranh chưa rõ và chưa gay gắt;
+ Giai đoạn sau: Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau
biến thành đối lập, khi đó hai mặt đối lập càng rõ, càng sâu sắc thì sự đấu tranh
giữa chúng ngày càng gay gắt và quyết liệt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai
mặt chuyển hoá lẫn nhau và mâu thuẫn đợc giải quyết.

I.3.Sự đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập
-Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển
hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ
nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đén chuyển hoá, bài trừ và phủ
định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một
cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải diễn
ra thông qua hoạt động có ý thức của con người.
-Đấu tranh của các mặt đối lập gây ra những biến đổi của các mặt đối lập khi
cuộc đấu tranh của các mặt đối lập trở lên quyết liệt và có điều kiện chín muồi thì
sự thống nhất bị phá huỷ, các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá của

Page |6


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ bị mất đi, sự vật
mới xuất hiện. Các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau với ba hình thức.
-Các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia và

ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật. Ví dụ: Mâu
thuẫn giữa vô sản và tư sản biểu hiện thành cuộc cách mạng vô sản lật độ giai cấp
tư sản.
-Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển hoá thành mặt đối lập mới. Ví dụ: Giải
quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ (chế độ phong kiến) xã hội lại xuất hiện
mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản (Chế độ TBCN).
-Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau, cải biến lẫn nhau. Trong sự vật mới lại có
mâu thuẫn mới, các mặt đối lập trong mâu thuẫn mới lại đấu tranh với nhau, làm
cho sự vật ấy lại chuyển hoá thành sự vật khác tiến bộ hơn, cứ như vậy mà các sự
vật hiện tượng thường xuyên biến đổi và phát triển không ngừng, vì vậy, mâu
thuẫn là nguồn gốc động lực của mọi quá trình vận động phát triển của sự vật hiện
tượng.

II. Sự vận dụng vào cuộc sống hiện tại:
II.1. Trong lĩnh vực kinh tế:
-Ứng dụng tư tưởng kết hợp mặt đối lập để nâng cao khả năng cạnh tranh và
quản lý doanh nghiệp. Ví như khi nhu cầu thị trường thay đổi nhanh chóng khiến
cho kế hoạch ban đầu đã trở nên sai lầm. Đây là lúc xảy ra sự đấu tranh giữa hai
mặt đối lập. Cần có sự kết hợp hoàn hảo giữa hai mặt đối lập. Chủ thể quyết định ở
đây cần có bản lĩnh chính trị và khả năng điều chỉnh hợp lý để qua sự kết hợp này
phát triển doanh nghiệp một cách hợp lý.
-Đặc biệt, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, bên cạnh những thay đổi chúng ta
cần chú ý để có những giải pháp đúng đắn trước những vấn đề mới trong việc bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống;

Page |7


Tiểu luận Triết học


Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền. Từ đó, doanh nghiệp mới thực
sự phát triển bền vững.
-Trong hoạt động tư vấn thẩm định dự án là mâu thuẫn xảy ra giữa lợi ích của
chủ đầu tư và lợi ích chung của toàn xã hội. Khi chủ đầu tư nhận thấy một cơ hội
kinh doanh trong lĩnh vực, chủ đầu tư sẽ lên ý tưởng và thẩm định ý tưởng kinh
doanh đó thông qua các chỉ tiêu về hiện giá thuần (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ
(IRR), thời gian thu hồi vốn,… Tuy nhiên đó chỉ là những con số để thể hiện một
dự án là có hiệu quả hay không về mặt kinh tế mà chưa xét đến đầy đủ về mặt xã
hội của một quốc gia. Đặc biệt trong các dự án công có tổng mức đầu tư lớn, ảnh
hưởng đến sự phát triển của một quốc gia, dân tộc thì vấn đề này trên một lần nữa
cần hết sức quan tâm. Các dự án cần có được sự thẩm định một cách đầy đủ, chính
xác nhất để đảm bảo nguồn vốn được đầu tư hợp lý vì nước ta là một nước đang
phát triển, mọi nguồn vốn đầu tư công đều có sự viện trợ và vay nợ từ nước ngoài,
do đó số tiền bỏ ra đầu tư một dự án công cần phải thực sự có hiệu quả cho quốc
gia. Nhìn chung, hoạt động thẩm định dự án cũng như các hoạt động khác là đều có
quy trình, các cơ sở thẩm định theo quy ước quốc tế và quy định pháp luật hiện
hành nên kết quả thẩm định sẽ là cơ sở để đánh giá một dự án thật sự. Tuy nhiên
trong hoạt động tư vấn có những mâu thuẫn trên là vì chỉ số đánh giá hiệu quả kinh
tế rất dễ được điều chỉnh từ không hiệu quả thành hiệu quả và ngược lại để phục vụ
mục đích của chủ đầu tư. Các thông số trong quá trình thẩm định dự án gồm rất
nhiều khoản và hạng mục khác nhau, chỉ cần có sự thay đổi nhỏ trong các thông số
thì kết quả thẩm định dự án sẽ có sự khác biệt đáng kể. Ngoài ra quá trình thẩm
định dự án được chia làm nhiều thành giai đoạn như thẩm định tiền khả thi, thẩm
định khả thi,…,do đó mức độ tin cậy từ kết quả thẩm định dự án sẽ khác nhau và
tùy thuộc vào yêu cầu của chủ đầu tư theo từng giai đoạn của dự án. Các dự án
đánh giá càng sơ bộ thì có mức độ sai số càng lớn, cụ thể như ở mức độ đánh giá
sơ bộ dự án thì có độ chính xác ±50%. Chính vì những lý do trên, mâu thuẫn giữa
Page |8



Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

lợi ích của chủ đầu tư và lợi ích chung của toàn xã hội là mâu thuẫn quan trọng
nhất trong hoạt động tư vấn thẩm định dự án
-Trong hoạt động tư vấn chiến lược phát triển kinh doanh cũng tồn tại những
mâu thuẫn gay gắt đó là chiến lược phát triển ngắn hạn và chiến lược phát triển dài
hạn. Chiến lược ngắn hạn và dài hạn đều có ưu, nhược điểm khác nhau, do đó hoạt
động tư vấn cần giải quyết được những mâu thuẫn phát sinh giữa hai loại chiến
lược trên để giúp doanh nghiệp hoạt động được tốt hơn. Tuy nhiên cần phải nhìn rõ
được đâu là ưu, nhược điểm của từng chiến lược và hướng ưu tiên sử dụng từng
chiến lược phải phù hợp với giai đoạn phát triển của công ty. Chiến lược phát triển
ngắn hạn là chiến lược phát triển kinh doanh của công ty nhằm mục đích tăng
doanh thu và lợi nhuận trong ngắn hạn, cắt giảm tối đa các chi phí không thật sự
cần thiết và chỉ tập trung đến việc làm sao để bán được nhiều sản phẩm để đem
doanh thu về công ty trong thời gian ngắn và nhất thời. Nhưng đồng thời cũng kể
đến những nhược điểm khi sử dụng chiến lược ngắn hạn đó là đã sử dụng mọi
nguồn lực tiềm năng đã được sử dụng hết mà không đầu tư và phát triển sẽ khiến
cho công ty đó thật sự khó khăn trong tương lai. Chiến lược phát triển dài hạn là
chiến lược với mục tiêu là sự phát triển bền vững của công ty trong một giai đoạn
dài từ 10 đến 20 năm và tầm nhìn đến 25 – 30 năm, chiến lược dài hạn sẽ giúp
công ty nhận thấy đâu là vấn đề mấu chốt trong sự phát triển của công ty, từ đó các
công ty tập trung nguồn lực, tài chính để phát triển. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh khi
công ty chọn chiến lược phát triển dài hạn là trong giai đoạn ngắn hạn từ 3 đến 5
năm đầu, doanh thu và lợi nhuận của công ty sẽ không có sự tăng trưởng đáng kể,
ngoài ra áp lực đầu tư cho công ty ngày càng nhiều sẽ làm suy kiệt nguồn tài chính
của công ty cũng như làm tinh thần của nhân viên bị giảm sút do thành quả trong

tương lai còn quá xa để đạt đến cũng là nguyên nhân dẫn đến chiến lược dài hạn
cũng khó thực hiện được. Người tư vấn khi thực hiện chiến lược của công ty cần

Page |9


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

phải hiểu rõ được các vấn đề tồn tại trong công ty, cũng như xác định rõ được các
cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp; bởi lẽ các sự xác định
trên hoàn toàn bằng phương pháp định tính chỉ có một số ít là có thể định lượng
được. Nhìn chung, trong bất cứ hoạt động cụ thể nào cũng luôn tồn tại những vấn
đề mâu thuẫn với nhau, việc xác định và nhận thức được những mâu thuẫn đó là
những bước đầu, từ đó vận dụng lý thuyết kết hợp biện chứng các mặt mặt đối lập
để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh.

II.2. Trong cuộc sống hiện nay:
-Tư tưởng về sự kết hợp các mặt đối lập đã được Đảng ta vận dụng triệt để
trong thời kỳ đổi mới. Điều đó thể hiện trong một loạt các chủ trương: phát triển
kinh tế nhiều thành phần, kết hợp kế hoạch với thị trường, chính sách đại đoàn kết
toàn dân, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế... Thực hiện các chủ trương đó, như Đảng ta đã khẳng định, phải dựa trên
nguyên tắc "bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường"
-Tuy nhiên, sự kết hợp các mặt đối lập không phải chỉ ở tầm vĩ mô, mà còn ở
tầm vi mô, ở những công việc, công tác cụ thể. Do đó, chủ thể kết hợp các mặt đối
lập trong quá trình xây dựng đất nước hiện nay không chỉ có Đảng, Nhà nước, mà
còn có cả những cá nhân, những cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nhưng dù ở cấp độ nào,

ở phạm vi nào thì sự thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập cũng đòi hỏi chủ thể
phải vừa có năng lực, vừa có bản lĩnh; vừa táo bạo, vừa phải tỉnh táo.
- Trong giai đoạn phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện
nay, sự kết hợp các mặt đối lập là thời cơ, nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ
không thể xem thường. Thận trọng quá mức, thiếu sự táo bạo sẽ bỏ lỡ thời cơ,
nhưng thiếu chủ động, kết hợp một cách vô nguyên tắc cũng sẽ dẫn tới những sai
lầm. Kết hợp các mặt đối lập là tư tưởng biện chứng, thể hiện tính linh hoạt, mềm
dẻo trong cách mạng. Tư tưởng đó hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa cách mạng
tả khuynh, nhưng cũng khác về nguyên tắc với chủ nghĩa cải lương, hữu khuynh
trong việc chấp nhận và giải quyết mâu thuẫn.
- Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện
các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính tiền
P a g e | 10


Tiểu luận Triết học

Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh

tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những
ai đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích.

P a g e | 11



×