Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.44 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------

NGUYỄN TẤN CHINH

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------

NGUYỄN TẤN CHINH

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự với đề
tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh”. Trước hết tôi xin chân
thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Luật hình sự và tố tụng hình sự đã định
hướng cho tôi trong việc chọn lựa đề tài trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn –
người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi
trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Nguyễn Tấn Chinh


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn
Tất Viễn. Các số liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được
sử dụng trong bất cứ một nghiên cứu nào khác.
Tôi cam đoan mọi tham khảo trong luận văn này đều được ghi rõ nguồn
gốc, trích dẫn rõ ràng. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết luận
văn, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Nguyễn Tấn Chinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................6
1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi ............6
1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự ....................................................6
1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi ...........................................................................8
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi .......................................................10
1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi ...............................................................12
1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên tòa hình
sự sơ thẩm. .............................................................................................................17
1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa.........................................................17

1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa ...........................................................18
1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án .........................................................18
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến
nay về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. ........................................................19
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
1988 ....................................................................................................................19
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
2003 ....................................................................................................................21
1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
............................................................................................................................23
1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 ............................................................................................................24
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
TP. HỒ CHÍ MINH.................................................................................................27
2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi ....................................................................27
2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ................................................................27


2.1.2. Hội thẩm nhân dân ...................................................................................29
2.1.3. Kiểm sát viên ............................................................................................31
2.1.4. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
............................................................................................................................34
2.1.5. Người giám định .......................................................................................38
2.1.6. Người định giá tài sản ..............................................................................39
2.2. Thi hành các quy định về nội dung xét hỏi.....................................................40
2.3. Thi hành các quy định về trình tự xét hỏi .......................................................47
2.4. Thi hành các quy định về công bố lời khai, xem xét vật chứng tại phiên tòa 52
2.5. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc ..................................................57
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG CÁC QUY

ĐỊNH VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM ..........................59
3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét hỏi.......60
3.2. Tăng cường hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS về xét hỏi ......63
3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng xét hỏi của Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm tại phiên tòa. ........................................................66
3.4. Đề cao trách nhiệm và đảm bảo quyền của người bào chữa trong xét hỏi .....73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

HTND

Hội thẩm nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

TAND


Tòa án nhân dân

VKS

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành, công tác tư pháp đã có những
chuyển biến nhất định. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW,
ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì công tác tư pháp
đã có những đổi mới căn bản. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt
động của các cơ quan tư pháp được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố,
kiện toàn; Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tốt; Công
tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án phúc
thẩm đã cơ bản được khắc phục; Tỷ lệ khám phá án, điều tra, truy tố, xét xử đạt cao
và năm sau đều cao hơn năm trước; Chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên toà” được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các phiên toà, vai
trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn...
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hệ thống tư pháp, trong đó có tư pháp hình
sự còn bộc lộ những bất cập, hạn chế như chưa có sự phân định hợp lý giữa các chức
năng cơ bản của tố tụng, dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng
chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp, cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo chưa hoàn thiện; ý kiến tranh luận, tranh tụng của các luật
sư vẫn chưa thực sự được coi trọng, không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa thực
sự dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị huỷ, sửa

còn chiếm tỷ lệ khá cao; Phương pháp điều tra, xét hỏi vẫn là phương pháp chủ yếu
được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng v.v… Những vướng mắc, bất cập nêu
trên đã ảnh hưởng đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự là thủ tục trọng tâm, quan trọng của giai
đoạn xét xử vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có những thay đổi về quy
1


định thủ tục xét hỏi so với các Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành trước đó,
nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về pháp luật thực định và cả việc áp dụng pháp
luật trên thực tế. Đổi mới và hoàn thiện thủ tục xét hỏi không phải là vấn đề mới
được đặt ra, nhưng những gì đạt được hiện nay chưa đáp ứng được cao nhất yêu cầu
cải cách tư pháp, vẫn còn tồn tại nhiều tranh luận khi áp dụng các quy định của Bộ
luật TTHS trong xét xử. Do đó, trên cơ sở phân tích những mặt ưu điểm, tiến bộ của
quy định thủ tục xét hỏi hiện hành, bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập
cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét hỏi cũng là
một trong những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm.
Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận
10, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự được một số tác giả đề cập trong các bài
viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, cụ thể
là:
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trương Tín (2007), Tranh tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
bảo vệ tại Trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Võ Hồng Phúc (2016), Hoàn thiện thủ tục
xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ tại trường Đại

Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ Luật học Đặng Minh Phương (2013), Hoạt động xét hỏi
của Kiểm sát viên trong Tố tụng hình sự Việt Nam) bảo vệ tại trường Đại Học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận án TS của Nguyễn Văn Hiển (2011), Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội.

2


- Bài viết “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo Bộ luật
tố tụng hình sự 2003” của tác giả Đinh Văn Quế.
- Bài viết “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,” của Lê Thị Thúy
Nga đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008.
- Bài viết của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn “Hoàn thiện một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, Tạp chí Luật học, số 10/2009
- Bài viết “Quá trình hình thành và phát triển thủ tục xét hỏi, tranh luận tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ” của tác
giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 11/2014.
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Chủ biên. GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 2013;
- Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TS. Nguyễn Ngọc Kiên,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017 và một số công trình khác có liên quan.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập nhiều vấn đề về thủ tục xét hỏi
liên quan đến áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 được ban hành cũng bắt đầu bộc lộ vướng mắc. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn
áp dụng pháp luật TTHS cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện thủ tục xét hỏi trong
phiên tòa sơ thẩm hình sự..

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa
sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này từ thực tiễn TAND Quận 10,
TP. Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp
luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:

3


- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật của thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự.
- Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về xét hỏi trong hoạt động xét xử
sơ thẩm từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định pháp luật về thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân Quận 10, TP Hồ Chí Minh
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được
vận dụng để nghiên cứu tính thống nhất của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, tính

thống nhất nội tại của thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự. Nguyên lý về sự phát triển,
quy luật lượng đổi-chất đổi được sử dụng để nghiên cứu quá trình hoàn thiện chế
định pháp luật về xét hỏi trong TTHS. Các phạm trù nội dung và hình thức, khả
năng và hiện thực được sử dụng để nghiên cứu về xét hỏi trong các mô hình tố tụng
hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận văn gồm: phương pháp hệ
thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào quá trình nghiên cứu một
cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề của thủ tục xét hỏi qua đó đề ra các kiến nghị
4


giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại
phiên tòa sơ thẩm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự ở TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh và có thể là tài liệu tham
khảo cho một số TAND cấp quận.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của Luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét hỏi tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm.
Chương 2: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về xét hỏi tại Tòa án nhân dân Quận 10.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định của Bộ luật
TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN
TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi
1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự
Xét xử sơ thẩm được xem là việc xét xử lần thứ nhất do Tòa án có thẩm
quyền thực hiện theo quy định pháp luật. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
sau khi đã kết thúc giai đoạn điều tra, truy tố. Xét xử được thực hiện bằng một
phiên tòa mà tại đó, các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày, tranh luận và cả các tình
tiết, nội dung chưa từng công bố hay thu thập trước đó được xem xét, đánh giá công
khai ngay tại phiên tòa để đi đến việc xác định tội phạm và hành vi phạm tội. Xét
xử sơ thẩm được xem là giai đoạn quan trọng nhất của việc thực hiện quyền tư
pháp, vì là xem xét vụ án về nội dung. Giai đoạn này có vai trò đặc biệt quan trọng,
tác động đến toàn bộ hệ thống tư pháp. Nếu xét xử tốt, khách quan, đúng pháp luật,
công lý được thực hiện ngay ở cấp sơ thẩm, quyền lợi của người dân sẽ được thực
hiện nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Việc nâng cao chất lượng xét xử ở cấp cơ sở là yêu cầu hàng đầu của cải cách
tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp, có ý nghĩa quyết định đến các nội
dung khác của cải cách, bắt buộc phải thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm có thể đánh
giá được sự công bằng, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà trong đó, Tòa
án ở giữa có quyền “cầm cân nảy mực”, những quyền và lợi ích hợp pháp mà bên
yếu thế hơn nhận được, quyền con người có được đề cao hay không, khả năng của
cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng đến đâu trong việc
tìm ra sự thật khách quan để không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người
vô tội. Phiên tòa sơ thẩm không chỉ xem xét chứng cứ mà còn đòi hỏi các chủ thể
tham gia tố tụng phải đưa ra các lý lẽ thuyết phục, sắc bén, nhanh chóng phù hợp

với diễn biến phiên tòa và các tài liệu có liên quan thu thập được. Do đó, tổ chức tốt
một phiên tòa sơ thẩm cũng là phương pháp để nâng cao kinh nghiệm xét xử, nâng

6


cao khả năng tranh tụng, bảo vệ quan điểm của các chủ thể tham gia như luật sư,
người bào chữa, kiểm sát viên.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, lần đầu tiên vụ án hình sự được
đưa ra xem xét công khai với tất cả các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều
tra cùng với các chứng cứ mới được xem xét một cách khách quan, toàn diện, trực
tiếp. Tại phiên tòa bị cáo thực hiện quyền của mình như tự mình bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa, được quyền trình bày quan điểm gỡ tội của mình trước Hội
đồng xét xử.
Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác phải thực hiện nhiệm
vụ theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng các quyền của
mình, tránh sự xâm phạm các quyền đối với bị cáo. Phiên tòa sơ thẩm là cơ hội để bị
cáo sử dụng các quyền của mình lần đầu tiên tại phiên tòa một cách công khai. Đây là
điểm khác với giai đoạn điều tra. Vì vậy phiên tòa HSST trước hết phải tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật TTHS: Bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, xác định
sự thật của vụ án và nguyên tắc suy đoán vô tội…Trong những nguyên tắc chung
được quy định tại BLTTHS 2015 thì hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội và
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại các phiên tòa sơ thẩm của Việt Nam chưa
thực sự được đảm bảo. Việc xét hỏi trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đã bộc lộ
nhiều hạn chế, dẫn đến phiên tòa hình sự sơ thẩm tập trung vào việc luận tội, xét hỏi
dựa trên những chứng cứ thu thập được tại các giai đoạn tố tụng trước đó, các cơ
quan tiến hành tố tụng về một phía và bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền lợi ích cho

bị can, bị cáo về một phía yếu hơn.
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng
hình sự, Hội đồng tham gia xét xử phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử biểu
quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế Hội thẩm chưa phát huy hết vai trò chủ
7


động, tích cực của mình trong quá trình xét xử, đặc biệt ở việc xét hỏi gần như phụ
thuộc hoàn toàn vào Thẩm phán, hỏi không làm rõ được nội dung vụ án, hỏi không
đúng trọng tâm hoặc không tham gia xét hỏi. Do đó trong công tác chuẩn bị xét xử
và điều hành diễn biến tại phiên tòa, trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa rất nặng nề.
Kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng là lúc ban hành các phán quyết liên quan
đến hành vi phạm tội, tội phạm và hình phạt bị cáo phải chịu hay giải phóng bị can,
bị cáo khỏi sự trừng phạt của pháp luật.
Những yếu tố trên cho thấy, xét xử sơ thẩm hình sự có vị trí quan trọng trong
suốt quá trình tố tụng, khi lần đầu tiên các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ được
kiểm chứng công khai tại phiên tòa, các quan điểm chính thức của Viện kiểm sát
được đưa ra, những lập luận để bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo được trình bày.
Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp giữ vị trí trung tâm trong
việc điều hành và kiểm soát diễn biến phiên tòa, xem xét các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ, xem xét tội danh và điều khoản áp dụng, đồng thời giải quyết quyền lợi
của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…trong cùng một vụ án. Quan
trọng nhất là kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đưa ra quyết
định bị cáo có tội hay không có tội, tội phạm và hình phạt cụ thể dành cho bị cáo.
Cũng tại giai đoạn này, quyền kháng cáo của bị cáo được đặt ra. Trong khi ở cấp
phúc thẩm, bị cáo đã không còn quyền kháng cáo. Đề cao tính chất đặc biệt của xét
xử sơ thẩm hình sự, qua đó cho thấy việc xét hỏi theo đúng trình tự thủ tục, xét hỏi
có khoa học và bám sát nội dung vụ án là tiền đề chuẩn bị cho việc nghị án, tuyên
án chính xác, khách quan, đúng người đúng tội, hạn chế tối đa oan sai cũng như hạn

chế tiến hành giải quyết thủ tục kháng cáo sau phiên tòa sơ thẩm, làm kéo dài thời
gian giải quyết một vụ án hình sự.
1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi
Bộ luật TTHS không đưa ra định nghĩa thế nào là thủ tục xét hỏi mà chỉ quy
định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và các vấn đề khác có liên quan đến thủ
tục hỏi tại một phiên tòa hình sự. Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu và giảng
dạy, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về thủ tục xét hỏi, Giáo trình Luật TTHS Việt
8


Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xem xét công khai những chứng
cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án”.
Định nghĩa này đánh giá hoạt động xét hỏi chủ yếu ở việc xem xét chứng cứ và
chưa nêu bật được những vấn đề quan trọng khác trong thủ tục xét hỏi như về mặt
chủ thể và vai trò trung tâm của giai đoạn xét hỏi trong toàn bộ quá trình xét xử sơ
thẩm một vụ án hình sự.
Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế: “Xét hỏi là thủ tục chính của
phiên tòa sơ thẩm, trong đó Tòa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra
chứng cứ của bên buộc tội, thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do
bên bào chữa đề xuất được Tòa án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự
kiện khách quan của vụ án” [18, tr.3-10]. Tại định nghĩa này, tác giả đã đề cập đến
chủ thể thực hiện hoạt động xét hỏi, trong đó Tòa án đóng vai trò quan trọng trong
việc đánh giá các chứng cứ trong vụ án để đạt được mục đích là tìm ra sự thật khách
quan. Tuy nhiên, định nghĩa chưa nêu được đầy đủ các hoạt động khác trong thủ tục
xét hỏi, bởi việc xem xét chứng cứ chỉ là một trong các hoạt động trong thủ tục này.
Tác giả Võ Hồng Phúc cho rằng: “Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm
trong quá trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác
định sự thật vụ án. Trong đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và
những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực

tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng; xem xét chứng cứ, kết luận điều
tra, bản cáo trạng; xem xét hiện trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra công khai tất cả
tình tiết liên quan đến vụ án tại phiên tòa” [16, tr.7]. Định nghĩa về xét hỏi mà tác
giả Võ Hồng Phúc đưa ra là tương đối toàn diện. Qua các ý kiến trên đây, có thể
thấy xét hỏi tại phiên tòa hình sự là một hoạt động tố tụng được thực hiện bởi những
chủ thể khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa,
Người giám định…việc xét hỏi phải theo một trình tự tố tụng chặt chẽ được quy
định tại BLTTHS. Mục đích của việc xét hỏi nhằm xem xét lại các chứng cứ được
thu thập tại giai đoạn điều tra, các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa. Thông
9


qua việc xét hỏi, xác định được sự thật khách quan của vụ án, đi đến mục đích
chứng minh có hay không tội phạm và hành vi phạm tội.
Việc hỏi và trả lời phải được tiến hành công khai, trực tiếp bằng lời nói tại
phiên tòa và thủ tục hỏi phải diễn ra liên tục bắt đầu từ sau khi Kiểm sát viên đọc
bản cáo trạng và chấm dứt tại thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần
hỏi và chuyển sang phần Kiểm sát viên trình bày luận tội và các chủ thể khác thực
hiện quyền bào chữa tại phiên tòa. Có thể nói, tại phiên tòa, thủ tục xét hỏi đóng vai
trò vô cùng quan trọng, là bước quyết định để làm sáng tỏ vụ án, xác định lại những
người, những tình tiết có liên quan hoặc không liên quan, qua đó có thể quyết định
có cần thu thập thêm chứng cứ hay không? Giai đoạn này làm tiền đề cho phần
tranh luận và tuyên án. Khi đã tuyên án, Chủ tọa phiên tòa không được quyền trở lại
phần xét hỏi. Do đó, toàn bộ hoạt động chứng minh tội phạm tại phiên tòa và xem
xét toàn diện các vật chứng, lời nói, lời bào chữa.... được diễn ra chủ yếu trong giai
đoạn xét hỏi.
Tại giai đoạn xét hỏi, các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền hỏi theo
những mục đích khác nhau tùy vào vai trò của mình. Chủ tọa, Hội thẩm thực hiện
việc hỏi để tìm ra sự thật của vụ án, Kiểm sát viên hỏi để bảo vệ cho quan điểm
trong cáo trạng truy tố của mình, người bào chữa hỏi để bảo vệ quyền lợi cho thân

chủ của mình... Tuy nhiên, tất cả đều đi đến mục đích chung là chứng minh có hay
không tội phạm và việc xét hỏi trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan của vụ
án, không nhằm mục đích che giấu tội phạm hoặc làm sai lệch nhận thức về hành vi
phạm tội và các dấu hiệu tội phạm.
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi
Trước khi chuyển sang mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng (theo
tinh thần và nội dung Bộ luật TTHS năm 2015), tố tụng hình sự Việt Nam trong
một thời gian dài xác định việc tìm kiếm sự thật chủ yếu bằng phương pháp điều
tra, thẩm vấn. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng.
Phương pháp điều tra được thực hiện dưới hình thức xét hỏi, chủ thể của việc xét
hỏi đầu tiên và trước hết sau khi Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng thuộc về Hội
10


đồng xét xử và được quyền hỏi toàn bộ các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án.
Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự...Trong mô hình tố
tụng hình sự thẩm vấn, Tòa án có vai trò tích cực, chủ động trong việc xác định sự
thật của vụ án, khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, mô hình tố tụng thẩm
vấn trao cho Tòa án quyền chủ động rất lớn trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án
hình sự, việc xét xử tại phiên tòa thực chất là giai đoạn Tòa án tiếp tục củng cố tài
liệu, chứng cứ trên cơ sở dữ liệu do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát lập nên.
Điểm giống nhau trong chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan kể trên với Tòa án là
cùng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người
đúng tội.
Tòa án được tiếp xúc hồ sơ vụ án ngay từ trước khi mở phiên tòa, thời gian
nghiên cứu hồ sơ tương đối dài. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Tòa án được
quyền trả lại hồ sơ cho Viện kiệm sát để điều tra bổ sung, hoặc khi có căn cứ cho
rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, khi phát hiện có sự vi
phạm thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử thông qua hoạt động xét hỏi, xem xét chứng

cứ, tài liệu tại phiên tòa để đi đến kết luận cuối cùng về tội phạm và hình phạt.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau nhưng trong tố tụng hình sự, các nhiệm vụ chức năng của ba cơ quan được
quy định cũng đều nhằm mục đích đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động chứng
minh sự thật vụ án. Các cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau
mà trong đó, Tòa án giữ vị trí trung tâm và là cơ quan sau cùng có thẩm quyền
quyết định, kết luận lại tất cả các hoạt động thu thập được ở giai đoạn trước đó,
quyết định tính hợp pháp và thuyết phục của chứng cứ do các cơ quan đưa ra và
tuyên án để khép lại vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam phân biệt các
chức năng của TTHS bao gồm: buộc tội, xét xử và bào chữa, trong đó Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh bị can phạm tội, Tòa án là cơ quan
xét xử và người bào chữa cho bị can, bị cáo thực hiện chức năng bào chữa. Việc
11


phân định rõ chức năng nhằm mục đích tạo ra bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
tố tụng, chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự bình đẳng ở đây không chỉ là địa
vị pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên mà thừa nhận khả năng ngang bằng
nhau của các bên trong hoạt động chứng minh, đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu
cầu. Trong phạm vi xét hỏi, nếu bên buộc tội được sử dụng những quyền gì khi
tham gia tố tụng thì bên buộc tội cũng được áp dụng những quyền đó, ví dụ quyền
đặt câu hỏi, quyền xem xét chứng cứ. Còn về Tòa án, việc phân định chức năng
phải xác định Tòa án là cơ quan độc lập và khách quan trong xét xử.
Xét hỏi là thủ tục trọng tâm tại phiên tòa sơ thẩm, vì tính chất đặc biệt quan
trọng của nó nên BLTTHS năm 2015 đã hướng dẫn thủ tục này khá đầy đủ bằng
Mục V - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cần vận dụng linh hoạt
các quy định trong quá trình xét hỏi để đạt được mục đích chứng minh tội phạm, đổi
mới việc xét hỏi kết hợp với tranh tụng theo xu hướng tiếp cận gần hơn với các nền
lập pháp tiên tiến trên thế giới, kết hợp giữa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và

mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Qua đó góp phần thực hiện chủ trương và định
hướng được xác định tại các Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 48 –
NQ/TW của Bộ chính trị, đó là cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo
hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện; bảo
đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất
lượng tranh tụng tại Tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
khâu đột phá để nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp.
1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi
Trong xét hỏi tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành
TTHS cũng như những người tham gia TTHS cần tuân thủ các nguyên tắc TTHS
với các yêu cầu cụ thể sau đây:
- Việc xét hỏi phải công khai: Công khai phái sinh từ nguyên tắc Hiến định là
Tòa án xét xử công khai…trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước…Tòa án có
thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai (Điều 67 – Hiến pháp 1946, Điều 101
– Hiến pháp 1959, Điều 133 – Hiến pháp 1980, Điều 131 – Hiến pháp 1992, Điều
12


103 – Hiến pháp 2013, Điều 18 BLTTHS 2003). Tòa án đóng vai trò quan trọng
trong công tác xét xử, đại diện cho quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước trong
việc quyết định số phận pháp lý của một công dân, do đó việc xét xử và xét hỏi
công khai là nguyên tắc đầu tiên cần tuyệt đối tuân thủ, có xét xử và xét hỏi công
khai thì nhân dân và các cơ quan quyền lực khác mới thực hiện được quyền giám
sát của mình. Qua đó mới đánh giá được tính công bằng, khách quan và đảm bảo
được pháp chế xã hội. Việc ghi nhận nguyên tắc này ngay trong Hiến pháp đã thể
hiện quan điểm của nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền con người, với mục đích
cao nhất là hướng đến một nền tư pháp mà không ai bị đối xử bất công, cho dù
người đó đang bị cáo buộc phạm tội và sắp đối mặt với những hình phạt của pháp
luật.
Nguyên tắc xét hỏi công khai đặt ra yêu cầu xem xét, đánh giá chứng cứ và

đưa ra kết luận cuối cùng, tất cả phải được diễn ra tại phiên tòa, có sự tham gia của
các cơ quan khác ngoài Tòa án, của những người tham gia phiên tòa, tham gia tố
tụng như Luật sư, người làm chứng, bị hại, người nhà bị cáo và cả những người
tham dự phiên tòa mà không có bất kỳ sự liên quan nào đến vụ án. Nguyên tắc này
dần trở nên quan trọng trong thời điểm hiện nay khi nhu cầu bảo vệ cao hơn nữa
quyền con người, quyền và lợi ích cơ bản, hợp pháp của công dân đang được đặt ra
trong xã hội hiện đại.
Nguyên tắc xét hỏi công khai không được quy định thành điều luật cụ thể
nhưng trong các quy định về thủ tục tại phiên tòa thì được thể hiện ở nhiều nội dung
khác nhau như Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, công bố lời khai trong giai
đoạn điều tra, truy tố. Những vấn đề khác như xem xét hiện trường, tài liệu đồ vật
không thể đưa đến phiên tòa, cả việc phải công khai các băng ghi âm, ghi hình khi
bị cáo cho rằng bị bức cung, nhục hình, các báo cáo tài liệu của cơ quan, tổ chức về
những tình tiết của vụ án trong trường hợp không có đại diện của cơ quan, tổ chức
tham dự thì Hội đồng xét xử công bố tài liệu, báo cáo đó tại phiên tòa cũng cho thấy
việc xét xử, xét hỏi công khai gần như được tiến hành và tuân thủ suốt quá trình tố
tụng của một vụ án hình sự. Nguyên tắc công khai phải được thực hiện nghiêm túc
13


theo trình tự pháp luật quy định là nền tảng cho tính thuyết phục của bản án, quyết
định của Tòa án và đi đến mục đích cuối cùng là chứng minh sự thật khách quan
của vụ án.
- Việc xét hỏi phải tiến hành trực tiếp, bằng lời nói: Cũng như nguyên tắc xét
hỏi công khai, nguyên tắc xét hỏi trực tiếp, bằng lời nói và liên tục không được quy
định bằng điều luật cụ thể mà xuất phát từ quy định tại Điều 250 BLTTHS 2015:
“Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục”. Nguyên tắc xét hỏi trực tiếp đặt ra yêu
cầu những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải có mặt tại
phiên tòa, trừ những trường hợp đặc biệt được pháp luật cho phép vắng mặt tại
phiên tòa mà không ảnh hưởng đến việc xét xử. Trên cơ sở đó, chủ thể thực hiện

việc hỏi bao gồm thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên… trực tiếp dùng lời
nói để hỏi những người liên quan khác nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, khẳng định
lại các tình tiết và củng cố toàn diện các vấn đề khác để Hội đồng xét xử xem xét
trước khi tuyên án. Việc hỏi trực tiếp phải do chính chủ thể hỏi thực hiện, nhưng
phạm vi hỏi, nội dung hỏi còn tùy thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình mà pháp luật cho phép.
Việc hỏi trực tiếp tại phiên tòa cũng là một hoạt động cần thiết của Hội đồng
xét xử, vì trước khi mở phiên tòa, Hội đồng xét xử chỉ nghiên cứu những tài liệu có
trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chuyển đến. Thông qua việc
xét hỏi trực tiếp bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới có thể đánh giá chính xác
hành vi phạm tội của bị cáo có phù hợp, có liên quan với chứng cứ trong hồ sơ vụ
án hay không? Việc xét hỏi trực tiếp có thể nói là nhiệm vụ quan trọng, là trách
nhiệm của Hội đồng xét xử khi Hội đồng xét xử không phải là cơ quan thu thập
chứng cứ tại giai đoạn điều tra truy tố, không trực tiếp hỏi cung và tiếp xúc với bị
can, bị cáo, nên để tìm ra sự thật của vụ án, xác định đúng người, đúng tội và tránh
oan sai thì không có hoạt động nào thực tế hơn là việc xét hỏi trực tiếp. Nguyên tắc
này cũng đảm bảo cho tính độc lập trong xét xử của Tòa án, thông qua việc hỏi trực
tiếp, Hội đồng xét xử có thể quyết định khác với cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố,
có thể đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
14


Xét hỏi bằng lời nói là việc hai nhóm chủ thể khác nhau, một bên nêu câu hỏi
và một bên trả lời. Để có thể đạt được mục đích trao đổi thông tin thì phải dùng lời
nói. Và “Chỉ bằng lời nói người ta mới trình bày chính xác những suy nghĩ và nhận
xét của mình. Vì vậy, không thể xét xử mà không nghe lời khai về các chứng cứ
buộc tội, gỡ tội và yêu cầu của các người có quyền lợi và nghĩa vụ được giải quyết
trong vụ án” [1, tr.145]. Bên được hỏi có quyền trả lời hoặc im lặng trước câu hỏi
của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác đặt ra. Quyền im lặng là
quyền cơ bản và phổ biến của công dân tại nhiều nước trên thế giới nhưng tại Việt

Nam chỉ chính thức ghi nhận khi BLTTHS 2015 có hiệu lực thi hành. Tuy nhà lập
pháp không quy định cụ thể thành “Quyền im lặng của bị can, bị cáo” nhưng tinh
thần của quy định này được thể hiện gián tiếp tại Điều 60 – Điểm d, BLTTHS 2015
và Điều 61 – Điểm h: “… Không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Theo đó, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên
tòa, bị can, bị cáo có thể không khai báo hoặc không bắt buộc trả lời các câu hỏi của
Hội đồng xét xử và những người khác nếu nhận thấy có thể bất lợi cho mình. Trước
tình huống này, Hội đồng xét xử sẽ tiếp tục hỏi những người khác và xem xét
những vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án theo quy định tại Khoản 3 - Điều
309 BLTTHS 2015.
Hội đồng xét xử bắt buộc phải dùng lời nói trong toàn bộ quá trình xét xử,
nhưng bị can, bị cáo có quyền không trả lời là một quy định tiến bộ của pháp luật tố
tụng hình sự, đưa tinh thần bảo vệ quyền con người, quyền công dân tiến gần hơn
đến các nền pháp luật tiến bộ trên thế giới. Trước những cơ quan đại diện cho quyền
lực nhà nước, bị can, bị cáo là bên yếu thế hơn được bảo vệ, không phải đặt mình
vào tình thế bất lợi khi phải đưa ra câu trả lời để chống lại mình.
Nguyên tắc xét hỏi bằng lời nói được pháp luật dự liệu cả trong trường hợp
bị cáo, bị hại, đương sự, người làm chứng không biết tiếng Việt, là người câm,
người điếc. Khi đó cần phải có người phiên dịch để dịch cho họ nghe, hiểu lời trình
bày, các câu hỏi, câu trả lời tại phiên tòa, nội dung quyết định của Hội đồng xét xử
và các vấn đề khác có liên quan đến họ.
15


Có thể nói xét xử bằng lời nói là cách thức, phương pháp của nguyên tắc xét
xử trực tiếp. Phiên tòa nơi thể hiện đầy đủ nhất ba chức năng cơ bản của Tố tụng
hình sự là chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Và cả ba chức
năng này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, để có thể hiểu, lắng nghe ý kiến của các
bên, trình bày quan điểm đối đáp thì cả ba chức năng được các bên truyền đạt, thể
hiện ý chí bằng lời nói. Qua đó, tính công khai minh bạch của một phiên tòa được

đảm bảo, là cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ quyền con người ngay tại Tòa án.
- Việc xét hỏi phải liên tục: Bên cạnh yếu tố trực tiếp, bằng lời nói của việc
xét hỏi thì tính liên tục cũng là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình xét xử một
vụ án hình sự. Bởi từ khi bắt đầu khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phiên tòa
bằng việc Tòa tuyên án, rất nhiều nội dung cần được làm rõ, nhiều người liên quan
có thể đưa ra nhiều chứng cứ, tài liệu khác nhau, do đó tính liên tục của việc xét hỏi
sẽ đảm bảo cho quá trình tố tụng đi theo một trình tự chặt chẽ, nhanh gọn, hạn chế
kéo dài phiên tòa và cũng nhằm mục đích để cơ quan tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng tập trung vào các tình tiết của vụ án, có cái nhìn khách quan,
cô đọng, rõ ràng không mơ hồ về việc xét xử của Tòa án cho đến giai đoạn kết thúc.
Quá trình xét xử gồm nhiều thủ tục nối tiếp nhau, thủ tục trước đó là căn cứ để phát
sinh các nội dung cần xem xét ở thủ tục sau, có mối quan hệ nhân quả với nhau, vì
vậy nếu để phiên tòa gián đoạn hoặc tạm ngừng quá lâu, khi bắt đầu lại một phiên
tòa mới sẽ gây khó khăn cho những người tham gia trong việc xâu chuỗi các tình
tiết, thiếu sót trong việc đánh giá toàn diện chứng cứ sẽ dễ dẫn đến phán quyết sai
lầm hoặc nhận định vấn đề chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của bị
can, bị cáo. Hội đồng xét xử phải làm việc liên tục, trừ thời gian nghỉ theo luật định,
giai đoạn nghị án cũng là lúc Hội đồng xét xử làm việc và trong suốt quá trình diễn
ra phiên tòa, có thành viên Hội đồng xét xử dự khuyết tham gia nếu thành viên
chính thức của Hội đồng xét xử không thể có mặt. Trong khi đang tham gia xét xử
một vụ án, Hội đồng xét xử không được tham gia tố tụng đối với một vụ án khác.
Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm với vị trí là cấp xét xử thứ nhất, nguyên tắc
xét hỏi công khai, bằng lời nói và liên tục được thể hiện toàn diện nhất, dựa trên cáo
16


trạng của Viện kiểm sát thì phiên tòa được tiến hành, “ Không có buộc tội thì không
có xét xử”. Để phiên tòa sơ thẩm diễn ra nhanh chóng, khách quan thì những
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự cần được thực thi nghiêm túc trong các giai
đoạn của một vụ án hình sự, đặc biệt chú trọng đến các hoạt động công khai diễn ra

ngay tại phiên tòa.
1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên
tòa hình sự sơ thẩm.
1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa là thủ tục bắt buộc phải có đối với bất kỳ phiên tòa
sơ thẩm hình sự nào được mở. Thủ tục xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy
định trong Mục V. Hai thủ tục này độc lập với nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ,
được tiến hành theo trình tự liên tiếp. Xét hỏi vừa tiếp nối thủ tục bắt đầu phiên tòa
nhưng cũng là tiền đề cho thủ tục nghị án và tuyên án. Trước khi tiến hành thủ tục
xét hỏi, phải đảm bảo đúng thành phần những người tham gia tố tụng và những
người tiến hành tố tụng, đây là yếu tố đảm bảo việc xét xử trước hết phải đúng
người, xác định những người có liên quan đến vụ án như nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người làm chứng… Tại thủ tục khai mạc phiên tòa, Thẩm phán – chủ tọa
phiên tòa phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, nội dung của Quyết định này ghi
nhận gần như đầy đủ thành phần tham gia xét xử và những người được triệu tập đến
phiên tòa, xét xử vụ án gì và tư cách tham gia tố tụng của từng người. Những người
có mặt, vắng mặt tại phiên tòa đều có những quyền, nghĩa vụ riêng biệt tùy thuộc
vào tư cách tham gia tố tụng. Thẩm phán phải phổ biến quyền và nghĩa vụ cho họ
biết. Thủ tục bắt đầu phiên tòa sẽ là cơ sở để Tòa án xét hỏi và nghe ý kiến trình bày
của những người có mặt tại phiên tòa ở các phần thủ tục tiếp theo.
Tại giai đoạn này, có thể phiên tòa sẽ được tiếp tục hoặc Hội đồng xét xử
quyết định hoãn nếu xét thấy không đảm bảo về thủ tục tố tụng và việc xét xử sẽ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người vắng mặt và có mặt. Do
đó, khi phiên tòa phải hoãn thì cũng không thể tiến hành thủ tục xét hỏi. Thủ tục bắt
đầu phiên tòa có thể cung cấp thêm những người làm chứng hoặc những tài liệu, đồ
17


vật mới…mà trước đó không được đề cập trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Những người được kiểm tra căn cước trong giai đoạn này sẽ được xét hỏi hoặc được

trình bày ở các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, để phiên tòa được tiến hành xuyên suốt,
liên tục thì cũng cần kiểm tra đầy đủ thủ tục bắt đầu.
1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa
Xét hỏi và tranh luận là hai thủ tục riêng biệt, độc lập, tuy cùng nằm trong
phần tranh tụng tại phiên tòa. Thủ tục xét hỏi theo mô hình tố tụng hiện nay thuộc
nhiệm vụ chính của Hội đồng xét xử gồm Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa, các hội
thẩm và Kiểm sát viên. Tranh luận là thủ tục tố tụng được thực hiện sau phần xét
hỏi, sau khi các nội dung chủ yếu về mặt chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét, trừ
khi thấy cần thiết, thì Hội đồng xét xử có thể quay trở lại phần xét hỏi, thông
thường khi Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần hỏi thì mới chuyển sang phần
tranh luận. Phần thủ tục tranh luận thể hiện rõ nhất ý chí, các quan điểm, lập luận để
bảo vệ quyền và lợi ích cho bị cáo, bác bỏ quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát
hoặc đưa ra các tình tiết, chứng cứ nhằm mục đích giảm nhẹ hình phạt mà bị cáo
phải chịu, thường phần tranh luận, người bào chữa sẽ đưa ra quan điểm về tội phạm
và hình phạt dưới mức án đề nghị của Viện kiểm sát.
Thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì
chứng cứ, tài liệu của vụ án được kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn tại phần xét hỏi.
Đây là cơ sở để các bên đưa ra lập luận của mình tại phần tranh luận dựa trên các
chứng cứ được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa. Có thể nói xét hỏi là tiền đề
của tranh luận, là cơ sở để các bên xây dựng luận cứ cho phần tranh luận. Do đó để
việc tranh luận thật sự có hiệu quả, đáp ứng được ý chí của các bên thì phần xét hỏi
phải chi tiết, cụ thể, đi vào những nội dung chính, quan trọng của vụ án.
1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án
Thủ tục nghị án và tuyên án là phần thủ tục cuối cùng của một phiên tòa hình
sự, được tiến hành liền ngay sau thủ tục tranh luận. Đến giai đoạn này, Tòa án, bên
buộc tội và bên gỡ tội đã nắm được toàn bộ diễn biến, chứng cứ, nội dung và quan
điểm của các bên. Thủ tục nghị án và tuyên án, vai trò chính thuộc về Hội đồng xét
18



×