Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Cao cấp LL Chính trị Hồ Chí Minh 2019 ĐỂ CƯƠNG môn Xây DỰNG ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.56 KB, 58 trang )

ĐỂ CƯƠNG MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG
Câu 1 (loại 1). Đảng ta xác định: giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay. Đồng chí hãy phân tích làm rõ quan điểm trên.
Gợi ý
Quan điểm trên có nghĩa là trong công tác xây dựng Đảng hiện nay rất cần
thiết phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đây là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng.
ĐCS VN là của GCCN VN, là đội tiên phong chiến đấu của GCCN, nhân dân
lao động và dân tộc VN. Đảng mang bản chất GCCN, đây là căn cứ để phân biệt
chính đảng cộng sản chân chính, cách mạng với các ĐCS khác.
Bản chất GCCN của Đảng ta phản ánh ở các mặt sau:
- Về tư tưởng: Đảng lấy CN Mác-Lênin, tư tưởng HCM lam nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
- Về chính trị: Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập, dân tộc và CNXH. Mọi
chủ trương, đường lối của Đảng đều vì mục đích, lợi ích của GCCN, nhân dân lao
động và dân tộc VN. Đảng mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới trên
nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
- Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động: Đảng lấy tâp trung dân chủ làm nguyên
tắ cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng; đồng thời thực hiện các nguyên tắc:
tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật.
Có thể khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
là vấn đề cơ bản, bao trùm và xuyên suốt chi phối toàn bộ hoạt động của Đảng, từ
hoạt động xây dựng bản thân Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức
lãnh đạo và phong cách công tác, đến hoạt động lãnh đạo cách mạng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng trở thành người lãnh đạo toàn xã hội,
chịu trách nhiệm về đời sống vật chất và tinh thần của toàn dân, về vận mệnh của
đất nước của dân tộc, thì bản chất giai cấp công nhân của Đảng lại càng chi phối
mạnh mẽ, toàn diện hoạt động của đảng. Đảng tiến hành xây dựng bản thân mình
phải theo lập trường quan điểm của giai cấp công nhân; Đảng lãnh đạo các tổ chức


trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội và lãnh đạo các lĩnh vực đời
sống xã hội cũng phải trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân; Đảng giải quyết
mối quan hệ với các nước có chế độ chính trị khác nhau cũng phải trên cơ sở lập
trường, quan điểm của giai cấp công nhân.
Trong các thời kỳ cách mạng, nhất là khi trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng
cộng sản lại luôn luôn là mục tiêu quan trọng trong sự chống phá quyết liệt của các
thế lực thù địch. Trong đó, bản chất giai cấp công nhân của Đảng là trọng tâm quan
trọng nhất trong sự chống phá của chúng. Bởi vì, tiến hành việc đó chúng nuôi hy
vọng làm cho đảng biến chất, không còn là đảng mácxít chân chính thì sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng lãnh đạo cũng không thể thành công. Trong


thời kỳ đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, bản chất giai cấp công nhân của
đảng vốn đã quan trọng, trong thời kỳ đảng cầm quyền, bản chất ấy lại càng quan
trọng hơn. Việc giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
trong các thời kỳ cách mạng luôn luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các
Đảng cộng sản. Điều đó đã trở thành quy luật của các Đảng cộng sản.
Đối với Đảng ta, việc khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng và
tăng cường bản chất ấy, lại càng đặc biệt quan trọng. Việc khẳng định như thế là rất
cần thiết để phân biệt ranh giới giữa lập trường giai cấp công nhân với lập trường
giai cấp tư sản; để nhấn mạnh đối với phần lớn đảng viên rằng, tuy không xuất thân
từ giai cấp công nhân, nhưng đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, họ phải
đặt lên hàng đầu việc thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện theo lập trường, quan điểm
của giai cấp công nhân, nếu không chịu tu dưỡng, rèn luyện họ sẽ không giữ được
bản chất giai cấp công nhân và sẽ bị đào thải.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề bản chất giai cấp
công nhân của Đảng và đề ra các chủ trương, giải pháp giữ vững và tăng cường bản
chất ấy, xem đó là yêu cầu sống còn của Đảng; nhờ đó Đảng ta đã không ngừng lớn
mạnh, trưởng thành, làm tốt sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từng bước

giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
đồng thời cũng chứng tỏ Đảng ta là một Đảng kiên định, mẫu mực trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng
và không ngừng nâng cao bản chất ấy là bài học kinh nghiệm lớn nhất, cơ bản nhất
về công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Đảng ta đang đứng trước những thách thức mới,
quyết liệt chưa từng có. Việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
được đặt ra cấp bách, có những thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách
thức to lớn, quan hệ đến sự sống còn của Đảng và sự tồn tại, phát triển của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng ta đã nhận thức sâu sắc vấn đề đó, đã đề ra các
chủ trương, giải pháp tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều
kiện mới và tổ chức thực hiện đạt kết quả hết sức khả quan. Nhờ đó Đảng ta ngày
càng phát triển, lớn mạnh, thực sự là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, lãnh
đạo công cuộc đổi mới giành thắng lợi to lớn.
Để giữ vững và tăng cường bản chất GCCN, mỗi cán bộ, đảng viên cần quán
triệt và thực hiện tốt các nội dung cơ bản sau:
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. trong bất kỳ tình
huống nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.
- Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp hần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta để đề ra đường
lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng.


- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức
của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và Đảng viên theo quan điểm của

giai cấp công nhân.
- Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại,
tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Câu 2. Đồng chí cần phải làm gì và làm như thế nào để giữ vững bản chất
giai cấp công nhân của Đảng?
Gợi ý
1. Bản chất GCCN của ĐCS VN
ĐCS VN là của GCCN VN, là đội tiên phong chiến đấu của GCCN, nhân dân
lao động và dân tộc VN. Đảng mang bản chất GCCN, đây là căn cứ để phân biệt
chính đảng cộng sản chân chính, cách mạng với các ĐCS khác.
Bản chất GCCN của Đảng ta phản ánh ở các mặt sau:
- Về tư tưởng: Đảng lấy CN Mác-Lênin, tư tưởng HCM lam nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
- Về chính trị: Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập, dân tộc và CNXH. Mọi
chủ trương, đường lối của Đảng đều vì mục đích, lợi ích của GCCN, nhân dân lao
động và dân tộc VN. Đảng mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới trên
nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
- Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động: Đảng lấy tâp trung dân chủ làm nguyên
tắ cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng; đồng thời thực hiện các nguyên tắc:
tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật.
Có thể khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
là vấn đề cơ bản, bao trùm và xuyên suốt chi phối toàn bộ hoạt động của Đảng, từ
hoạt động xây dựng bản thân Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức
lãnh đạo và phong cách công tác, đến hoạt động lãnh đạo cách mạng.
2. Để giữ vững và tăng cường bản chất GCCN, mỗi cán bộ, đảng viên cần

quán triệt và thực hiện tốt các nội dung cơ bản sau:
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. trong bất kỳ tình
huống nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, xuất phát từ bản chất GCCN của Đảng; là lý
tưởng của GCCN; là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, nhân dân ta,
dân tộc ta đã lựa chọn ngay từ khi Đảng mới ra đời. Thực tế lãnh đạo cách mạng
của Đảng cho thấy, bản chất GCCN của Đảng luôn đứng trước những thách thức
không nhỏ. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, trước những tác động của tình hình
trong nước và quốc tế, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và sự tác
động mạnh mẽ từ mặt trái của kinh tế thị trường, bản chất GCCN của Đảng đứng


trước những thách thức mới hết sức gay gắt. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp thoái hoá, biến chất về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, có biểu hiện bất
mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Bệnh cơ hội,
cá nhân chủ nghĩa trong cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, vấn đề
đặt ra hết sức cấp thiết là toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức
khắc phục những yếu kém, lệch lạc cả trong tư tưởng, nhận thức và hành động,
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp hần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta để đề ra đường
lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn.
Đây là vấn đề chủ yếu thể hiện bản chất GCCN của Đảng. Bởi lẽ, chủ nghĩa
Mác - Lê-nín, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Điều đó, đòi hỏi Đảng ta, nhất là các cấp uỷ đảng và đội ngũ đảng
viên giữ vai trò chủ chốt phải ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận; trong lãnh
đạo, quản lý, phải tiếp tục đổi mới tư duy; nắm vững bản chất cách mạng và khoa
học, phương pháp luận, tính hệ thống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đoạn tuyệt với chủ nghĩa giáo điều, kinh viện; khắc phục tình trạng “tầm

chương, trích cú”, không hiểu được bản chất của vấn đề. Trên cơ sở đó, phát huy
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vận dụng sáng tạo lý luận vào từng điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của các cấp, các ngành, địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng. Không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động trong đời sống
xã hội, phong trào công nhân nước ta và trên thế giới; kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc những trí tuệ, tinh hoa của
nhân loại, để bổ sung, xây dựng, phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận vững chắc, đề
ra đường lối, chính sách phù hợp với lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và dân
tộc ta. Đẩy mạnh đấu tranh chống mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những tư tưởng, hành động lạc hậu,
sai trái, bảo thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận vào thực tiễn.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng.
Đây là vấn đề cốt tử , quyết định sự tồn tại, phát triển của các Đảng Cộng sản.
Bởi lẽ, đó là những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng Cộng sản; là
tiêu chí để xác định bản chất GCCN của Đảng, phân biệt chính đảng kiểu mới của
GCCN, đảng cách mạng chân chính với các đảng phái chính trị khác. Thực tiễn lịch
sử hoạt động của các Đảng Cộng sản trên thế giới cho thấy, nếu xa rời, từ bỏ các
nguyên tắc này, thì lúc đó Đảng sẽ trở thành một thứ câu lạc bộ, mở đường cho chủ
nghĩa cơ hội, bè phái, vô chính phủ hoạt động, làm cho sức mạnh của Đảng bị phá
hoại tận gốc, Đảng bị tan rã về mặt tổ chức, đánh mất vai trò lãnh đạo của mình. Để
thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mỗi
cán bộ, đảng viên cần phải thường xuyên nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và các
nội dung cơ bản của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Phải thấy rõ


tập trung và dân chủ là thống nhất biện chứng với nhau, thực hiện tốt tự phê bình và
phê bình là để giúp nhau cùng tiến bộ; thực hiện tốt các nguyên tắc này sẽ đảm bảo
cho Đảng ta ngăn chặn có hiệu quả những tác động xấu của mặt trái kinh tế thị

trường vào nội bộ Đảng; Đảng ta sẽ loại bỏ được những phần tử cơ hội, tham
nhũng, thoái hoá, biến chất; làm cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức
của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và Đảng viên theo quan điểm của
giai cấp công nhân.
Trong điều kiện mới, môi trường xã hội có nhiều yếu tố phức tạp, các thế lực
thù địch không ngừng giăng ra đủ loại mưu mô, cạm bẫy; việc giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh cho cán bộ, đảng viên có ý nghĩa quan
trọng. Thực tế cho thấy, hiện nay một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém cả về phẩm chất và năng lực, thoái hoá,
biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sách nhiễu dân diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, chưa được ngăn chặn... Đây là
một nguy cơ lớn, nếu không kiên quyết khắc phục thì rất dễ làm thoái hoá, biến chất
Đảng, làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin của nhân dân. Vì vậy, các cấp uỷ và tổ
chức đảng các cấp phải tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, bồi
dưỡng, kiểm tra, quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên. Kịp thời
biểu dương những cán bộ, đảng viên gương mẫu, kiên quyết xử lý nghiêm minh
những cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, tư tưởng và phẩm chất, đạo đức, lối
sống. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị công tác nào cũng phải không ngừng tự
rèn luyện để nâng cao đạo đức cách mạng, lối sống, tác phong công tác khoa học,
thực sự tiên phong, gương mẫu, “nói đi đôi với làm”, thực sự “đảng viên đi trước,
làng nước theo sau”; kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, thói cửa quyền,
quan liêu, sách nhiễu nhân dân. Phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện tốt Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng ta không có lợi ích nào khác, ngoài
lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn

từ nhân dân. Liên hệ mật thiết với nhân dân là vấn đề sống còn của Đảng. Gắn bó
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân là truyền thống, bản chất của Đảng. Sự tin tưởng, ủng hộ,
giúp đỡ của nhân dân “là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài
sản quý báu của Đảng”1. Chỉ khi nào làm tốt vấn đề này thì Đảng ta mới tập hợp, tổ
chức được nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp tiến hành thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng phải tăng cường lãnh đạo hệ thống
chính trị; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tôn trọng và phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.


Đối với mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt Quy định 76 của Đảng về
việc giữ liên hệ với nơi cư trú, luôn đoàn kết, gắn bó, tận tình phục vụ nhân dân;
thực hiện tốt nghĩa vụ nơi cư trú; luôn gương mẫu, vận động gia đình, người thân và
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
- Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại,
tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần kiên trì ủng hộ các Đảng Cộng sản chân chính và
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của nhân dân trên thế giới.
Tóm lại, đê giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
mỗi cán bộ đảng viên cần phải thực hiện tốt 6 nội dung trên. Từ đó, sẽ góp phần
làm cho đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Câu 3. Đồng chí hãy làm rõ vai trò, ý nghĩa của các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Gợi ý
Nguyên tắc là những điều quy định bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức phải theo
để giúp cá nhân, tổ chức đó thực hiện được mục tiêu của mình. Nguyên tắc do con

người, tổ chức đặt ra trên cơ sở nhận thức được quy luật khách quan và bảo vệ con
người, tổ chức đặt ra nguyên tắc đó.
ĐCS là đội tiên phong của GCCN, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và hoạt động. ĐCSVN khẳng định:
sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất
cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của đảng.
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và của
ĐCSVN cho thấy khi nào giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản thì
đảng vững vàng, có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng thành công và ngược lại, khi
Đảng mất cảnh giác, lơi lỏng, xa rời các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản thì
sẽ bị suy yếu, thậm chí tan vỡ.
Trên cơ sở những nguyên lý xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân và thực tiễn hoạt động của Đảng, Điều lệ ĐCS VN do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI thông qua đã quy định 5 nguyên tắc tổ chức, hoạt động: tập trung
dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân
dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật. Mỗi nguyên tắc có
vị trí, vai trò nhất định:
1. Vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng cộng sản. Tinh thần
chủ yếu của nguyên tắc này là đảm bảo cho sự thống nhất về tư tưởng và chính trị
của ĐCS được củng cố bằng sự thống nhất về tổ chức. Nó làm cho ĐCS được xây
dựng thành công một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, phát huy
được cao độ tính chủ động, năng động và sáng tạo của đông đảo cán bộ, đảng viên.


Nó đảm bảo cho đảng luôn là một tổ chức chiến đấu, một tổ chức lãnh đạo, một tổ
chức hành động và không phải là câu lạc bộ chỉ bàn cãi suông. Nó quy định mối
quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng, giữa các tổ chức đảng từ dưới lên trên,
giữa một cấp ủy đảng với đại hội đại biểu hay đại hội đảng viên của cấp đó.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt

và hoạt động của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt
động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó làm cho
Đảng Cộng sản được xây dựng thành một đội ngũ có kỷ luật chặt chẽ, có sức chiến
đấu cao, phát huy được tính chủ động, năng động và sáng tạo của đông đảo cán bộ,
đảng viên. Nó đảm bảo cho Đảng luôn là một tổ chức chiến đấu, một tổ chức lãnh
đạo, một tổ chức hành động mà không phải là một câu lạc bộ chỉ bàn cãi suông. Nó
bảo đảm cho sự thống nhất ý chí và hoạt động, tạo nên sức mạnh vô địch của một
đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân,
đảng cách mạng chân chính với các đảng phải khác. Đây cũng là điểm mà mọi thế
lực chống đối thường công kích nhằm phá hoại Đảng và phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng.
Mặt khác, tập trung dân chủ là nguyên tắc phân biệt chính đảng cách mạng
chân chính của giai cấp công nhân với các đảng phái khác. Nguyên tắc này đã
được V.I. Lênin khẳng định để xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
phân biệt với các đảng cơ hội trong Quốc tế II hồi đầu thế kỷ XX. Thừa nhận và tổ
chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ là một dấu hiệu, một điều kiện
cơ bản đảm bảo cho một chính đảng đi theo và trung thành với những nguyên tắc
của một đảng mácxít - lêninnít.
2. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguyên tắc tự phê bình và phê bình là: Phê bình
là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm
và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục
đích là cho mọi người học lẫn ưu diểm của nhau và giúp nhau sửa chữa khuyết
điểm. Người khẳng định: tự phê bình và phê bình có vai trò, ý nghĩa hết sức quan
trọng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải xem tự phê bình và phê bình như mỗi
ngày soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể; mỗi cán bộ, đảng viên “Luôn
luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc mình đã làm, để
phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan
nghênh người khác phê bình mình”(2). Theo Người, nguyên tắc tự phê bình và phê
bình là công cụ quan trọng nhất để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong

Đảng. Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, lý
tưởng đến hành động cách mạng hàng ngày.
Đảng ta luôn khẳng định: Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là công
cụ cho sự phát triển của Đảng. Qua đó giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất,
năng lực công tác của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần quyết
tâm làm cho tự phê bình và phê bình trở thành tính tự giác của mỗi cán bộ, đảng
viên, thành nền nếp trong sinh hoạt của Đảng.
3. Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong đảng


Đoàn kết thống nhất là một quy luật trưởng thành của Đảng. Theo quan điểm
của Mác và Ăngghen: sự thành công của phong trào công nhân trong mỗi nước chỉ
có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự tổ chức.
Lênin thì đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững
chắc trong đảng. Người cho rằng: sự đoàn kết thống nhất trong đảng bắt nguồn từ
bản chất của giai cấp công nhân và đó là nguồn gốc sức mạnh vô địch và vô tận của
Đảng. Để phát huy sức mạnh vô địch và vô tận đó, cần phải đấu tranh, thanh trừ chủ
nghĩa cơ hội, cải lương và chủ nghĩa bè phái.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết bắt nguồn từ nhiệm vụ chính trị,
đoàn kết chính là nguồn gốc của sức mạnh, là then chốt của thành công. Trong Di
chúc để lại, Người viết: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân
ta. Các đồng chí từ TW đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con người của mắt mình”.
ĐCS VN chỉ rõ đoàn kết, thống nhất trong đảng là sự thống nhất về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, thống nhất về ý chí và hành động dựa trên đường lối cách mạng
đúng đắn và những nguyên tắc tổ chức của đảng vô sản.
Đảng ta luôn coi đoàn kết trong Đảng là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề sống còn
của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều kiện để đoàn kết toàn dân
đưa cách mạng đến thắng lợi. Trong các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Đảng ta
luôn quan tâm xây dựng và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ngay từ khi

mới ra đời, Điều lệ đầu tiên của Đảng thông qua tại đại hội I (3/1935) ghi rõ: Đảng
là một khối thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động; Đảng tuyệt đối không
thoả hiệp với những xu hướng bè phái. Hội nghị lần thứ hai của BCH TW Đảng
khóa IV đã ra nghị quyết: Đảng không bao giờ dung túng bè phái. Mọi sự chia rẽ là
tội ác lớn nhất đối với Đảng.
4. Nguyên tắc gắn bó mật thiết với nhân dân
Chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn đã khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, do đó, trong cách mạng XHCN, sức mạnh của ĐCS
là sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ
cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm
được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”. Với Đảng “nếu không có dân
giúp sức thì đảng không làm được việc gì hết”. Bởi vậy, “một giây, một phút cũng
không thể giảm bớt mối quan hệ giữa ta và dân chúng”.
Đối với ĐCSVN, là đảng mang bản chất giai cấp công nhân nên phải gắn bó với
nhân dân mà hạt nhân lãnh đạo là GCCN. Hơn nữa, đảng ta còn là đội tiên phong
của nhân dân lao động và dân tộc VN nên tất yếu đảng phải liên hệ mật thiết và bảo
vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Từ kinh nghiệm thế giới và thực tiễn cách mạng VN, ĐCSVN khẳng định: sự tin
tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn sức mạnh, là cái gốc của thắng
lợi, là tài sản quý báu của Đảng. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tổng
kết: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất


phát từ lợi ích và nguyên vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn
đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN
và của đảng”.
5. Nguyên tắc đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật

Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, cán bộ, đảng viên thực
hiện đúng hiến pháp và pháp luật chính là quá trình chấp hành đường lối và các
nghị quyết của đảng.
Mặc dù đảng lãnh đạo xây dựng hiến pháp và pháp luật nhưng một khi đã có hiến
pháp và pháp luật thì đảng không những phải tôn trọng mà còn chịu sự điều chỉnh
của hiến pháp và pháp luật. Điều này sẽ nâng cao tính độc lập, chủ động phát huy vi
trò quản lý xã hội của Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao
tính nghiêm minh của Hiến pháp và pháp luật, góp phần thúc đẩy xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN.
Việc thực hiện nguyên tắc này, một mặt bằng quy định của pháp luật, công nhận vai
trò lãnh đạo của ĐCSVN, từ đó hoạt động của đảng được pháp luật bảo vệ. Mặt
khác sẽ khắc phục tình trạng lệch lạc, tiêu cực trong hoạt động lãnh đạo của các tổ
chức đảng, đảng viên như: bao biện, tùy tiện, coi thường pháp luật…
Thực tế cho thấy, khi nào đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật
thì có kết quả tốt. Ngược lại, nếu coi nhẹ vai trò của pháp luật thì vai trò, hiệu quả
lãnh đạo của đảng đều bị hạn chế, thậm chí phạm sai lầm nghiêm trọng.
Nguyên tắc này là một tất yếu khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN VN, vừa giúp xây dựng đảng vững mạnh, xứng đáng
là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
=> Mỗi nguyên tắc trên có đều có vai trò rất quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của ĐCS VN, đòi hỏi Đảng ta và mỗi cán bộ đảng viên không được xa rời các
nguyên tắc đó thì Đảng mới làm tròn được nhiệm vụ lãnh đạo của mình.
Câu 4. Trên cơ sở những kiến thức lý luận đã học, hãy đánh giá ưu điểm,
hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ tư khóa XI ở
chi bộ (đảng bộ) của đồng chí.
Gợi ý
1. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng
* Khái niệm
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tự phê bình là cá nhân (cơ quan, đoàn thể) thật

thà nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa, mà
cũng là để người khác biết mà tránh những khuyết điểm mình đã phạm.
Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đoàn thể) có khuyết điểm thì thành
khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ. Mục đích của tự phê bình và phê
bình đều giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau tiến bộ”.
* Cơ sở lý luận, thực tiễn của nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng
- Xuất phát từ quy luật phát triển của ĐCS cầm quyền


C.Mác khẳng định “những sai lầm về sách lược là lúc nào cũng có thể có”, do
vậy “sự phê phán là nhân tố sống còn của nó”. Awnghen cho rằng: việc tự phê bình
và phê bình là tuyệt đối cần thiết và bằng cách đó Đảng học được cách hoạt động
tốt hơn.
Leenin: “tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho đến nay đều bị tiêu
vong vì tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình và sợ
sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”.
HCM khẳng định: “về luật phát triển, Đảng Lao động VN dùng lối tự phê bình
và phê bình để giáo dục đảng viên, quần chúng”.
Trong quá trình xây dựng đảng, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê
bình: Phải làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, thật
sự trở thành vũ khí sắc bén của toàn Đảngm làm cho tự phê bình và phê bình thật sự
là quy luật phát triển của Đảng”.
- Xuất phát từ vai trò, tác dụng của tự phê bình và phê bình đối với giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên; củng cố và tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng.
- Xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn của phong trào cộng sản, công nhân quốc
tế và hoạt động thực tiễn của ĐCSVN.
- Tính chất của tự phê bình và phê bình
Một là, tính Đảng
Hai là, tính giáo dục
Ba là, khách quan, trung thực, chân thành và công khai

Bốn là, cụ thể, thiết thực và kịp thời.
- Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng
Bao gồm toàn bộ các mặt hoạt động của Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên.
- Hình thức tự phê bình và phê bình: cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối
với cấp trên, đảng viên đối với cán bộ lãnh đạo, phê bình cùng cấp…
- Phương pháp thực hiện tự phê bình và phê bình: phải cứng rắn về nguyên
tắc, mềm dẻo, khéo léo về cách thức tiến hành, phải thể hiện rõ những đặc tính cơ
bản của tự phê bình và phê bình của Đảng.
Vì vậy, Đảng ta luôn khẳng định: Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là
công cụ cho sự phát triển của Đảng. Qua đó giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm
chất, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần
quyết tâm làm cho tự phê bình và phê bình trở thành tính tự giác của mỗi cán bộ,
đảng viên, thành nền nếp trong sinh hoạt của Đảng.
Với vai trò quan trọng của tự phê bình và phê bình, Hội nghị lần thứ tư, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” (Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012), sau đó
toàn Đảng đã tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình sâu rộng theo Nghị
quyết.
Đối với Chi bộ (đảng bộ)……………………mà tôi đang sinh hoạt đã thực
hiện tự phê bình và phê bình, kết quả như sau:
* Ưu điểm và nguyên nhân
- Ưu điểm


(1) Thông qua học tập, quán triệt Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
của Trung ương, các cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã nhận thức sâu sắc hơn
ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng; thấy rõ hơn tính cấp bách và
sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Từ đó, xác định ý thức trách
nhiệm và đề cao tinh thần tự giác trong việc thực hiện Nghị quyết.
(2) Qua tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình, lắng nghe và tiếp thu ý kiến

góp ý của các cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và nhân dân, các cấp ủy,
tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên đã nhận diện rõ hơn những biểu hiện cụ thể
của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng
viên; tự nhìn nhận, soi xét lại bản thân, thấy rõ và sâu sắc hơn những ưu điểm,
khuyết điểm của mình; đồng thời phân tích, làm rõ nguyên nhân, nhất là nguyên
nhân chủ quan của những khuyết điểm, yếu kém để đề ra phương hướng, kế hoạch,
giải pháp khắc phục khuyết điểm.
(3) Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể, cá nhân đã có tác dụng: cảnh
báo, cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật và tăng
cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn một bước tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí.
(4) Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên đã
xây dựng chương trình, kế hoạch phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm; đề ra
các giải pháp cụ thể để sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm và thường xuyên
lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện. Quá trình xây dựng và thực hiện
kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm được kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện
Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; với thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu và tập trung xem xét, giải quyết những vụ việc nổi cộm,
phức tạp, kéo dài ở các địa phương, cơ quan, đơn vị.
(5) Qua thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra,
đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi một bước tình trạng suy thoái về tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và vô cảm trong cán bộ, đảng viên; tạo được một số
chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng Đảng về trong công tác tổ chức, công
tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã tích lũy thêm kinh
nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình
trong Đảng.
Trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức; tình hình thế giới, khu vực

có những diễn biến nhanh và phức tạp tác động, những chuyển biến và kết quả bước
đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng, đã góp phần giữ vững
ổn định chính trị - xã hội; củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm an sinh
xã hội và thúc đẩy thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương và đất nước.
- Nguyên nhân:


Có được những kết quả trên là do: Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về xây
dựng Đảng là một chủ trương đúng đắn, kịp thời, đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn và phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, được
dư luận trong Đảng, trong xã hội đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia.Việc triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 cấp ủy các cấp chỉ đạo chặt chẽ, toàn diện, sâu
sát, cụ thể, với quyết tâm chính trị cao và có một số đổi mới về nội dung, quy trình,
cách làm đã có tác dụng tốt và đem lại hiệu quả thiết thực. Sự gương mẫu, nghiêm
túc, tự giác trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể, cá nhân cán bộ,
đảng viên trong đảng bộ (chi bộ).
* Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế
Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện Nghị quyết cũng bộc lộ một số hạn
chế, khuyết điểm sau:
(1) Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, một bộ phận cán bộ, đảng viên
chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về Nghị quyết Trung ương 4 và việc kiểm điểm tự
phê bình và phê bình; việc góp ý kiến kiểm điểm cho cấp trên, nhất là góp ý cho cá
nhân còn nể nang, e ngại nên chất lượng hạn chế. Tình trạng suy thoái về tưởng
chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên tuy đã được đấu tranh, ngăn chặn
một bước, nhưng vẫn đang tồn tại, chưa được đẩy lùi.
(2) Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập
thể, cá nhân, một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhìn
nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết

điểm của tập thể.
(3) Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, một số tập thể, cá nhân còn chậm đề ra
kế hoạch, biện pháp sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn
chung chung, thiếu cụ thể; việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch khắc phục khuyết điểm
chưa đồng bộ, thiếu quyết liệt nên kết quả còn hạn chế. Việc kiểm điểm theo Nghị
quyết Trung ương 4 khi đi vào thường xuyên, gắn với kiểm điểm cuối năm thì có xu
hướng lỏng lẻo; còn biểu hiện tình trạng nể nang, né tránh và bệnh thành tích; chưa
đi sâu phân tích, làm rõ nguyên nhân của những khuyết điểm và xác định trách
nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan.
(4) Việc nghiên cứu, ban hành một số quy định, quy chế, hướng dẫn để cụ thể hoá,
thể chế hoá thực hiện Nghị quyết còn chậm và chưa thật đồng bộ. Một số cấp ủy, tổ
chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, đôn đốc trong quá trình thực hiện Nghị
quyết cũng như việc xây dựng, thực hiện kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết
điểm. Việc xem xét, xử lý một số trường hợp vi phạm khuyết điểm chưa kịp thời,
nghiêm khắc
(5) Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn hình thức, mang
tính phong trào, chưa trở thành công việc thường xuyên hàng ngày của mỗi cán bộ,
đảng viên. Công tác thông tin, tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết còn hạn chế,
chưa mạnh mẽ, sắc bén và có lúc thiếu kịp thời.
- Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên là do: Những vấn đề cấp bách
nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng Đảng là những vấn đề lớn, khó và


phức tạp, tác động đến nhiều mặt của công tác xây dựng Đảng, trong đó có những
vấn đề đã tồn đọng kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ và liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có thời gian mới có thể khắc phục, giải quyết
được. Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng
đầu cơ quan, đơn vị chưa thường xuyên, chặt chẽ và thiếu kiên quyết. Một bộ phận
cán bộ, đảng viên tính chiến đấu yếu, còn tư tưởng nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi
quý”. Có một số cán bộ, đảng viên chưa tự giác thực hiện và thiếu tin tưởng vào kết

quả thực hiện Nghị quyết.
* Các biện pháp nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình
Một là, có nhận thức đúng đắn về mục đích, yêu cầu của công tác tự phê bình và
phê bình. Đó là làm cho mỗi cá nhân đảng viên tiến bộ hơn, làm cho Đảng ta trong
sạch, vững mạnh hơn, nhân dân tin yêu Đảng hơn, đất nước sẽ vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội do có Đảng trong sạch, vững mạnh cầm quyền và lãnh đạo.
Hai là, từng cá nhân đảng viên phải có trách nhiệm trước Đảng, trước sự tồn vong
của Đảng, từ đó, có ý thức tốt, thực hiện có hiệu quả việc tự phê bình và phê bình,
coi đây là công việc thường xuyên, tất yếu, quyết định sự tồn tại của mỗi cá nhân
đảng viên và của toàn Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều đó,
mỗi cá nhân đảng viên cần phải coi tự phê bình và phê bình là nhu cầu của chính
mình, có quyết tâm thực hiện theo trình tự khoa học và cụ thể, biết vượt qua những
rào cản về tâm lý, nếp nghĩ cũng như những định kiến xã hội và dám chịu trách
nhiệm trước bản thân và trước Đảng
Ba là, từng tổ chức cơ sở đảng, nhất là các chi bộ, phải thực hiện việc tự phê bình
và phê bình một cách văn minh, nghiêm túc, nhằm phát huy tối đa tính tiên phong
trong mỗi đảng viên, huy động được trí tuệ tập thể trong xây dựng Đảng; đồng thời,
có những biện pháp cụ thể, kiên quyết, cứng rắn, hợp tình, hợp lý trước những biểu
hiện và hành động chưa đúng của cá nhân đảng viên. Để thực hiện điều đó, mỗi
đảng viên phải thẳng thắn, thật thà, chân thành, cầu tiến bộ, vì con người, vì sự tồn
vong, phát triển của Đảng; từng tổ chức đảng phải nhìn nhận, đánh giá đảng viên
khách quan, vừa trên cơ sở tình người, công bằng, dân chủ, vừa căn cứ vào Điều lệ,
kỷ luật của Đảng
Bốn là, thực hiện tốt việc tự phê bình là tiền đề quan trọng để thực hiện có hiệu quả
việc phê bình. Hai việc này phải được tiến hành từ trên xuống dưới, từ cá nhân đến
tổ chức; phải gắn với những công việc, con người, nhiệm vụ cụ thể, tránh cách nhìn
nhận, đánh giá qua loa, đại khái, theo kiểu “hòa cả làng”. Đồng thời, phải được thực
hiện có kế hoạch, bài bản, thường xuyên, và điều quan trọng nhất là phải xuất phát
từ chính nhu cầu không thể thiếu trong mỗi đảng viên và các tổ chức đảng.
Tiếp tục thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 4 khoá XI vẫn là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để
xây dựng Đảng vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Để việc
tự phê bình và phê bình có hiệu quả thực sự, mỗi cán bộ, đảng viên cần nắm vững
tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, về tự phê bình và phê bình,
thấm nhuần sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, các luận chứng khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin./.


Câu 5. Đồng chí hãy nêu tính cấp thiết phải tăng cường công tác tư tưởng
trong giai đoạn hiện nay.
Gợi ý
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, khi nào Đảng giữ vững sự
độc lập, tự chủ và sáng tạo về đường lối thì phong trào cách mạng phát triển thuận
lợi và thắng lợi, còn khi phạm sai lầm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí thì phong trào
cách mạng gặp khó khăn, thậm chí thất bại. Công tác tư tưởng luôn giữ vị trí đặc
biệt quan trọng, góp phần to lớn vào việc tạo nên sự thống nhất cao trong Đảng và
toàn thể nhân dân, phấn đấu cho mục tiêu cao cả của cách mạng. Công tác này luôn
được coi là một bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, vì thế, trong các
thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế
giới và trong nước, tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận thật sự là một yêu
vấn đề cấp bách, nhằm tăng cường sức chiến đấu và sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Khái niệm
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính
đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp trong quần
chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.
Công tác tư tưởng của Đảng là hoạt động có định hướng của Đảng nhằm xác
lập, phát triển hệ tư tưởng XHCN, xây dựng niềm tin và định hướng giá trị đúng
đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, tư tưởng, tình cảm, nhân cách, lối

sống, tri thức để đảm bảo cho con người có hành động tích cực, chủ động, sáng tạo,
thực hiện thắng lợi lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; trước mắt trong
giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Cần phải tăng cường công tác công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay
vì:
* Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng
a. Vị trí
Nghị quyết Trung ương 5, khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước
yêu cầu mới chỉ rõ: Công tác tư tưởng là một bộ phận hợp thành trong toàn bộ
hoạt động lãnh đạo đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng
chính trị của chế độ; có vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác- lênin, tư tưởng HCM, quan
điểm, đường lối của Đảng; làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công
nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa
dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội.
Như vậy, công tác tư tưởng có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa; xây dựng hệ thống chính trị phát triển vững mạnh, toàn diện.


b. Vai trò
- Công tác tư tưởng có nhiệm vụ cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận
để đảng có chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp, tránh được
những sai lầm như giáo điều, chủ quan, duy ý chí và cả khuynh hướng xét lại.
- Công tác tư tưởng của Đảng có nhiệm vụ giáo dục và truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng

nhằm biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, thành
phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
- Trong điều kiện đảng cầm quyền, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế hiện nay, công tác tư tưởng
không chỉ là một phương thức thực hiện dân chủ XHCN, định hướng cho sự phát
triển của Đảng, đất nước, xã hội, mà còn là vũ khí sắc bén đấu tranh chống lại sự
phá hoạt của kẻ thù đối với đất nước và bản thân Đảng.
- Công tác tư tưởng của Đảng là một bộ phận quan trọng nhằm xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; góp phần trực tiếp vào việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên và tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
- Công tác tư tưởng có vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thống nhất cao
trong tổ chức đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
* Xuất phát từ thực trạng công tác tư tưởng của Đảng trong giai đoạn
hiện nay
- Thành tựu: Đánh giá những thành tựu của công tác tư tưởng, lý luận thời
gian qua, Đại hội XI của Đảng khẳng định: “…Công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”,
bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch”.
Theo đó, công tác tư tưởng của Đảng ta đã hình thành hệ thống quan điểm lý
luận về công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH. Đó là hệ thống lý luận về công tác tư
tưởng, định hướng XHCN; lý luận về Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo
của Đảng; Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng cầm quyền; tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Hình thành hệ thống lý luận con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, tư duy chúng ta về CNXH thực sự khoa học, thực tế hơn rất
nhiều. Công tác tổng kết thực tiễn, đặc biệt thực tiễn 25 năm đổi mới, mang tính

tổng kết sâu sắc. Nghị quyết TW 5 khóa X chỉ ra rằng: “Nhận thức về CNXH và
con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới đã hình thành trên những nét cơ bản”.
- Hạn chế: Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ


nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công tác lý luận còn
lạc hậu trên một số mặt, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn; chưa giải đáp
được nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra. Chất lượng các sản phẩm nghiên cứu khoa
học lý luận chưa cao Lý luận chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động
thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Trình độ đội ngũ cán bộ lý luận còn bất cập so với yêu cầu mới.
Công tác lãnh đạo, quản lý các hoạt động lý luận, chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục lý luận chính trị trong nhà trường chậm đổi mới, chưa theo kịp trình
độ và yêu cầu của xã hội.
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu
chưa cao, chưa sát thực tiễn và chưa linh hoạt. Chưa làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội và những quan
điểm mơ hồ, sai trái, thiếu quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống. Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực
và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều
cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa
sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn
mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu”.
Chất lượng sinh hoạt tư tưởng trong tổ chức đảng thấp, thiếu tính chiến đấu.
Phạm vi tác động, ảnh hưởng của công tác tư tưởng có dấu hiệu bị thu hẹp. Đấu

tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn bị động, hiệu quả thấp. Xuất
hiện xu hướng hạ thấp chức năng giáo dục, xa rời các chức năng cao quý của văn
học, nghệ thuật cách mạng.
Nội dung, phương pháp công tác tư tưởng chậm đổi mới, còn lạc hậu so với
yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới
Sau gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, tình hình kinh tế - chính trị thế giới
đã đổi khác; đời sống kinh tế - xã hội đất nước đã thay đổi một cách căn bản; tâm
tư, tình cảm, suy nghĩ của các tầng lớp nhân dân hiện nay không còn như trước
đây; những vấn đề tư tưởng, lý luận chính trị cũng như đối tượng của công tác tư
tưởng, lý luận có nhiều nét mới; bản thân đội ngũ làm công tác tư tưởng, lý luận
của Đảng được củng cố và phát triển. Trong bối cảnh đó, trên cơ sở quan điểm cơ
bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới”, của Đại hội XI của Đảng về công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới, công tác tư tưởng, lý luận cần có sự đổi mới
quyết liệt, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Như vậy, tăng cường công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới là một vấn đề
mang tính chiến lược, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển trước mắt, vừa định hướng
cho sự phát triển lâu dài.


Câu 6. Trên cơ sở những kiến thức lý luận đã học, hãy đánh giá tình hình
công tác tư tưởng và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác này
ở đảng bộ đồng chí.
Gợi ý
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, khi nào Đảng giữ vững sự độc
lập, tự chủ và sáng tạo về đường lối thì phong trào cách mạng phát triển thuận lợi
và thắng lợi, còn khi phạm sai lầm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí thì phong trào
cách mạng gặp khó khăn, thậm chí thất bại. Công tác tư tưởng luôn giữ vị trí đặc
biệt quan trọng, góp phần to lớn vào việc tạo nên sự thống nhất cao trong Đảng và
toàn thể nhân dân, phấn đấu cho mục tiêu cao cả của cách mạng. Công tác này luôn

được coi là một bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, vì thế, trong các
thời kỳ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta bao giờ cũng đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế
giới và trong nước, tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận thật sự là một yêu
vấn đề cấp bách, nhằm tăng cường sức chiến đấu và sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Công tác tư tưởng của Đảng
* Khái niệm
Tư tưởng là phản ánh của hiện thực trong ý thức là biểu hiện của con người
với thế giới xung quanh. Tư tưởng còn được hiểu đó là sự suy nghĩ là quan điểm
của con người đối với tự nhiên và xã hội.
Công tác tư tưởng của Đảng được hiểu là hoạt động lãnh đạo quan trọng
hàng đầu của Đảng trong việc xác lập và phát triển hệ tư tưởng của Đảng; nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm hình thành thế giới
quan, phương pháp nhận thức khoa học, hình thành tính tích cực chính trị cho cán
bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự
đồng thuận xã hội; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của nhân dân,
thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng; đấu tranh chống các thế lực thù
địch trên mặt trận tư tưởng, góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới
XHCN; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất nước, con người Việt Nam ra cộng
đồng quốc tế.
Như vậy, nội dung cơ bản của công tác tư tưởng là xác lập thế giới quan và
hệ tư tưởng của GCCN nhằm tác động vào ý thức của con người, với mục đích
nhằm trang bị cho cán bộ đảng viên, nhân dân nhận thức và hành động đúng, tạo ra
sự đồng thuận trong Đảng và xã hội.
* Ý nghĩa, vai trò
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng có ý nghĩa, vai trò to lớn, là một bộ phận cấu
thành đặc biệt trong toàn bộ hoạt động của Đảng, thực tiễn lịch sử 85 năm qua đã
chững minh được điều này. Từ khi Đảng ra đời cho đến nay, công tác tư tưởng đã

góp phần quan trọng trong sự thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, đi lên xây dựng CNXH. Trong tình hình hiện nay, công tác tư
tưởng của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng:


Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí chỉ
rõ: Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yêu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ; có vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN; đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; làm cho hệ tư
tưởng của Đảng, những giá trị tốt đẹp truyền thống, những tin hoa văn hóa thế giới
chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Cụ thể:
- Xác lập, truyền bá và phát triển hệ tư tưởng của Đảng, góp phần hình thành
bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng. Bản chất giai cấp công nhân
và tính tiên phong của Đảng không tự nhiên mà có, do đó phải tiến hành tốt công
tác tư tưởng. Hệ tư tưởng là căn cứ lý luận, giúp Đảng có cơ sở khoa học để hoạch
định đường lối, chính sách đúng đắn trong thời kỳ mới, phù hợp với đặc điểm nước
ta và thế giới ngày nay. Hệ tư tưởng thẩm thấu, góp phần giáo dục, nâng cao lập
trường quan điểm, giai cấp công nhân cho đảng viên.
- Góp phần xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước.
- Góp phần hình thành con người mới, con người XHCN. Đó là con người có
tư tưởng đúng, tình cảm đẹp, biết làm chủ bản thân, tự nhiên và xã hội, có ý thức
bản lĩnh.
- Nâng cao kiến thức, trình độ trí tuệ, bồi dưỡng ý chí, tình cảm, lối sống tốt
đẹp cho con người Việt Nam.
- Công tác tư tưởng là một phương thức thực hiện dân chủ XHCN, là vũ khí
sắc bén tấn công lại sự phá hoại của các thế lực thù địch trên trận địa tư tưởng, lý
luận và văn hóa.

- Công tác tư tưởng góp phần trực tiếp vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, Đảng viên của
Đảng và là phương thức quan trọng để thiết lập và tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa đảng và nhân dân.
- Cung cấp luận cứ khoa học cho việc cụ thể hóa và phát triển chính sách của
Đảng và nhà nước
Tuy nhiên, thành tựu đáng quý nhất của công tác tư tưởng trong giai đoạn
hiện nay là trực tiếp góp phần hình thành, xác định và phát triển đường lối đổi mới,
chú trọng tổng kết các sáng kiến của nhân dân để khẳng định, cổ vũ và đưa vào
cuộc sống, củng cố niềm tin, lý tưởng ngay cả khi cách mạng gặp nhiều khó khăn.
Khơi dậy sức mạnh sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa đất
nước vượt qua nhiều thử thách, lập được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
2. Tình hình công tác tư tưởng
- Bối cảnh: Trong tình hình hiện nay, với một số đặc điểm mới nổi bật tác động rất
lớn đến hoạt động tư tưởng đó là: sự phát triển mạnh xu hướng toàn cầu hóa kinh tế,
tác động sâu rộng đến giao lưu hợp tác văn hóa, sự bùng nổ của cách mạng khoa
học công nghệ, nhất là sự phát triển nhảy vọt của công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ giải trí… Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu


tranh dân tộc, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, nhất là sự cạnh tranh gay gắt thị
trường kinh tế cũng như cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu… Với
Việt Nam còn phải đối mặt với những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch.
- Thành tựu: Đánh giá những thành tựu của công tác tư tưởng, lý luận thời
gian qua, Đại hội XI của Đảng khẳng định: “…Công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”,

bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch”.
Theo đó, công tác tư tưởng của Đảng ta đã hình thành hệ thống quan điểm lý
luận về công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH. Đó là hệ thống lý luận về công tác tư
tưởng, định hướng XHCN; lý luận về Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo
của Đảng; Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng cầm quyền; tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Hình thành hệ thống lý luận con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, tư duy chúng ta về CNXH thực sự khoa học, thực tế hơn rất
nhiều. Công tác tổng kết thực tiễn, đặc biệt thực tiễn 25 năm đổi mới, mang tính
tổng kết sâu sắc. Nghị quyết TW 5 khóa X chỉ ra rằng: “Nhận thức về CNXH và
con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới đã hình thành trên những nét cơ bản”.
- Hạn chế: Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công tác lý luận còn
lạc hậu trên một số mặt, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn; chưa giải đáp
được nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra. Chất lượng các sản phẩm nghiên cứu khoa
học lý luận chưa cao Lý luận chưa làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động
thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước. Trình độ đội ngũ cán bộ lý luận còn bất cập so với yêu cầu mới.
Công tác lãnh đạo, quản lý các hoạt động lý luận, chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục lý luận chính trị trong nhà trường chậm đổi mới, chưa theo kịp trình
độ và yêu cầu của xã hội.
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu
chưa cao, chưa sát thực tiễn và chưa linh hoạt. Chưa làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội và những quan
điểm mơ hồ, sai trái, thiếu quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống. Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực
và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều

cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa
sự ổn định, phát triển của đất nước.


Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa
thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao,
làm theo chưa đạt yêu cầu”. Cụ thể, trong Báo cáo số 20-BC/TW, ngày 25/8/2014
của BCH TW về sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 03 nêu rõ hạn chế:
- Về nhận thức, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên ở các cấp, kể cả cán bộ chủ chốt,
nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của Chỉ thị 03
đối với công tác xây dựng Đảng, về yêu cầu đưa việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Bác thành công việc thường xuyên, quan trọng... Do đó, việc
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị chưa sát hợp với điều kiện, gắn với nhiệm vụ
chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị; còn thụ động, ỷ lại chờ đợi sự chỉ đạo,
hướng dẫn của cấp trên. Có nơi, tổ chức thực hiện Chỉ thị còn mang tính hình thức,
làm chiếu lệ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, giám sát, cho nên kết quả thực hiện Chỉ thị
chưa cao.
- Trong tổ chức thực hiện, còn có tình trạng làm theo phong trào, chưa thường
xuyên, liên tục. Việc thực hiện Chỉ thị 03 trong không ít cơ quan nhà nước, bao gồm
cả thực hiện Chỉ thị 1973/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chưa đạt yêu cầu,
thiếu cụ thể, nhiều nơi còn hình thức, kết quả hạn chế. Công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện Chỉ thị 03 ở một số tổ chức đảng chưa được coi trọng.
- Việc tổ chức và phát huy trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, của lãnh
đạo, cán bộ, đảng viên... còn lúng túng, nhiều nơi chưa thực hiện tốt. Vẫn còn
những biểu hiện thiếu gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên trong công tác và
đời sống, ảnh hưởng đến việc thực hiện Chỉ thị, thậm chí còn gây tổn hại đến niềm
tin của quần chúng nhân dân vào các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
- Kết quả thực hiện một số nội dung, yêu cầu nêu trong Chỉ thị 03 còn hạn chế. Việc
cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chuẩn mực đạo đức của cơ quan, đơn vị theo tư

tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn chậm, nội dung còn dài. Tổ chức sinh
hoạt chuyên đề tại các chi bộ còn hạn chế về nội dung, nghèo nàn về hình thức, hiệu
quả tác động tới nhận thức, tình cảm, hành động của cán bộ, đảng viên chưa cao.
Nội dung đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ,
đảng viên còn chung chung, thiếu cụ thể; việc lựa chọn và tập trung giải quyết
những vấn đề bức xúc, nổi cộm... ở một số nơi chưa thực sự tích cực, kiên quyết,
kết quả chưa rõ. Việc đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh vào chương trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường còn chậm.
Chất lượng sinh hoạt tư tưởng trong tổ chức đảng thấp, thiếu tính chiến đấu.
Phạm vi tác động, ảnh hưởng của công tác tư tưởng có dấu hiệu bị thu hẹp. Đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn bị động, hiệu quả thấp. Xuất
hiện xu hướng hạ thấp chức năng giáo dục, xa rời các chức năng cao quý của văn
học, nghệ thuật cách mạng.
Nội dung, phương pháp công tác tư tưởng chậm đổi mới, còn lạc hậu so với
yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới.
3. Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng công tác tư tưởng


Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng rất đặc biệt, bởi nó nằm trên lĩnh vực ý thức,
tinh thần, tác động vào khía cạnh nhận thức của con người, là hoạt động rất khó
khăn, cần phải có tính chính sác, khoa học, hợp quy luật tâm lý để thuyết phục mọi
người. Trong tình hình hiện nay, đảng bộ (chi bộ) cần thực hiệm tốt các giải pháp
sau đây để nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng:
Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của công tác tư tưởng; tăng cường
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, lý luận.
Đây là một nguyên tắc bất di, bất dịch trong nguyên tắc lãnh đạo của Đảng
với toàn xã hội; bởi thứ nhất, công tác tư tưởng, lý luận, tổng kết thực tiễn là một
bộ phận quan trọng hợp thành đường lối lãnh đạo của Đảng, thứ hai, bảo đảm cho
Đảng lãnh đạo trực tiếp đội ngũ những người làm công tác tưởng, lý luận tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với Tổ quốc, chế độ xã hội chủ

nghĩa và nhân dân.
Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức về vai trò của công tác tư tưởng cũng
là một nội dug quan trọng đối với tình hình mới hiện nay. Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định: giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của
Đảng. Do vậy, phải xác định phương hướng, nhiệm vụ, quan điểm, chương trình
công tác tư tưởng trong từng thời gian, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công
tác tổ chức và kinh tế, đồng thời định kỳ tổng kết công tác tư tưởng để rút kinh
nghiệm.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp công tác tư
tưởng gắn với nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng
Thực tiễn đòi hỏi công tác tư tưởng không đơn thuần chỉ là hoạt động tuyên
truyền giản đơn, công thức mà cần và phải có mặt trong cả tiến trình sự kiện, hiện
tượng, phong trào để có tiếng nói có sức thuyết phục, có tác động thực tế đối với tất
cả tiến trình kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh đối ngoại… Do vậy, nội dung công
tác tư tưởng phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; giữ gìn phát huy bản sắc
truyền thống dân tộc; tìm những giá trị đồng thuận cao; phù hợp với vùng miền, đối
tượng.
Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Coi trọng nghiên cứu cơ
bản chủ nghĩa Mác lênin (làm rõ những luận điểm còn nguyên giá trị, luận điểm nào
phải bổ sung), tư tưởng HCM. Giải đáp có căn cứ khoa học những vấn đề lớn thực
tiễn đất nước đang đặt ra. Nghiên cứu những vấn đề kinh tế - xã hội thế giới và
trong nước thời ký khủng hoảng và suy thoái hiện nay để có những giải pháp trúng
và kịp thời nhằm chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa làm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững. Coi trọng tổng kết
thực tiễn: tiếp tục nghiên cứu về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tái
cấu trúc nền kinh tế; về Đảng cầm quyền; về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình
hình mới;…
Ba là, triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng đạo đức đối với cán bộ, đảng
viên và thế hệ trẻ



Đạo đức là gốc của con người, của xã hội để định hướng tài năng, phát triển
đúng hướng; Kết hợp các kênh, các phương pháp để giáo dục đạo đức, nhất là tiếp
tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ giữa
giáo dục và quản lý; xây đi đôi với chống.
Bốn là, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận
điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, nhà nước ta của các thế lực thù địch
Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên mặt trận
tư tưởng là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì và thường xuyên.
Đây không phải là mặt trận có giới tuyến địch - ta rõ ràng, cũng không thể đánh
thắng kẻ địch chỉ bằng những đội quân thường trực, chính quy và không thể đánh
thắng địch chỉ trong một số năm nào đó. Cần nhận biết âm mưu thủ đoạn của địch,
tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì, chủ động; dùng tư tưởng, lý luận cách mạng đánh
bại tư tưởng, lý luận phản động; dùng chính nghĩa và sự thật đánh bại xuyên tạc, vu
cáo; dùng sức của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng để đánh bại các thế lực thù địch. Đó là biện pháp đúng đắn, hiệu quả trên mặt
trận chống “diễn biến hòa bình” và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
Đảng hiện nay.
Năm là, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác tư tưởng theo hướng hiện đại, đáp
ứng yêu cầu hoạt động tư tưởng trước những đòi hỏi mới trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế
Trên cơ sở sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng và các cấp ủy, tổ chức
đảng có thẩm quyền, chất lượng công tác tư tưởng được quyết định bởi phẩm chất
và năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách trên mặt trận tư tưởng. Đồng thời cần
có sự đầu tư kinh phí và phương tiện kỹ thuật thỏa đáng cho công tác tư tưởng.
Lĩnh vực công tác tư tưởng thường đòi hỏi cán bộ chuyên trách phải có năng
khiếu nhất định, do đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng thường khó khăn, phức tạp, mất
nhiều công sức mới có cán bộ giỏi; cần có chính sách sử dụng hợp lý để phát huy

hết năng lực của đội ngũ cán bộ này
Câu 7. Theo đồng chí nội dung và phạm vi công tác tổ chức của Đảng bao
gồm những yếu tố nào? Vì sao?
Gợi ý
* Khái niệm: Công tác tổ chức của Đảng là hoạt động của cấp ủy, tổ chức
đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên trong việc xây
dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng trong từng thời kỳ.
* Nội dung công tác tổ chức của Đảng:
Công tác tổ chức của Đảng có nội dung rất rộng với nhiều công việc có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau nhưng chủ yếu tập trung vào những công việc cơ bản dưới
đây.
Một là, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong từng thời kỳ, Đảng xác


định đường lối, quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định, phân cấp về công tác tổ
chức , về kiện toàn tổ chức của cả hệ thống chính trị và các tổ chức thuộc phạm vi
công tác tổ chức của Đảng.
Hai là, Đảng quyết định thành lập, kiên toàn hệ thống cơ cấu tổ chức, bộ máy;
xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, các mối quan hệ công tác, biên
chế của tổ chức đảng; định hướng kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị, lực
lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập.
Ba là, Đảng kiểm tra, giám sát, theo dõi hoạt động của các tổ chức trong hệ
thống chính trị, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập để kịp thời điều chỉnh, uốn nắn những lệch lạc, khắc phục những hạn chế, rút
kinh nghiệm, bổ sung, hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ trương đúng đắn, phù
hợp.
Bốn là, Đảng lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia xây dựng,
kiện toàn tổ chức của mình, tham gia xây dựng tổ chức đảng và các cơ quan nhà

nước.
Năm là, đảng lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ
thống chính trị theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm
của người đứng đầu và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Sáu là, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức, cán bộ của
Đảng trong từng thời kỳ.
* Phạm vi công tác tổ chức của Đảng
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức Đảng
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức nhà nước
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức của các đoàn thể chính trị- xã hội:
Tổng Liên đoàn Lao động VN, Hội nông dân Vn, Hội Liên hiệp phụ nữ VN, Đoàn
Thanh niên CSHCM, Hội cựu chiến binh VN.
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức của lực lượng vũ trang: QĐND,
Công an ND
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức của các đơn vị sự nghiệp công lập
- Công tác tổ chức trong hệ thống tổ chức của các doanh nghiệp Nhà nước.
=> Giải thích vì sao có nội dung và phạm vi như vậy:
- Xuất phát từ vị trí, vai trò, nội dung lãnh đạo của Đảng:
Vị trí, vai trò: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước nhân
dân, dân tộc. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã được nhân dân thừa nhận, ủy
quyền, giao phó và được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) và trong Hiến pháp năm 1980, 1992 và 2013. Điều 4 của Hiến pháp năm
2013 đã khẳng định địa vị pháp lý của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân



lao động, và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Nội dung lãnh đạo: Đảng lãnh đạo toàn diện xã hội, hệ thống chính trị và các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Xuất phát từ phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo là hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức mà
chủ thể lãnh đạo là Đảng tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện mục đích
của mình.
Đảng lãnh đạo thông qua các phương thức lãnh đạo:
- Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu
cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, lãnh đạo xây dựng bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, bộ máy các đoàn thể
trong sạch, vững mạnh.
- Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức đảng trong các cơ quan của hệ thống chính
trị kết hợp chặt chẽ với cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và các
tổ chức chính trị- xã hội theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách
nhiệm của đảng viên là người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước và các tổ chức chính trị- xã hội thông qua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng
viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân
dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của cơ quan nhà nước, của
cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt yếu kém
để uốn nắn, khắc phục.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng - chính trị, bằng sự nêu gương của
đảng viên, thông qua việc giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống,
phong cách công tác, ý thức trách nhiệm, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần phục
vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời giáo dục nhân dân
chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tích
cực tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước.

- Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội nhưng không áp đặt mà bằng cơ
chế dân chủ, tôn trọng tính tự chủ của các đoàn thể, phù hợp với đặc điểm, chức
năng của từng đoàn thể (chẳng hạn lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc thông qua cơ chế
hiệp thương dân chủ).
Câu 8. Tình hình chất lượng đội ngũ cán bộ đơn vị đồng chí hiện nay như
thế nào và cần những giải pháp gì cho thời gian tới.
Gợi ý
1. Khái niệm cán bộ
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của NXB Đà Nẵng năm 1993 thì cán bộ
được hiểu : “ là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà
nước”.


Đảng ta cũng sử dụng danh từ cán bộ trong các văn bản, nghị quyết; một số
từ điển khác cũng đã đề cập đến khái niệm cán bộ và thống nhất ở 02 nội dung sau:
+ Thứ nhất: Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong
cơ quan Nhà nước và trong các tổ chức của hệ thống chính trị; họ được hình
thành thông qua con đường đào tạo từ nhà trường. Đây là bộ phận đông đảo và
ổn định nhất.
+ Thứ hai: Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một
tổ chức, trong đó cần nhấn mạnh của cả hệ thống chính trị. Đây là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, những người có chức vụ, phân biệt với người thường, không có
chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thông qua việc bầu cử dân chủ hoặc
đề bạt, bổ nhiệm.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng".
- Theo điều 4, luật cán bộ công chức 2008 có hiệu lực 01/01/2010 đã đưa ra
định nghĩa về cán bộ như sau: “ Cán bộ là công dân Việt Nam được phê chuẩn, bổ

nhiệm, bầu cử vào các chức danh, chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng Sản, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương( gọi chung là cấp tỉnh), huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh ( gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ quan, đơn vị
* Nêu khái quát về cơ quan, đơn vị mình
- Là đơn vị gì, chức năng nhiệm vụ chủ yếu?
- Có bao nhiêu cán bộ, viên chức? trong đó bao nhiêu cán bộ lãnh đạo?
* Nêu thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ:
- Ưu điểm:
Đa số cán bộ phấn khởi và tin tưởng vào thành công của công cuộc đổi mới;
kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; tham
gia tích cực vào quá trình CNH, HĐH của đất nước
Đội ngũ cán bộ được tăng cường về số lượng và chất lượng; trình độ lãnh đạo
quản lý; trình độ chuyên môn nghiệp vụ; lý luận chính trị được nâng lên. Cụ thể:
+ Trình độ lãnh đạo, quản lý: số lượng? chất lượng?
+ Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Thạc sỹ? ĐH? CĐ? TC?.........
+ Trình độ lý luận chính trị: Cử nhân, cao cấp? Trung cấp?Sơ cấp…
Cơ cấu đội ngũ cán bộ ngày càng hợp lý hơn; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ ngày
càng tăng: Nam? Nữ? Cán bộ trẻ? Cán bộ nữ?....(so với trước)
Đội ngũ cán bộ trẻ, mới được tuyển dụng được đào tạo bài bản, có kiến thức,
trình độ, năng lực, có khả năng hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới…
Về cơ bản đã khắc phục được biểu hiện mơ hồ, dao động về lý tưởng của một
bộ phận cán bộ do tác động của sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và sự


×