Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Đề tài NCKH: Khen thưởng và xử phạt công tác công văn giấy tờ của một số triều đại phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 52 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................. 1
2. Mục tiêu của đề tài......................................................................................... 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:................................................ 2
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..............................................................................2
6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................4
7. Đóng góp của đề tài........................................................................................4
8. Cấu trúc đề tài.................................................................................................4
Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC CÔNG VĂN GIẤY TỜ THỜI
PHONG KIẾN VIỆT NAM.................................................................................5
1.1. . Thiết lập các cơ quan chuyên trách soạn thảo và chuyển giao văn bản
.............................................................................................................................5
1.1.1. Các cơ quan chuyên trách soạn thảo văn bản.....................................5
1.1.2. Các cơ quan chuyên trách chuyển giao văn bản.................................7
1.2. Các loại văn bản quản lý nhà nước của các triều đại phong kiến Việt
Nam.................................................................................................................. 11
1.3... Quy định về công tác công văn giấy tờ của các triều đại phong kiến Việt
Nam...................................................................................................................12
1.3.1. Quy định về soạn thảo và ban hành văn bản.....................................12
1.3.2. Quy định về chuyển giao văn bản...................................................... 15
1.3.3. Quy định về quản lý và giải quyết văn bản........................................15
1.4. Đề ra các hình thức xử phạt..................................................................... 16
Tiểu kết chương 1............................................................................................... 18
Chương 2 TÌM HIỂU QUY ĐỊNH VỀ KHEN THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT
TRONG CÔNG TÁC CÔNG VĂN GIẤY TỜ CỦA MỘT SỐ TRIỀU ĐẠI
PHONG KIẾN VIỆT NAM...............................................................................19
2.1. Quy định về khen thưởng và xử phạt trong công tác soạn thảo văn bản
...........................................................................................................................19
1




2.1.1. Về thể thức văn bản:...........................................................................19
2.1.2. Cách thể hiện nội dung văn bản:....................................................... 23
2.2. Quy định về khen thưởng và xử phạt trong chuyển giao văn bản...........25
2.2.1. Khen thưởng và xử phạt trong chuyển giao văn bản của các triều đại
trước Nguyễn................................................................................................ 25
2.2.2. Khen thưởng và xử phạt trong chuyển giao văn bản dưới triều
Nguyễn ........................................................................................................ 26
2.3. Quy định về khen thưởng và xử phạt trong giải quyết văn bản.............. 29
2.4.

... Quy

định về khen thưởng và xử phạt trong bảo mật thông tin văn bản

...........................................................................................................................31
2.5..... Quy định về khen thưởng và xử phạt trong bảo quản và lưu trữ văn bản
...........................................................................................................................33
Tiểu kết chương 2............................................................................................... 35
Chương 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ SỰ VẬN DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH VỀ KHEN THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT TRONG CÔNG TÁC VĂN
THƯ CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY...................................................................................................................... 36
3.1. Một số bài học kinh nghiệm.....................................................................36
3.2. Nhận xét....................................................................................................37
3.3. Một số kiến nghị đối với công tác công văn giấy tờ trong giai đoạn hiện
nay.....................................................................................................................42
KẾT LUẬN..........................................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................45

PHỤ LỤC................................................................................................................

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Công tác công văn giấy tờ là công cụ quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng và hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước.
Trong suốt 10 thế kỷ, từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, các vương
triều phong kiến Việt Nam - Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Nguyễn
(Quang Trung), Nguyễn (Gia Long) kế tiếp nhau trị vì đất nước. Qua những ghi
chép ở những thư tịch đương thời cho thấy, chậm nhất là kể từ triều Lý trở về
sau, các triều đại đã sử dụng văn bản làm phương tiện thông tin chủ yếu phục vụ
cho hoạt động quản lý. Nói cách khác mọi hoạt động hành chính chủ yếu của
nhà nước đều gắn liền với văn bản, giấy tờ; công tác công văn, giấy tờ trở thành
một bộ phận không thể thiếu của hoạt động quản lý nhà nước.
Ở nước ta, từ thời phong kiến, công tác này được phát triển và dần dần có
nề nếp, kỷ cương qua các triều đại. Từ khâu soạn thảo các loại văn bản đến nội
dung, thẩm quyền ban hành; từ việc chuyển giao, giải quyết đến quản lý và sử
dụng các con dấu; tổ chức lưu trữ văn bản cho đến việc đào tạo và tuyển dụng
cán bộ làm công tác công văn, giấy tờ đều được quy định khá chặt chẽ và mang
tính khoa học.
Để góp phần tìm hiểu về công tác văn thư dưới các triều đại phong kiến
Việt Nam nói chung và công tác khen thưởng và xử phạt về công tác công văn
giấy tờ nói riêng, em đã chọn đề tài : Quઐ đ nh ề kh n thư‸ng à
tऀong c ng t c c ng

n gi ઐ t c


t

h t

tऀiều đ i hong kiến Vi t N

cho công trình nghiên cứu khoa học đầu tay của mình với mong muốn hiểu biết
hơn về lịch sử công tác văn thư Việt Nam.
2. Mục tiêu c

đề tài

Tìm hiểu công tác khen thưởng và xử phạt trong công tác công văn giấy
tờ thời phong kiến Việt Nam ( chủ yếu là thời Lê và thời Nguyễn qua 2 bộ luật
Hoàng Việt Luật Lệ thời Nguyễn;Quốc Triều Hình Luật thời nhà Lê.)
Từ nghiên cứu các quy định về khen thưởng và xử phạt của công tác công
văn giấy tờ thời phong kiến, rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong công tác
1


công văn giấy tờ góp phần xây dựng và hoàn thiện công tác văn thư thời hiện đại.
3. Nhi

ụ nghiên cứu

Thứ nhất: Tìm hiểu khái quát về công tác công văn giấy tờ thời phong
kiến Việt Nam.
- Thứ hai: Tìm hiểu công tác khen thưởng và xử phạt trong công tác công
văn giấy tờ thời phong kiến Việt Nam ( chủ yếu là thời Lê và thời Nguyễn.)
Thứ ba: Rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong công tác công văn

giấy tờ góp phần xây dựng và hoàn thiện công tác văn thư thời hiện đại.
4. Đ i tượng à h

i nghiên cứu c

đề tài:

4.1. Đ i tượng nghiên cứu:
Quy định về khen thưởng và xử phạt về công tác công văn giấy tờ thời
phong kiến .
4.2. Ph

i nghiên cứu:

Khen thưởng và xử phạt về công tác công văn giấy tờ trong các các triều
đại phong kiến Việt Nam (chủ yếu là triều Lê và Triều Nguyễn.)
5. L ch

nghiên cứu

n đề

Công tác văn thư (công tác công văn, giấy tờ) nói chung và quy định về
khen thưởng và xử phạt nói riêng dưới các triều đại phong kiến Việt Nam là một
đề tài được khá nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trước hết phải kể cuốn “Văn
bản quản lý nhà mước và công tác công văn, giấy tờ thời phong kiến Việt Nam”
của PGS Vương Đình Quyền được nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn
hành vào năm 2002. Công trình này đã tập trung nghiên cứu những vấn đề như:
các chủ trương, quy định và biện pháp về những vấn đề liên quan đến văn bản
quản lý nhà nước nói riêng, công tác công văn, giấy tờ nói chung của các triều

đại phong kiến Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX , chức năng và
đặc điểm của các loại văn bản quản lý nhà nước, số sách, giấy tờ hành chính đã
được các vương triều sử dụng: những quy định về công tác công văn, giấy tờ của
các triều đại phong kiến; từ việc nghiên cứu những vấn đề trên tác giả rút ra một
số nhận xét và bài học kinh nghiệm nhằm tổ chức tốt công tác công văn, giấy tờ
phục vụ cho hoạt động quản lý của các cơ quan và cải cách hành chính nhà nước
2


hiện nay.
Đây có thê được khẳng định là công trình lớn nhất, toàn diện nhất nghiên
cứu về công tác văn thư thời phong kiến. Các tác giả khác cũng có một số công
trình nghiên cứu nhưng chỉ đề cập đến một số mặt cụ thể của công tác này.
Chẳng hạn như Luận án Tiến sĩ của Vũ Thị Phụng nghiên cứu về “Văn bản
quản lý Nhà nước thời Nguyễn (1802- 1884) ” của Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia năm 2005.
Ngoài ra trên tạp chí Văn thư Lưu trữ cũng có một số bài viết của các tác
giả, nghiên cứu một số mặt của công tác công văn, giấy tờ dưới các triều đại
phong kiến Việt Nam. Có thê kể ra đây như: “Thử tìm hiểu vài nét về công tác
công văn, giấy tờ của một vài triều đại phong kiến Việt Nam” của Nguyễn Xuân
Nung trên tạp chí Lưu trữ hồ sơ số 4/1972; “Một số loại văn bản của cơ quan
nhà nước phong kiến Việt Nam” (Nguyễn Xuân Nung, “tạp chí Văn thư Lưu trữ
số 1/1973; “Mộc bản Hoàng Việt luật lệ - bộ Luật Gia Long” của tác giả Phạm
Thị Huệ - Nguyễn Huy Khuyến (Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số 8/2007);
“Vài nét về các kho lưu trữ và thư viện trong lịch sử

phong kiến Việt Nam”

của tác giả Nguyễn Thu Hoài (Tạp chí Văn thư - Lưu trữ Việt Nam, số 11/2008.)
Riêng tác giả Vương Đình Quyền đã có một loạt bài viết trên các tạp chí

nghiên cứu về các mặt của công tác công văn, giấy tờ: “Thể chế về văn bản,
giấy tờ trong nên hành chính dưới triều Lê Thánh Tông” (Tạp chí Lưu trữ Việt
Nam số 1/1993); “Thể chế về soạn thảo và ban hành văn bản của nhà nước
phong kiến triều Nguyễn” (Tạp chí Lưu trữ Việt Nam số 3/1994); “Minh Mệnh vị hoàng đế khai sáng nền lưu trữ triều Nguyễn” (Tạp chí Xưa và Nay số
7/1995); “Thông tin liên lạc hành chính dưới triều vua Minh Mạng” (Tạp chí
Lưu trữ Việt Nam số 4/1994; “Phiếu nghĩ - một phương thức giải quyết văn bản
của các hoàng đế triều Nguyễn” (Tạp chí Lưu trữ Việt Nam số 4/1996). Những
công trình nghiên cứu trên đã khái quát một cách tương đối hoàn chỉnh các mặt
của công tác văn thư dưới các triều đại phong kiến trên cơ sở tư liệu là các bộ
lịch sử, các thư tịch cổ. Tuy nhiên chưa có một công trình nào tập trung nghiên
cứu riêng về các quy định về khen thưởng và xử phạt về công tác công văn giấy
3


tờ như đề tài mà chúng tôi lựa chọn.
Những công trình nghiên cứu nói trên là nguồn tài liệu tham khảo _quan
trọng trong quá trình thực hiện đề tài. Ngoài ra tác giả đề tài còn tham kháo
nhiều nguôn tài liệu khác như: Các sách lý luận về công tác văn thư - lưu trữ,
các văn bản của Chính phủ, văn phòng Chính phủ, Bộ nội vụ về hoạt động này.
6. Phương h

nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã sử dụng các phương pháp hệ thống,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, mô tả, phân tích đối với các nguồn
tư liệu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp của các ngành khoa học
khác như phương pháp sử liệu học, phương pháp luật học để khai thác và xử lý
các nguồn tài liệu.
7. Đóng gó c


đề tài

Về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu những ghi chép chúng ta hiểu biết
thêm về các quy định và khen thưởng và xử phạt công tác công văn giấy tờ dưới
các triều đại phong kiến, góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử văn thư Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu các quy định và khen thưởng và xử phạt
trong

công tác công văn, giấy tờ thời phong kiến giúp chúng ta có thể rút ra

những kinh nghiệm của cha ông để làm tốt công tác văn thư ngày nay. Đồng
thời những ghi chép đó có thể sử dụng làm tư liệu để nghiên cứu lịch sử văn thư
- lưu trữ Việt Nam và

sẽ là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đặc biệt là các sinh viên đã và đang học môn cơ
sở ngành “Lịch sử văn bản và công tác văn thư Việt Nam”.
8. C u tऀúc đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát về công tác công văn giấy tờ thời phong kiến Việt
Nam.
Chương 2: Tìm hiểu quy định khen thưởng và xử phạt trong công tác công
văn giấy tờ của một số triều đại phong kiến Việt Nam.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và sự vận dụng các quy định về khen
thưởng và xử phạt công tác văn thư trong giai đoạn hiện nay.
4


Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC CÔNG VĂN GIẤY TỜ
THỜI PHONG KIẾN VIỆT NAM
Nhận thức được vai trò của công tác công văn giấy tờ - công cụ và
phương tiện trong việc quản lý và điều hành đất nước, các triều đại phong kiến,
đặc biệt là triều Lê và triều Nguyễn rất quan tâm đến việc đề ra các quy định
nhằm thể chế hóa đưa công tác công văn giấy tờ đi vào nền nếp.
1.1. Thiết lậ c c cơ qu n chuઐên tऀ ch o n thảo à chuઐển gi o
n bản
1.1.1. Các cơ quan chuyên trách soạn thảo văn bản
1.1.1.1. Văn phòng nhà vua
Thời Lê: Văn phòng nhà vua dưới thời Lê Thánh Tông do 5 cơ quan hợp
thành để lo toan công việc sự vụ hàng ngày cho nhà vua. Đó là các cơ quan:
- Hàn lâm viện:

phụng mệnh vua khởi thảo một số loại văn thư như

chiếu, chỉ, cùng các văn bản, mệnh lệnh khác của nhà vua… Chức quan đứng
đầu là Thừa chỉ, hàm chánh tứ phẩm. Ngoài ra còn có các chức như Thị tộc
(chánh ngũ phẩm) giữ việc đọc sách, Thị giảng (tòng ngũ phẩm) phụ trách việc
giải thích, bình luận các tấu biểu, văn thư, Thị thư (chánh lục phẩm) vào sổ các
văn thư…
-

rà soát, sửa chữa các văn bản do Hàn lâm viện đã

Đông các viện:

soạn thảo trước khi trình lên nhà vua duyệt. Chức quan đứng đầu là Đông các
đại học sĩ, hàm tòng tứ phẩm.
- Trung thư giám:


Đây là cơ quan phụ trách việc biên chép các dự thảo

văn bản của Hàn lâm viện và Đông các viện thành dự thảo chính thức để trình
vua chuẩn y. Đối với một số văn bản quan trọng như sắc phong chức tước cho
các đại thần, hoàng tử, hoàng hậu, hoàng thân quốc thích… thì

Trung thư giám

có nhiệm vụ khắc lên trên các lá vàng, lá bạc hay viết lên giấy rắc nhũ vàng, nhũ
bạc rồi đóng thành từng tập (quyển) đem lưu trữ. Người xưa gọi các tập văn bản
này là kim sách (sách vàng) và ngân sách (sách bạc).Chức quan đứng đầu là
Trung thư giám xá nhân, hàm chính lục phẩm.
5


Như vậy: ba cơ quan trên có quan hệ mật thiết với nhau, đều có chức năng
trong soạn thảo văn bản và với quy trình chặt chẽ. Một số loại văn thư đầu tiên
do Hàn lâm viện khởi thảo, rồi chuyển qua Đông các viện sửa chữa, cuối cùng
đến Trung thư giám biên chép để trình vua xem xét, chuẩn y. Ngoài ra, đối với
một số văn bản quan trọng như sắc phong chức tước cho các đại thần, hoàng tử,
hoàng hậu, hoàng thân quốc thích… thì Trung thư giám có nhiệm vụ khắc lên
trên các lá vàng, lá bạc hay viết lên giấy rắc nhũ vàng, nhũ bạc rồi đóng thành
từng tập (quyển) đem lưu trữ. Người xưa gọi các tập văn bản này là kim sách
(sách vàng) và ngân sách (sách bạc).
- Hoàng môn tỉnh:

Đây là cơ quan quản lí các ấn tín của nhà vua ( Lê

Thánh Tông có 6 quả bảo ấn để dùng vào các loại việc khác nhau). Sau khi văn

bản đã được chép lại, Hoàng môn tỉnh có trách nhiệm đóng dấu để ban hành.
Quan đứng đầu là Hoàng môn thị lang, hàm tòng tam phẩm.
- Bí thư giám: Đây là cơ quan trông coi về thư viện và bảo quản các sáng
tác thơ văn của nhà vua. Quan đứng đầu là bí thư ngũ giám học sĩ, hàm tòng ngũ
phẩm.
Tऀiều Nguઐễn:
Văn phòng Nhà vua thời Gia Long: gồm 4 cơ quan:
Thị thư viện, Thị Hàn viện (Soạn thảo, chuyển đạt và lưu giữ văn bản,
giầy tờ của vua); Nội Hàn viện (Phụ trách ngự chế và thư từ riêng); Thượng bảo
ty (Coi giữ ấn tín)
Thời Minh Mạng: Năm 1820, Nhà vua cho lập Văn thư phòng, Văn thư
phòng có nhiệm vụ soạn thảo văn bản do vua ban hành; chuẩn bị và tâu trình lên
vua văn bản của Bộ, Nha và địa phương. “Văn thư phòng

là nơi khu mật của

Nhà nước, không phải là người dự việc cấm không được vào”.
Năm 1827,để bước đầu hạn chế bớt quyền hành của các tổng trấn, vua
Minh Mạng quy định: Các trấn tại Bắc Thành và Gia Định, muốn triển khai vấn
đề gì, đều phải làm các tờ tâu trình thẳng lên nhà vua. Quy định trên đã làm tăng
khối lượng công việc cần phải giải quyết tại cơ quan của triều đình, số lượng
công văn, giấy tờ tăng, công việc của các bộ trở nên phức tạp. Vì thế, văn thư
6


phòng không còn phù hợp và cần thiết phải lập một cơ quan mới, đầy đủ quyền
hạn thay mặt vua giải quyết công việc ở các trấn,

đổng thời kiểm sát và chế


ngự quyền lực của các Bộ ở triều đình. Năm 1929, Nội các được thành lập
Nội các dưới triều vua Minh Mạng được chia làm 4 tào:
+ Tào Thượng bảo: Thảo chỉ, dụ, giữ ấn tín và đóng dấu vào văn bản, sao
lục và chuyển giao bản phó các tấu sớ đã được vua phê duyệt cho các nha môn
để thi hành và chuyển bản chính cho Tào Biểu bạ để lưu giữ
+ Tào Ký chú: Giữ và cung tiến nghiên, but vua dùng, ghi chép những lời
vua nói, cử chỉ của vua, tấu nghị của các quần thần khi vua ngự triều hoặc đi
tuần thú.
+ Tào Đồ thư: Sao lục và bảo quản văn thơ của vua, lưu giữ các văn bản
ngoại giao và bản đồ
+ Tào Biểu bạ: Lưu các bản son có chữ vua phê, châu khuyên, châu điểm
và bản phó các biểu, chương, sớ, sách trong kinh ngoài trấn gửi tới…
Quan chức nội các gồm 4 người có phẩm trật từ tam phẩm và tư phẩm, 28
người có phẩm trật từ ngũ phẩm đến cửu phẩm…
1.1.1.2. Văn phòng các Bộ
Trong bộ máy Nhà nước trung ương thời Nguyễn, ngoài văn phòng nhà
vua, tại mỗi bộ, triều Nguyễn còn quy định phải tổ chức riêng một bộ phận văn
phòng lo tiếp nhận công văn, soạn thảo một số văn bản thông thường và quản lý
con dấu. Năm 1844, tào biểu bạ thời Minh Mạng được đổi tên là Sở bản chương,
chia làm 3 chương:
+ Lại Hộ chương: Bảo quản sớ, sách của Bộ Lại và Bộ Hộ gồm cả bản
châu phê và bản sao sớ, sách của địa phương
+ Lễ Binh chương: Bảo quản sớ, sách của bộ Lễ và Bộ Binh
+ Hình Công chương: Bảo quản sớ, sách của bộ Hình và bộ Công
Việc thiết lập các cơ quan như vậy nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt
động của các bộ nói riêng và của cả bộ máy nhà nước nói chung
1.1.2. Các cơ quan chuyên trách chuyển giao văn bản
Sử dụng văn bản là phương tiện trong việc điều hành đất nước, ngoài thiết
7



lập các cơ quan chuyên trách soan thảo văn bản, các triều đại phong kiến chú
trọng đến việc chuyển giao văn bản đến các nha môn và địa phương chính xác,
kịp thời, an toàn để việc thực thi mệnh lệnh của vua được hiệu quả. Vì thế, yêu
cầu tất yếu đặt ra là phải tổ chức các cơ quan giúp việc cho nhà vua về vấn đề
này. Trong suốt quá trình điều hành đất nước, các triều đại phong kiến đã từng
bước kiện toàn các cơ quan chuyên trách chuyển giao văn bản ngày một chuyên
nghiệp và hiệu quả hơn. Đó là các cơ quan sau đây:
H th ng tऀ

d ch (hay còn gọi là nhà trạm):

Thiết lập từ thời Lý, nhà trạm do bộ Binh quản lý. Các triều đại phong
kiến chia đường cái quan thành các cung đường, mỗi cung đường đặt một nhà
trạm
Các trạm dịch có nhiệm vụ chính là chuyển đưa công văn, giấy tờ phục vụ
cho hoạt động quản lý của triều đình và các địa phương. Ngoài ra còn có nhiệm
vụ vận chuyển vật cống, hàng hóa cho nhà nước và là nơi dừng chân nghỉ ngơi
của các quan chức nhà nước trên đường đi công tác.
Nhà trạm được đặt dọc đường cái quan và làm theo kiểu cách thống nhất.
Năm 1806, vua Gia Long quy định: nhà trạm đều nên đặt bên đường cái quan
chính, mỗi trạm dựng 3 tòa nhà trạm cả lớn nhỏ và bốn bề hàng rào bằng gỗ, cửa
phía trước có treo biển đề tên trạm. Đến năm 1814 lại quy định: nhà trạm ở các
doanh trấn đều dựng 5 gian 2 chái, gian giữa cao 12 thước 8 tấc, lòng nhà dọc
ngang đều 8 thước 2 tấc, sân đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái đều 7
thước 3 tấc. Bốn bề xây tường gạch, phía trước mở một cửa, xây tường xung
quanh rộng 15 trượng, cao 8 thước. Thời gian đầu, nhà trạm đều lợp bằng tranh,
đến năm Minh Mạng thứ 9 (1928), nhà vua quy định tất cả đều lợp bằng ngói.
Thực ra, hệ thống trạm dịch đã được thiết lập từ trước, nhưng đến thời
Minh Mạng thì mới được bố trí một cách rộng rãi và tổ chức quy củ, chặt chẽ

hơn.
Có 2 loại trạm: mã trạm ( trạm đường bộ ) và thuyền trạm (trạm đường
sông). Tuy nhiên, mã trạm là chủ yếu, được phân bố khắp toàn quốc, còn thuyền
trạm chỉ thiết lập những nơi nhiều sông, giao thông thủy thuật tiện, như ở các
8


tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên.
Thời Minh Mạng, có 149 trạm trong đó có 16 thuyền trạm.
Các trạm dịch được bố trí cách nhau từ 20 dặm đến 40 dặm.
Về tổ chức, mỗi trạm có một Đội trưởng phụ trách chung và một Thứ đội
trưởng giúp việc (năm Minh Mạng thứ 18 đổi thành Dịch thừa và Dịch mục) và
các phu trạm. Đội trưởng và Thứ đội trưởng do các dinh, trấn tuyển chọn lập
danh sách trình lên vua phê duyệt (cấp bằng), các chế độ được hưởng theo ngạch
bộ Binh. Đội trưởng và Thứ đội trưởng có nhiệm vụ ở nhà trạm để điều hành
việc chạy trạm, quản lí phu trạm và tài sản của trạm như ngựa, thuyền....
Số lượng phu trạm (lính trạm) ở mỗi trạm do nhà vua quy định, thường từ
30 đến 100 người, tùy thuộc vào tình hình đường sá và khối lượng cộng việc
chạy trạm. Ví dụ năm Minh Mạng thứ 20 (1839), vua đã chuẩn y lời tâu: “Cho
các trạm Thuật biên, Biên phúc thuộc tỉnh Biên hòa, việc đưa trạm hơi bận thì
tính lưu lại mỗi trạm 80 tên phu trạm, còn 3 trạm Biên thịnh, Biên long, Biên
phúc việc đưa trạm hơi rỗi thì đều tính lưu lại mỗi trạm 60 tên phu trạm. Phu
trạm được tuyển từ dân đinh các làng xã gần nơi bố trí trạm dịch. Họ có nhiệm
vụ chuyển giao công văn, giấy tờ ( chạy bộ, bằng ngựa hoặc thuyền), chuyển
vận hàng hóa công, khiêng cáng quan lại, chăm sóc ngựa hoặc tu sửa thuyền. Họ
được nhà nước cấp tiền lương, miễn binh dịch, thuế thân và khen thưởng mỗi
khi hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Ở mỗi trạm, các phu trạm được chia ra nhiều ban và làm việc theo chế độ
trực ban do Đội trưởng phân công. Hết phiên trực thì về nhà lao động sản xuất,
đợi đến phiên trực lần sau. Chế độ trực cũng được quy định rất nghiêm ngặt.

Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), nhà vua chỉ thị: từ nay trở đi, các Dịch thừa, Dịch
mục ở các nhà trạm phải đốc thúc phu trạm, không được tự tiện rời bỏ sở trạm.
Quan địa phương phải định kỳ kiểm tra tên nào dám bỏ công việc thì phải
nghiêm hạch trị tội. Nếu quan địa phương còn có thiên vị tư tính, để đến nỗi tên
phạm bỏ trốn, thì viên quan ấy cũng phải giao Bộ nghị xử.
- Tઐ Bưu chính
Được thiết lập vào năm 1820 dưới thời Minh Mạng. Ty Bưu chính có
9


nhiệm vụ quản lí nhà trạm, và việc chuyển công văn, giấy tờ trong toàn quốc,
đặt dưới sự điều hành của bộ Binh. Sỡ dĩ giao công việc này cho bộ Binh là để
đảm bảo việc tổ chức và quản lí được chặt chẽ, chuyển giao công văn, giấy tờ
được nhanh chóng, kịp thời và an toàn.
Ty Bưu chính do một chủ sự (hàm chánh lục phẩm) phụ trách, một tư vụ
(hàm chánh thất phẩm) làm phụ tá. Thuộc viên gồm hai thư lại hàm chánh bát
phẩm, hai thư lại hàm chánh cửu phẩm và 15 thư lại chưa vào ngạch quan chức
nhà nước. Tất cả thuộc viên đều do bộ Binh tuyển chọn và được hưởng lương
theo các thứ bậc do nhà vua quy định.
- Tઐ Th ng chính ứ
Ty Thông chính sứ được thành lập năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Theo
sách đại nam thực lục, Ty Thông chính sứ đảm nhận các nhiệm vụ:
+ Tiếp nhận chương sớ,sổ sách, văn thư của các địa phương gửi về chiều
đình do ty Bưu chính chuyển giao.
+ Nếu là việc quân việc nước quan trọng thì để nguyên phong đệ trình
ngay lên vua, còn đều mở phong bì ra xem. Việc thuộc nha nào thì mang cả bản
chính và bản phụ chon nha đó giải quyết. Nếu nội dung văn bản liên quan đến
nhiều Bộ, Bộ có trách nhiệm giải quyết chính

thì giao cho Bộ đó trước, nếu


cùng có trách nhiệm ngang nhau thì giao cho Bộ có tên ghi trước tiên ở phần nơi
nhận công văn. Nếu đã chuyển giao đúng Bộ có chức năng giải quyết mà lại từ
chối không nhận thì ty Thông chính sứ phải báo cáo ngay cho Nội các để tâu lên
vua. Riêng đối với các tập “mật tấu” thì phải giao cho Sứ thị vệ (cơ quan phụ
trách bảo vệ nhà vua) đệ trình.
+ Cùng với bộ Binh kiểm tra công văn từ triều đình gửi đi các địa phương
trước khi chuyển giao cho ty Bưu chính.
Ty Thông chính sứ gồm có Thông chính sứ, Thông chính phó sứ đều do
vua bổ nhiệm, giúp việc có 1 viên ngoại lang, 1 chủ sự, 1 tự vụ, 4 bát cửu phẩm
thư lại, 15 thư lại chưa vào ngạch quan chức.

10


1.2. C c lo i

n bản quản lý nhà nước c

c c tऀiều đ i hong kiến

Vi t N
Trong suốt chiều dài lịch sử ngàn năm của chế độ phong kiến Việt Nam,
các vương triều đều sử dụng văn bản làm phương tiện thông tin phục vụ cho
hoạt động quản lý. Bởi vậy, khối lượng văn bản quản lý hình thành trong hoạt
động của bộ máy nhà nước khá đa dạng và phong phú.
Có thể kể đến các loại văn bản sau:
- Luật:
Luật là văn bản quy phạm pháp luật do vua ban hành dùng để điều tiết các
quan hệ xã hội, phục vụ cho quản lý nhà nước. Có thể kể đến các bộ luật sau:

Hình thư ban hành dưới triều Lý (1042);

Quốc triều thống chế ban hành dưới

triều Trần Thái Tông (1230); Hoàng triều đại điển ban hành dưới thời Trần Dụ
Tông (1341);

Quốc triều Hình luật được ban hành dưới thời Lê Thánh Tông ;

Hoàng Việt luật lê

ban hành năm 1815 dưới thời vua Gia Long, còn gọi là

Luật Gia Long
- Chiếu: Chiếu là loại văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của nhà vua,
được các hoàng đế dùng để công bố cho thần dân quyết sách, chủ trương, ra lệnh,
thành lập bộ máy, điều động quan lại…
- L : Lệ là loại văn bản pháp luật do vua ban hành dùng để bổ sung cho
luật hoặc đề ra các quy định mới về những vấn đề, sự việc thuộc lĩnh vực quản
lý nhà nước.
- L nh: Lệnh là văn bản do vua ban hành để ra lệnh thi hành hoặc quy
định thực hiện các vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước.
- Sắc: Là văn bản do vua ban hành, dùng đẻ ra lệnh cho nha môn, thần
dân thi hành thực hiện các nhiệm vụ công tác và công việc thuộc lĩnh vực quản
lý nhà nước.
- Chỉ: Là loại văn bản do vua ban hành, cũng dùng để ra lệnh.
- Dụ: Là hình thức văn bản do vua ban hành, dùng để khuyên bảo răn dạy
thần dân, ra lệnh thi hành, các quy định mang tính pháp quy.
Đó là các loại văn bản quan trọng, liên quan đến việc điều tiết các quan hệ
11



trong xã hội, thuộc thẩm quyền ban hành của vua. Ngoài các loại văn bản trên,
dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, các loại văn bản thuộc thẩm quyền ban
hành của tướng lĩnh, thần dân, nha môn cũng khá đa dạng và phong phú. Đó là
các văn bản như hịch, biểu, điều trần, đề, khải, tấu, sớ, các loại công văn như tư
di, giáo thị, truyền thị.
Ngoài hệ thống văn bản quản lý nhà nước, các loại sổ sách hành chính nhà
nước cũng có một vai trò không kém phần quan trọng đối với hoạt động quản lý
của các cơ quan nhà nước. Chúng ghi chép các thông tin về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội,… của từng làng, xã, từng phủ, huyện, lộ, trấn hoặc của từng cơ
quan thuộc bộ máy nhà nước. Các sổ sách đó được lập ra do nhu cầu của quản lý
nhà nước nói chung hoặc để phục vụ cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của
từng cơ quan. Do vậy, rất được các vương triều coi trọng. Trong đó, có một số
loại sổ sách như hộ tịch, sổ duyệt tuyển, địa bạ,… đã được mẫu hóa ở mức độ
khá cao để thi hành thống nhất trong cả nước.
1.3. Quઐ đ nh ề c ng t c c ng

n gi ઐ t c

c c tऀiều đ i hong

kiến Vi t N
1.3.1. Quy định về soạn thảo và ban hành văn bản
Các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm quan tâm đến vấn đề thể thức
văn bản quản lý nhà nước, thể hiện tư tưởng chỉ đạo và việc làm cụ thể của một
số vị vua đương thời.
Thời Trần, thể thức văn bản trở thành nội dung chủ yếu trong các kỳ thi
tuyển chọn thư lại. Toàn thư chép rằng, tháng 2 năm Mậu Tý (1228), dưới
thời Trần Thái Tông, đã thi tuyển lại viên bằng thể thức công văn (bạ đầu cách).

Còn Lê Thánh Tông, năm 1468, đã chỉ thị cho bộ Lễ “bàn định quy cách giấy tờ
trong dân gian để ban hành trong cả nước. Đến tháng 7 năm Tân Mão (1471),
vua cho ban hành thể thức bản đồ và văn khế, có hiệu lực thi hành từ ngày mồng
mười, tháng giêng năm sau, sau ngày đó nếu ai không tuân theo thì cho là không
hợp lệ”.
Triều Nguyễn, vua Minh Mạng đã có quan điểm rõ ràng hơn về công tác
giấy tờ. Ông ra lệnh : “Trẫm xem chương sớ bốn phương có nhiều từ không hợp
12


khoản. Đây dẫu là việc nhỏ, nhưng đã có Nhà nước thì chế độ văn từ phải hoạch
nhất, há lại cứ để khác nhau, các khanh nên làm mẫu thức mà thi hành” .
Việc ghi Quốc hiệu, đô hiệu, niên hiệu và thời gian của văn bản đã được
các triều đại quy định khá chặt chẽ. Toàn thư chép, tháng 4 năm Mậu Thân
(1428), Lê Thái Tổ ngay sau khi lên ngôi xuống chiếu rằng: “Từ sau ngày chiếu
thư ban ra, nếu quân hay dân có dâng thư nói việc gì thì phải theo đúng Quốc
hiệu, đô hiệu, niên hiệu như trong chiếu thư, ai trái thế thì phải xử phạt trượng
hay biếm chức; những giấy tờ, văn khế, khoán ước về mua bán, đổi chác, vay
mượn mà không theo đúng như trong chiếu thì sẽ không có giá trị” .
Vua Gia Long và Minh Mạng biểu thị quan điểm rõ ràng, đúng đắn. Sách
Đại Nam thực lục chép: tháng 2 năm Giáp Tý (1804), Gia Long đặt Quốc hiệu là
Việt Nam, ngày Đinh Sửu, vua xuống chiếu bố cáo trong ngoài rằng: “Đế vương
dựng nước trước hết phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ sự nhất thống… sau nghỉ tới
mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh trời, nên định lấy ngày 17 tháng 2
năm nay kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam để dựng nền lớn,
truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta, việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ
báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được xưng hiệu
cũ là An Nam nữa”.
Năm 1838, sau khi quyết định đổi tên nước thành Đại Nam, Minh Mạng
đã ra sắc chỉ nhấn mạnh: việc ghi Quốc hiệu lên văn bản là vấn đề hệ trọng có

liên quan đến quốc thể, từ nay quốc hiệu phải gọi là Đại Nam, mọi văn bản, giấy
tờ đều phải ghi như vậy.
Các văn bản đều phải ghi niên hiệu (tên hiệu nhà vua, người ta dựa vào đó
để tính năm kể từ khi ông vua đó lên ngôi). Ví dụ: Thuận Thiên năm thứ I, Gia
Long năm thứ ba) và ngày tháng ban hành. Ngày tháng văn bản phải viết bằng
chữ kép chứ không được dùng chữ đơn, nhằm ngăn ngừa sự sửa chữa tẩy xóa.
- Về việc ký văn bản
Trong các triều đại Việt Nam, đặc biệt triều Lê trở về sau, chữ ký và con
dấu đã được chính quyền phong kiến coi trọng nhằm đảm bảo tính chân thực và
hiệu lực pháp lý của các văn bản được ban hành.
13


Thời Lý, không phát hiện có sách sử ghi chép những quy định về việc ký
tên trong văn bản.
Đến thời Trần đã có quy định về điểm chỉ vào giấy tờ, văn khế. Toàn thư
chép: Năm Đinh Hợi (1227), vua Trần Thái Tông đã xuống chiếu “rằng tất cả
các đơn từ, văn khế đều dùng phép in ngón tay vào nữa tờ giấy”. Năm Đinh Dậu,
vua lại xuống chiếu: “Phàm làm giấy tờ về chúc thư, văn khế, ruộng đất và vay
mượn tiền bạc thì người làm chứng in tay ở 3 dòng trước, người bán in tay ở 4
dòng sau”.
Thời Lê Thánh Tông, có nhiều quy định về ký văn bản được ban hành.
Năm 1446, vua quy định: “Văn bản của các nha môn nếu chánh quan khuyết
hoặc đi vắng thì quan tá nhị thay giữ ấn tín của nha môn ấy ký tên ở dưới chỗ đề
năm tháng”. Năm 1478, Thánh Tông định lệ ký tên cho người đứng đầu các nha
môn: “các bản tâu và mọi giấy tờ việc quan, quan thủ lĩnh các nha môn ký tên
vào cuối tờ giấy…”.
Năm Hồng Đức thứ 14 (1483), ra sắc chỉ rằng: “Kể từ nay, sáu Bộ có bản
tâu và hết thảy công văn các việc đều phải ký tên ở cuối tờ giấy như các quan
kinh lịch và thủ lĩnh thừa ty ở các xứ”. Năm 1484 lại ra quy định: “Các bản tâu

và đề của các quan viên trong ngoài thì chính viên quan phụ trách phải ký tên,
không được sai lại viên viết chữ ký thay”. Như vậy, văn bản bắt buộc phải có
chữ ký của người có thẩm quyền và đúng chỗ.
Triều Nguyễn đã thừa kế các quy định về ký văn bản của triều Lê, đồng
thời đã đề ra một số quy định:
+ Văn bản trước khi đưa cho người có trách nhiệm duyệt ký để ban hành
thì phải cử người kiểm tra lại cẩn thận.
+ Văn bản tâu trình lên nhà vua ngoài chữ ký của người đứng đầu cơ quan
(hoặc cấp phó), thì người thảo văn bản (phụng thảo) và người soát xét lại văn
bản (phụng khảo) đều phải ghi tên mình vào văn bản đó. Hai quan này đều phải
chịu trách nhiệm liên đới với nhau về nội dung văn bản tâu trình
- Việc đóng dấu văn bản, sử dụng và quản lý con dấu
Việc quản lý con dấu được các triều đại coi trọng hơn so với chữ ký, xem
14


con dấu là yếu tố thông tin quan trọng nhất để đảm bảo hiệu lực pháp lý và tính
chân thực của văn bản, đặc biệt là thể hiện quyền uy của hoàng đế và của cả
vương triều. Minh Mạng rất coi trọng con dấu: “Phàm dùng ấn tín là để phòng
ngừa gian dối, ngăn cấm sự thay đổi”. Ông còn chỉ rõ mục đích, ý nghĩa của con
dấu là: “dùng bảo tỷ của nhà nước là để tỏ lệnh tin, bày lời dạy, rất trọng mà
phép rất lớn”.
1.3.2. Quy định về chuyển giao văn bản
Chuyển giao văn bản là một khâu quan trọng trong đảm bảo thông tin cho
hoạt động quản lý nhà nước của các triều đại phong kiến Việt Nam. Ngoài việc
thiết lập các cơ quan chuyên trách chuyển giao văn bản, các triều đại phong kiến
đã có các quy định nhằm đảm bảo chuyển đệ công văn nhanh chóng, kịp thời và
an toàn.
Thứ nhất, các triều đại phong kiến đã thiết lập các cơ quan chuyên trách
chuyển giao văn bản

Thứ hai, các triều đại phong kiến đã quy định về cách thức chuyển giao
văn bản: chuyển giao bằng sức người chạy bộ, chuyển giao bằng ngựa, chuyển
giao bằng thuyền.
Thứ 3, các triều đại phong kiến quy định cụ thể về thủ tục chuyển giao
văn bản như việc cho văn bản vào bì, cho bì vào ống trạm, khi chuyển giao phải
ghi rõ cơ quan gửi, cơ quan nhận, tháng, ngày, giờ chuyển giao...
Thứ 4, các triều đại phong kiến quy định về thời hạn chuyển giao đối với
văn bản giấy tờ và đề ra các quy định về khen thưởng và xử phạt trong chuyển
giao văn bản.
1.3.3. Quy định về quản lý và giải quyết văn bản
Giải quyết văn bản là khâu quan trọng trong công tác công văn, giấy tờ vì
nó quyết định đến chất lượng của

hoạt động quản lý nhà nước. Các triều đại

phong kiến đã quy định cụ thể các cơ quan tham gia vào quá trình giải quyết văn
bản. Thời Lê Thánh tông, hệ thống nhà trạm, văn phòng Nhà vua, lục bộ, lục
khó, lục tự tham gia vào quá trình tham mưu cho vua trong giải quyết văn bản.
Triều Nguyễn, Ty Bưu chính, Ty thông chính sứ, nha môn, địa phương, Lục bộ,
15


Nội các là các cơ quan tham gia vào quy trình giải quyết văn bản trình vua. Ví
dụ: Địa phương và nha môn soạn thảo văn bản, Lục bộ tham mưu bằng cách
soạn thảo phiếu nghĩ ghi ý kiến tham mưu trong giải quyết văn bản của địa
phương và nha môn để vua tham khảo khi phê duyệt. Thời Nguyễn, thể thức phê
duyệt của vua đối với các bản tấu trình bao gồm:
- Châu phê: Vua cho một đoạn văn dài hoặc mấy câu vắn tắt, hoặc chỉ một
câu: “Trí đạo liễu” (đã biết cho) hoặc “y tấu” (Chuẩn y lới tấu), hoặc “y nghị”
(chuẩn y lời đề nghị).

- Châu điểm: Vua điểm một chữ son lên đầu chữ tấu để biểu thị vua đã
đọc và đồng ý với nội dung văn bản.
- Châu khuyên: Trường hợp văn bản đề cập đến nhiều vấn đề mà phải lựa
chọn một trong những vấn đề, sự việc thì vua lựa chọn vấn đề, sự việc nào, vua
sẽ dùng bút son khuyên tròn vào sự việc, vấn đề đó.
- Châu mạt: Nếu vua có ý kiến phủ nhận hoặc không đồng ý với sự việc,
vấn đề hoặc bác bỏ người nào thì vua quẹt một gạch son lên câu ấy hoặc tên
người ấy.
- Châu sổ: là nét son sổ trực tiếp lên những chỗ cần sửa chữa hoặc vua
không chấp nhận.
- Chấu cải là chữ, câu, đoạn viết bên cạnh những chữ đã sổ bỏ nhằm chữa
lại hoặc thể hiện quan điểm của nhà vua.
1.4. Đề ऀ c c hình thức

h t

Hệ thống hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được chia làm
hai loại là ngũ hình: xuy hình (đánh bằng roi); trượng hình (đánh bằng gậy); đồ
hình (tù khổ sai); lưu hình (đi đày); tử hình (giết chết) và các hình phạt ngoài
ngũ hình, trong đó các hình phạt thuộc về ngũ hình đóng vai trò chủ đạo, và các
hình phạt ngoài ngũ hình thường được coi là phụ hình kèm với chính hình trong
ngũ hình. Năm loai tội phạm đó, xét về mặt nội dung có sự phong kiến Việt
Nam khác nhau về mức độ của tính nguy hiểm xã hội, chính vì thế nó trở thành
một tiêu chí để phân loại tội phạm.
Trong các bộ luật, tội phạm nhiều chỗ cũng được gọi bằng các tội danh
16


như: tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu, tội tử. Cụ thể theo điều 1 chương Danh
lệ của Quốc triều hình luật (QTHL) cũng như Hoàng Việt luật lệ (HVLL) thì:

- Tội xuy: có 5 bậc, từ 10 đến 50 roi gồm 10, 20, 30, 40, 50 roi.
- Tội trượng: có 5 bậc từ 60 đến 100 trượng gồm 60, 70, 80, 90, 100
trượng.
- Tội đồ:
Theo Quốc triều hình luật: 3 bậc, phân biệt giữa công việc của đàn ông và
đàn bà. Đối với đàn ông: 3 bậc bao gồm dịch đinh, tượng phường binh, chung
điền binh. Đối với đàn bà: 3 bậc bao gồm dịch phu, xuy thất tỳ, thung thất tỳ.
Theo Hoàng Việt luật lê: có 5 bậc đồ: 1 năm với 60 trượng; 1,5 năm với
70 trượng; 2 năm với 80 trượng; 2,5 năm với 90 trượng; 3 năm với 100 trượng.
- Tội lưu: 3 bậc lưu
Theo Quốc triều hình luật: gồm có lưu cận châu, lưu ngoại châu, lưu viễn
châu.
Theo Hoàng Việt luật lê: gồm 2000 dặm với 100 trượng; 2500 dặm với
100 trượng; 3000 dặm với 100 trượng.
Tội tử:
Theo Quốc triều hình luật: có 3 bậc giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu); trảm
kiêu (chém bêu đầu); lăng trì (tùng xẻo).
Theo Hoàng Việt luật lệ: có 2 bậc giảo (thắt cổ), trảm (chém).
Ngoài ra còn quy định nhuận tử(chết 2 lần) bao gồm lăng trì (xẻo chậm),
trảm kiêu (chém bêu đầu); lục thi (chặt xác chết). Bên cạnh ngũ hình còn có
hình phạt ngoài ngũ hình như biếm, phạt tiền, thích chữ, tịch thu tài sản, sung vợ
con làm nô tỳ… nhưng chủ yếu là hình phạt đi kèm.

17


Tiểu kết chương 1
Nhìn tổng thể, nền hành chính của nước ta thời phong kiến đã có hệ thống
văn bản quản lý nhà nước gồm nhiều thể loại khác nhau, mỗi loại dùng vào mục
đích nhất định. Các triều đại sau thường có sự kế thừa, hoàn thiện và phát triển

các loại văn bản của triều đại trước. Do vậy càng về sau thì các loại văn bản
càng đa dạng, chức năng của mỗi loại càng được xác định rõ ràng hơn.
Qua hệ thống văn bản đã nêu trên, có thể thấy rằng, dưới các triều đại
phong kiến Việt Nam, các văn bẩn có hiệu lực pháp lý cao như Luật, Lệ, chiếu,
chỉ, dụ, sắc,... đều thuộc thẩm quyền ban hành của hoàng đế. Còn các cơ quan
nhà nước, từ lục Bộ đến các chính quyền địa phương chỉ được quyền ban hành
các văn bản mang tính chất truyền đạt, thông báo, trao đổi, tâu bày, phản ánh
tình hình. Ngoại trừ thời Gia Long triều Nguyễn, một số văn bản ban hành dưới
danh nghĩa là hội đồng đình thần hoặc Tổng trấn Bắc Thành, Nam Thành cũng
có hiệu lực tương đối cao. Như vậy do ở các triều đại quyền lực nhà nước đều
tập trung vào tay vua. Vua là người nắm quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp,
thậm chí cả quyền chỉ huy quân đội. Mọi vấn đề lớn nhỏ của quốc gia, trên danh
nghĩa đều phải thông qua nhà vua và do vua quyết định. Lấy triều Nguyễn làm
ví dụ: việc thăng giáng, bổ nhiệm các quan chức từ Trung ương đến trấn, phủ,
huyện đều thuộc thẩm quyền của nhà vua; loại văn bản vua dùng để quyết định
vấn đề này là chiếu , dụ, sắc.
Từ đó, là cơ sở lý luận dể nhóm tác giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề khen
thưởng, xử phạt công tác công văn giấy tờ ở các triều đại phong kiến Việt Nam
ở chương 2.

18


Chương 2
TÌM HIỂU QUY ĐỊNH VỀ KHEN THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT
TRONG CÔNG TÁC CÔNG VĂN GIẤY TỜ
CỦA MỘT SỐ TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM
2.1. Quઐ đ nh ề kh n thư‸ng à

h t tऀong c ng t c o n thảo


n bản
2.1.1. Về thể thức văn bản:
Theo PGS Vương Đình Quyền, các triều đại phong kiến Việt Nam, từ rất
sớm đã quan tâm đến vấn đề thể thức của văn bản quản lý nhà nước, thể hiện
trong tư tưởng chỉ đạo và việc làm cụ thể của một số hoàng đế. Ngay từ thời
Trần, thể thức văn bản đã trở thành nội dung chủ yếu trong các kì thư tuyển
chọn thư lại. Toàn thư chép rằng, tháng 2 năm Mậu Tý (1228), dưới thời Trần
Thái Tông, đã thi tuyển lại viên bằng thể thức công văn (bạ đầu cách). Lê Thánh
Tông năm 1468, đã chỉ thị cho bộ Lễ: “bàn định quy cách giấy tờ trong nhân
gian để ban hành trong cả nước”. Đến tháng 7 năm Tân Mão (1471), nhà vua
cho ban hành thể thức về bản đồ và văn khế, có hiệu lực thi hành từ ngày 10
tháng giêng năm sau, sau ngày đó nếu ai không tuân theo thì cho là không hợp lệ.
Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng đã có quan điểm rõ ràng hơn về điều này.
Trước tình trạng văn bản của các nơi gửi đến không tuân theo một thể thức
thống nhất, ông đã lệnh cho quần thần nghiên cứu đề ra quy định thống nhất về
thể thức của văn bản để áp dụng trong cả nước: “Trẫm xem chương sớ 4 phương
có nhiều tờ không hợp khoản. Đây dẫu là việc nhỏ nhưng đã có nhà nước thì chế
độ văn từ phải hoạch nhất, há lại cứ để khác nhau, các khanh nên làm mẫu thức
mà thi hành”.
Sau đây là các quy định về khen thưởng và xử phạt khi không thực hiện
đúng quy định của nhà nước trong soạn thảo và ban hành văn bản:
Thứ nhất: Ghi Quốc hiệu trên văn bản
Việc ghi Quốc hiệu, Đô hiệu, niên hiệu và thời gian ban hành trên văn bản
đã được các triều đại quy định khá chặt chẽ, xem đây là yếu tố thông tin đảm
bảo hiệu lực thi hành của văn bản. Toàn thư chép, tháng 4 năm Mậu Thân
19


(1428), Lê Thái Tổ ngay sau khi lên ngôi đã xuống chiếu rằng: “từ sau ngày

chiếu thư ban ra nếu quân hay dân có dâng thư nói việc gì thì phải theo đúng
Quốc hiệu, Đô hiệu, niên hiệu như trong chiếu thư, ai trái thế thì phải xử phạt
trượng hay biếm chức; những giấy tờ, văn khế, khoán ước về mua bán, đổi trác,
vay mượn mà không theo đúng như trong chiếu thì sẽ không có giá trị”.
Dưới triều Nguyễn, các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng đã biểu thị một
quan điểm rõ ràng và đúng đắn về vấn đề này. Sách Đại Nam thực lục chép rằng:
tháng 2 năm Giáp Tý (1804), Gia Long đặt Quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh
Sửu, nhà vua xuống chiếu tố cáo trong ngoài. Năm 1838, sau khi quyết định đổi
tên nước thành Đại Nam, Minh Mạng đã ra sắc chỉ nhấn mạnh: việc ghi Quốc
hiệu lên văn bản là vấn đề hệ trọng có liên quan đến quốc thể, từ nay Quốc hiệu
phải gọi là Đại Nam, mọi văn bản giấy tờ đều phải ghi như vậy.
Thứ 2: Quy định về

ký văn bản:

Dưới các triều đại Việt Nam, đặc biệt từ triều Lê trở về sau, chữ ký và con
dấu đã được chính quyền phong kiến coi là những yếu tố thông tin quan trọng
nhằm đảm bảo tính chân thực và hiệu lực pháp lý của văn bản được ban hành.
Ở thời Lý, không thấy sử sách ghi chép về việc ký tên trong văn bản. Đến
thời Trần, đã có quy định về điềm chỉ vào giấy tờ, văn khế. Toàn thư chép: năm
Đinh Hợi (1227), vua Trần Thái Tông đã xuống chiếu: “rằng tất cả các đơn từ,
văn khế đều dùng phép in ngón tay vào một tờ giấy”.
Dưới thời Lê Thánh Tông, nhiều quy định về ký văn bản đã được ban
hành. Năm 1446, nhà vua quy định: “văn bản các nha môn nếu chánh quan đi
vắng thì quan tá nhị thay giữ ấn tín của nha môn ấy, ký tên dưới chỗ đề năm
tháng”.
Như vậy, theo những quy định nêu trên, thì mọi văn bản, giấy tờ của các
nha môn đều phải có chữ ký của người có thẩm quyền và phải ký đúng chỗ,
đúng chức trách.
Triều Nguyễn đã kế thừa các quy định về ký văn bản của triều Lê, đồng

thời đã đề ra một số quy định sau đây:
Văn bản trước khi đưa cho người có trách nhiệm duyệt ký để ban hành thì
20


phải cử người kiểm tra lại cẩn thận.
Văn bản tâu trình lên nhà vua, ngoài chữ ký của người đúng đầu cơ quan
hoặc cấp phó thì người thảo văn bản (phụng thảo) và người soát xét lại văn bản
(phụng khảo) đều phải ghi tên mình vào văn bản đó. Có nghĩa là 2 quan chức
này đều phải liên đới chịu trách nhiệm về nội dung văn bản tấú trình.
Về xử phạt:
Nghiêm cấm các quan chức cùng nha môn không được tùy tiện ký thay
vào văn bản, nếu vi phạm sẽ bị phạt. Hội điển chép lại rằng: “phàm những giấy
tờ việc quan đáng phải làm (tư lên, sức xuống) mà quan trọng cùng một nha phê
ngày, ký thay (viết tên, ký đóng dấu vào) thì xử phạt 60 trượng. Nếu nhân văn
án nào bỏ xót (viên quan trong cùng một nha môn có làm việc ấy) mà phê ký
thay thì phải phạt tội nặng lên một bậc. Nếu (sự tình trong văn bản ấy) có sự
thêm bớt, tha buộc tội cho người, sự tình nặng thì theo mức độ mà buộc tôi”.
Đối với các loại sổ sách như địa bạ, sổ hộ tịch, sổ lý lịch,…không chỉ
người chịu trách nhiệm lập hồ sơ ký tên, mà cả người kiểm tra và duyệt cũng
phải ký tên ở dưới. Tất cả cá nhân phải liên đới chịu trách nhiệm về những sai
sót nếu bị phát hiện.
Thứ ba: Quy định về đóng dấu văn bản, sử dụng và quản lý con dấu:
Việc quản lý con dấu được các triều đại coi trọng hơn so với chữ ký, xem
con dấu là yếu tố thông tin quan trọng nhất để đảm bảo hiệu lực pháp lý và tính
chân thực của văn bản, đặc biệt là thể hiện quyền uy của hoàng đế và của cả
vương triều. Minh Mạng rất coi trọng con dấu: “Phàm dùng ấn tín là để phòng
ngừa gian dối, ngăn cấm sự thay đổi”. Ông còn chỉ rõ mục đích, ý nghĩa của con
dấu là: “dùng bảo tỷ của nhà nước là để tỏ lệnh tin, bày lời dạy, rất trọng mà
phép rất lớn”.

Triều Lê, vua Lê Thánh Tông đã cho đúc 6 con dấu, mỗi loại dấu được sử
dụng đóng vào văn bản có nội dung khác nhau:
Ví dụ: Dấu Thuận thiên thừa vận chi bảo dùng đóng vào văn bản truyền
ngôi; dấu Đại thiên hành hóa chi bảo dùng đóng vào các văn bản liên quan đến
việc đánh dẹp; dấu Chế cáo chi bảo dùng đóng vào các văn bản chế, chiếu; dấu
21


Sắc dụ chi bảo dùng khi ra sắc dụ, hiệu lệnh thưởng phạt và các việc quan trọng;
dấu Ngự tiền chi bảo dùng đóng vào giấy tờ, sổ sách; dấu

Ngự tiền tiểu bảo

dùng đóng vào các văn bản có nội dung cơ mật.
Xử phạt:
Xử phạt rất nặng những vi phạm về thể thức đóng dấu văn bản, làm dấu
giả hoặc dùng dấu giả đóng vào văn bản. Quốc triều hình luật có tới 4 điều luật
quy đinh về các tội danh này:
+ Đóng dấu vào sổ sách công bị thiếu sót phạt 80 trượng. Nếu cố ý đóng
gian thì xử phạt nặng hơn: bị biếm chức hoặc bị tội đồ.
+ Làm giả con dấu của thái thượng hoàng, hoàng thái hậu, hoàng hậu,
hoàng thái tử và vợ hoàng thái tử thì bị tội chém hoặc xử giảo.
+ Làm giả con dấu của các nha môn, các quan đại thần, tướng súy và các
con dấu khác thì xử tội dày đi châu xa hoặc châu gần.
+ Dùng dấu giả của nhà vua, của quan đóng vào sắc mệnh, văn bằng, sổ
sách hoặc cho người khác mượn để lấy tiền hay đồ vật thì khép vào tội làm giả,
đúc giả.
Đến triều Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Minh Mạng, đã đề ra nhiều quy
định, thể lệ về con dấu và đóng dấu vào văn bản. Dưới đây là những quy định cụ
thể:

Dấu của nhà vua được làm bằng vàng hoặc bằng ngọc, gọi chung là kim
ngọc bảo tỷ. Nếu được làm bằng ngọc gọi là ngọc tỷ, nếu được làm bằng vàng
thì được gọi là kim bảo tỷ. Bảo ty là khái niệm chung chỉ con dấu của nhà vua.
Triều Nguyễn có tới hàng chục loại bảo tỷ có tên khác nhau. Mỗi loại được quy
định cụ thể về hình dáng, kích cỡ, trọng lượng, công dụng.
Vua Minh Mạng cũng quy định và xử phạt việc đóng dấu và quản lý dấu:
- Đối với các loại sổ sách đóng thành tập, phải đóng dấu kiềm vào chỗ
giáp lai. Trong văn bản, những chỗ tẩy xóa, sửa chữa, những nơi có số liệu
thống kê, quyết toán về tài chính, lương thực… đều phải đóng dấu kiềm lên
hoặc vào bên cạnh để ngăn ngừa sự tẩy xóa, sửa chữa.
Xử phạt nghiêm những trường hợp đóng sót hoặc không đóng dấu. Nếu
22


xảy ra sai sót thì cả người trực tiếp làm công tác văn thư và người quản lý công
việc này đều bị phạt. Minh Mạng quy định: “Phàm các nha môn làm giấy tờ gửi
đi nơi khác mà đóng dấu ấn sót một chỗ cần phải đóng thì lại điển, quan thủ lĩnh
soát lại và người phát đi đều phải phạt 60 trượng. Nếu không đóng ấn thì phạt 80
trượng. Nếu giấy tờ nào đóng sót hoặc không đóng ấn khiến cho việc điều bát
binh mã, cung cấp quân nhu, tiền lương cho nơi biên giới bị trở ngại thì đều bị
phạt 100 trượng”.
- Nghiêm cấm việc sử dụng dấu sai nguyên tắc như dùng ấn công đóng
vào văn bản riêng. Minh Mạng ra chỉ dụ: Phàm các quan viên lớn nhỏ ở các
doanh, trấn có viên nào đem ấn công đóng vào thư riêng thì chiếu luật vì chế trị
tội. Nếu có sự mưu cầu gì ở trong ấy thì tùy theo mức nặng nhẹ mà luận tội. Đến
thời vua Thiệu Trị lại quy định thêm: “Ai đã được cấp riêng dấu quan phòng thì
trong tập tự tâu bày mới được đem dấu quan phòng cấp riêng, thì cho phép ký
tên đè lên, không được lấy ấn công của bản nha dùng vào tập tự tâu bày của
mình”.
Minh Mạng còn quy định, nếu nội dung văn bản không phải là việc công

mà quan phụ trách bắt phải đóng dấu thì nhân viên của phòng dấu được phép
làm văn bản báo cáo lên cấp trên. Nếu nhân viên phòng dấu vị nể mà che giấu,
khi sự việc bị phát giác thì quan phụ trách đó sẽ bị kết tội là thủ phạm, nhân viên
phòng đóng dấu bị quy là tòng phạm. Nếu không có xác nhận của thủ trưởng cơ
quan mà nhân viên phòng đóng dấu tự tiện đóng dấu trộm sẽ bị xử tội nặng.
2.1.2. Cách thể hiện nội dung văn bản:
Nội dung soạn thảo trong văn bản của các triều đại cũng được coi trọng.
Các triều đại quy định:
Thứ nhất: Nội dung văn bản phải chính xác, rõ ràng. Điều đó thể hiện ở
các nội dung sau:
- Các bản tâu không được nói mập mờ, văn bản viết thẳng hàng, không
được tẩy xóa, không để sai sót. Nếu sai, sẽ bị xử phạt. Ví dụ: Triều Lê: Năm
Hồng Đức thứ 2(1471), Lê Thánh Tông trị tội viên chỉ huy sứ Phan Sư Kinh vì
tờ tâu của ông rối rắm, lằng nhằng, có ý ngạo mạn, lừa dối.
23


×