Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Quản lý các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.27 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN VIÊN

QUẢN LÝ CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH,
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 9 34 04 03

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI, 2019


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Lê Thị Vân Hạnh
2. PGS.TS. Lê Minh Quân

2. PGS.TS. Lê Minh Quân
Phản biện 1: ……………………………………………………………
……………………………….……………………………..
Phản biện 2: ……………………………………………………………
………………………………..…………………………….


Phản biện 3: ……………………………………………………………
………………………………….…………………………..

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện
Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ - Phòng họp…. Nhà …, Học viện
Hành chính Quốc gia. Số 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa Hà Nội
Thời gian: Vào hồi ……… giờ ….. ngày … tháng …. năm ………

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam hoặc thư viện của
Học viện Hành chính Quốc gia.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trường chính trị là một loại hình cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức của Việt Nam. Việc chọn đề tài “Quản lý các trường
chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam hiện nay”
xuất phát từ các lý do sau:
Một là, trường chính trị là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh
ủy/thành ủy. Nhà nước là chủ thể quản lý xã hội, bản thân trường
chính trị thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
nên nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ hơn để bảo đảm chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức.
Hai là, trường chính trị có vị trí, vai trò quan trọng trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa phương. Phẩm chất và năng
lực làm việc của đội ngũ này như thế nào là phụ thuộc rất lớn vào
chất lượng hoạt động của các trường chính trị.
Ba là, công tác quản lý các trường chính trị hiện nay còn nhiều
bất cập, chồng chéo, chưa hiệu lực, hiệu quả. Trường chính trị có quá
trình chia tách, sáp nhập thiếu ổn định; là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức của địa phương nhưng trực thuộc tỉnh uỷ/thành uỷ
nên việc quản lý các trường chính trị cũng phức tạp.
Bốn là, cơ sở lý luận cho việc quản lý các trường chính trị còn
rất hạn chế. Hiện chưa có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về
trường chính trị, nhất là tiếp cận từ góc độ khoa học quản lý.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
ở các trường chính trị thì phải thực hiện nhiều giải pháp, trong đó cần
quan tâm đến công tác quản lý nhà nước đối với các trường chính trị.
Chính vì thế tác giả chọn vấn đề “Quản lý các trường chính trị
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản
lý đối với các trường chính trị, luận án đề xuất một số quan điểm và
giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với các
trường chính trị.
- Nhiệm vụ: Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án để xác định những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu,
giải quyết. Nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn làm cơ sở khoa học cho
luận án. Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong
quản lý các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số
quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với các
trường chính trị trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý nhà nước đối với
các trường chính trị.
- Phạm vi nghiên cứu là 63 trường chính trị trên lãnh thổ Việt

Nam từ năm 2008 đến nay tầm nhìn cho những năm tiếp theo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Về nghiên cứu lý thuyết có phương
pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và lịch sử; về nghiên cứu
thực tiễn có phương pháp quan sát thực tế, chuyên gia, khái quát hóa,
trừu tượng hóa.
5. Giả thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu
5.1. Giả thuyết khoa học
Trường chính trị có vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc
nâng cao năng lực và đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức địa
phương nhưng chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trường còn
thấp. Điều đó là do công tác quản lý nhà nước đối với trường chính
2


trị chưa được chú trọng, còn buông lỏng, chồng chéo giữa các cơ
quan quản lý; công cụ và phương pháp quản lý còn yếu và thiếu. Nếu
việc quản lý đối với các trường chính trị có hiệu lực, hiệu quả thì sẽ
nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
của các trường chính trị.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Trường chính trị là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức đặc thù của Việt Nam, tính đặc thù thể hiện ở những điểm nào?
- Vì sao nhà nước phải quản lý các trường chính trị và quản lý
những nội dung gì?
- Có thể vận dụng những kinh nghiệm nào của một số quốc gia
về quản lý cơ sở đào tạo công chức vào việc quản lý các trường
chính trị của Việt Nam?

- Thực trạng quản lý các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay
như thế nào? Đang đặt ra những vấn đề gì đặt ra cần giải quyết?
- Cần thực hiện những quan điểm và giải pháp nào để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với các trường chính trị?
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
- Cung cấp cơ sở lý luận về cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức.
- Xây dựng được khung lý thuyết về quản lý các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Đóng góp được một số giá trị tham khảo trong việc quản lý
các trường chính trị ở Việt Nam qua việc khái quát kinh nghiệm
quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của một số
nước trên thế giới.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Cung cấp một bức tranh toàn cảnh về thực trạng quản lý các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
3


- Cung cấp những quan điểm và giải pháp nhằm quản lý nhà
nước có hiệu lực, hiệu quả đối với các trường chính trị ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Về khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện
cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức nói chung và trường chính trị nói riêng.
7.2. Về thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo trong
việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước liên

quan đến hoạt động của trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và thời
gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với
một số cơ quan trung ương hoặc địa phương trong việc chỉ đạo, điều
hành trường chính trị.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy về quản lý công, chính sách công, hành chính
công, v.v..
8. Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu
tham khảo, luận án được cấu trúc với 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình liên quan đến đề tài
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham khảo và đánh giá các
công trình có liên quan, theo thứ tự từ xa đến gần. Theo đó, tác giả
đánh giá 3 nhóm công trình, đó là: Các công trình nghiên cứu về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; các công trình nghiên cứu về
trường chính trị; các công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối
với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
4


1.2. Đánh giá về các công trình đã nghiên cứu có liên quan
đến đề tài
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, luận án đánh giá các kết
quả đạt được, chỉ ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu:
Một là, hiện chưa có một khái niệm hoàn chỉnh mang tính học
thuật về cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Về khái niệm
quản lý các trường chính trị hoặc quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức thì chưa có công trình nào đề cập.
Hai là, chưa có công trình nào chỉ ra được nội dung quản lý
đối với các trường chính trị.
Ba là, cũng là trường học, nhưng việc quản lý đối với các
trường chính trị hoàn toàn khác với việc quản lý các trường học của
hệ thống giáo dục quốc dân.
Bốn là, chưa có công trình nào nghiên cứu về tiêu chí đánh giá
chất lượng của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Năm là, chưa có công trình nào tổng kết thực tiễn quản lý các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các nước để rút ra
bài học cho việc quản lý các trường chính trị của Việt Nam.
Sáu là, các văn bản, báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền
chưa chỉ ra được những vấn đề tồn tại, đặt ra trong việc quản lý các
trường chính trị hiện nay.
Bảy là, chưa có công trình nào đề cập đến quan điểm, giải
pháp, biện pháp để quản lý các trường chính trị.
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu về quản lý các trường chính trị gần như chưa có
công trình. Ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về trường
chính trị nhưng nội dung tiếp cận vẫn chưa đề cập đến việc quản lý
đối với các trường này, mà chủ yếu là về đội ngũ giảng viên, về mô
hình nhà trường. Dù vậy, cũng cung cấp cho tác giả một số nội dung
có thể kế thừa. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên
5


cứu. Những “khoảng trống” đó đặt ra các vấn đề khoa học mà đối
tượng nghiên cứu của luận án hướng tới góp phần giải quyết.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO, BỒI

DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
2.1. Một số vấn đề chung về cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
2.1.1. Khái niệm cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một đơn vị sự
nghiệp được thành lập để tổ chức các hoạt động dạy và học cho đội
ngũ những người được bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc
trong hệ thống chính trị của một quốc gia (được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước), nhằm nâng cao năng lực thực thi và đạo đức công vụ
của đội ngũ này.

2.1.2. Đặc điểm của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Là đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức.
- Có quá trình hoạt động đặc biệt.
- Tạo ra sản phẩm dịch vụ đặc biệt.
- Hoạt động không vì tìm kiếm lợi nhuận.
- Chỉ cung cấp sản phẩm dịch vụ cho nhà nước, không cung
cấp cho xã hội.

2.1.3. Vai trò của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Thể hiện vai trò của nhà nước đối với hoạt động tạo nguồn
nhân lực công.
- Cung cấp kiến thức chuyên sâu và đào tạo kỹ năng về lãnh
đạo, quản lý, thực thi công vụ.
- Là nơi giáo dục, rèn luyện đạo đức công vụ.
2.1.4. Phân loại cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
6



- Phân loại theo hệ thống chính trị có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức của tổ chức chính trị, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức của nhà nước, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của tổ chức chính trị - xã hội.
- Phân loại theo lãnh thổ có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức trung ương (liên bang) và cơ sở vùng (khu vực) hoặc địa
phương.
- Phân loại theo lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng có cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức chung và cơ sở chuyên môn.
- Phân loại theo đối tượng đào tạo, bồi dưỡng có cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức thuần và cơ sở kết hợp.
2.2. Quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.2.1. Khái niệm quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là
việc chủ thể quản lý sử dụng quyền lực nhà nước với công cụ và hình
thức phù hợp để tác động đến các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức nhằm đạt mục tiêu trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức.
2.2.2. Sự cần thiết quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
- Thực hiện vai trò chủ thể quản lý của nhà nước.
- Đảm bảo mục tiêu, yêu cầu về nguồn nhân lực cho bộ máy
nhà nước.
- Định hướng và thúc đẩy hoạt động của nền hành chính.
2.2.3. Nội dung quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
- Định hướng hoạt động của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Đó là quy định điều kiện thành lập, giải thể, chia,
7



tách, sáp nhập; quy hoạch mạng lưới các trường; mục tiêu; công
nhận và sử dụng kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Hỗ trợ hoạt động của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức. Đó là xây dựng nội dung chương trình; xây dựng bộ máy;
dựng đội ngũ nhân sự; cung cấp tài chính và cơ sở vật chất.
- Kiểm soát hoạt động của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Đó là đánh giá chất lượng; thanh tra, kiểm toán.
2.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Chiến lược về cán bộ, công chức.
- Mức độ hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý có liên quan.
- Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Phẩm chất, năng lực người đứng đầu cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức.
- Văn hóa tổ chức của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin.
2.3. Kinh nghiệm quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức của một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham
khảo đối với Việt Nam
2.3.1. Kinh nghiệm quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức của một số quốc gia trên thế giới
- Anh: Cơ sở đào tạo công chức rất đa dạng, bao gồm cơ sở
đào tạo công chức trực thuộc chính phủ, cơ sở đào tạo công chức
chuyên nghiệp và cơ sở đào tạo công chức ở các trường đại học.
Chính phủ Anh áp dụng cơ chế thị trường, thúc đẩy cạnh tranh để
quản lý các cơ sở đào tạo công chức. Chính phủ Anh không đầu tư

phát triển giảng viên cơ hữu, mà thực hiện giảng viên kiêm chức và
8


thỉnh giảng. Nội dung đào tạo công chức thường xuyên đổi mới, dựa
yêu cầu thực tiễn của xã hội.
- Hoa Kỳ: Cơ sở đào tạo công chức rất đa dạng, có cơ sở thuộc
Chính phủ do Bộ quản lý, có cơ sở thuộc trường đại học. Đội ngũ
giảng viên là các giáo sư, học giả tại các trường đại học, viện nghiên
cứu và các chuyên gia, cố vấn, công chức cao cấp trong chính phủ.
- Lào: Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Lào
do Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào, 18 trường chính
trị và hành chính tỉnh, thủ đô đảm nhận. Ngoài 19 cơ sở này, không
còn cơ sở nào khác có chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức.
Việc xây dựng các chương trình và biên soạn giáo trình, tài
liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đều do Học viện Chính trị
và Hành chính Quốc gia Lào thực hiện, nhưng việc ban hành, quản lý
lại thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo dục và Thể thao, do Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Thể thao ký quyết định.
Đào tạo là hình thức nâng cao chuyên môn cho cán bộ, công
chức; bồi dưỡng là giáo dục nâng cao kiến thức, khả năng và quan
điểm nhằm củng cố thực hiện nhiệm vụ công tác có hiệu quả cao.
Bồi dưỡng cán bộ, công chức gồm có: Bồi dưỡng định hướng, Bồi
dưỡng tại chức, Bồi dưỡng công chức nhận chức vụ mới.
- Nhật Bản: Bên cạnh các cơ sở đào tạo của chính phủ, ở các
đơn vị hành chính cấp tỉnh đều có cơ sở đào tạo riêng. Các cơ sở đào
tạo công chức của Nhật Bản được quyền chủ động trong việc thiết kế
và xây dựng các chương trình đào tạo cụ thể cũng như các chương
trình linh hoạt khác nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể của từng loại

đối tượng công chức. Đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng công chức của Nhật Bản là các chuyên gia, học giả, nhà khoa
học và một số công chức nhiều kinh nghiệm của Chính phủ.
9


- Pháp: Công tác đào tạo công chức của Pháp được thực hiện
tại các cơ sở đào tạo công chức ở Pháp, như: Trường Hành chính
quốc gia (ENA); Trường Hành chính khu vực (IRA); Trung tâm đào
tạo công chức địa phương (CNFPT); Trung tâm quốc gia về đào tạo
chuyên môn, nghiệp vụ (CNAC); Trung tâm đào tạo kinh tế; Trung
tâm đào tạo giáo dục; Trường đào tạo công chức của các bộ và các
Trung tâm đào tạo tư nhân. Trường Hành chính quốc gia không có
đội ngũ giáo viên biên chế, mà chỉ có mạng lưới các giáo viên kiêm
giảng, cộng tác viên ở các bộ, địa phương, tư nhân.
- Trung Quốc: Cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất là Ban Tổ
chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó là các đơn vị
liên quan của Ủy ban Trung ương và cơ quan nhà nước ở trung ương
và địa phương. Các tổ chức đào tạo cao học, nghiên cứu khoa học,
các trung tâm đào tạo vì mục tiêu lợi nhuận cũng tham gia vào công
tác đào tạo cán bộ, công chức. Đội ngũ giảng viên chuyên trách
chiếm tỷ lệ lớn (khoảng 80%), giảng viên kiêm chức khoảng 20%
tổng số giảng viên. Các cơ sở đào tạo cán bộ, công chức Trung Quốc
định hướng vào năng lực thay vì định hướng lý thuyết. Các nội dung
đào tạo sẽ được kết nối chặt chẽ hơn với thực tiễn và vị trí làm việc.
2.3.2. Giá trị tham khảo đối với Việt Nam
- Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được tổ
chức thành hệ thống từ trung ương đến các địa phương.
- Thành lập cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo
khu vực địa lý, dân cư, không nhất thiết thành lập cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ hoặc tổ
chức bộ máy nhà nước (bộ, cơ quan trung ương).
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức rất đa
dạng, phong phú để phù hợp với nhiều loại cán bộ, công chức.
- Không nhất thiết xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu hùng
hậu, mà nên thực hiện giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng.
10


- Áp dụng cơ chế thị trường đối với việc quản lý các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Tiểu kết chương 2
Chương này đã xây dựng được khái niệm cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, khái quát và nêu được vai trò, phân loại cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; xây dựng được khái niệm
quản lý các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, lý giải sự
cần thiết và nội dung quản lý nhà nước đối với các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức; trên cơ sở tham khảo cách quản lý của một
số nước trên thế giới đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, đưa ra được một số gợi ý để Việt Nam tham khảo.
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Tổng quan về trường chính trị - một loại hình cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đặc thù của Việt Nam
3.1.1. Trường chính trị trong hệ thống cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức của Việt Nam
Ở Việt Nam, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức rất
đa dạng, phong phú với tên gọi và loại hình rất khác nhau như học
viện, trường, trung tâm.

Trường chính trị là một loại hình cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức ở địa phương, được thành lập bởi cơ quan có thẩm
quyền của Đảng.
3.1.2. Sự ra đời và cơ sở chính trị, pháp lý của các trường
chính trị
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, để xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc của cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ, sau khi tổ chức bộ máy chính quyền đi
vào hoạt động, công tác huấn luyện cán bộ ở các tỉnh cũng được triển
11


khai. Từ nhu cầu về cán bộ, một số cơ sở đào tạo cán bộ của Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập ở một số địa phương, gọi là
trường đảng, đây chính là tiền thân trường chính trị ngày nay.
Do hoạt động quản lý nhà nước có những đặc thù riêng, nội
dung và phương pháp cũng khác công tác xây dựng đảng. Trong khi
đó, đội ngũ cán bộ chính quyền rất yếu về năng lực quản lý hành
chính, đặc biệt là những năm đầu mới thành lập chính quyền. Vì thế
trường hành chính ra đời.
Ngày 5/9/1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quyết
định số 88-QĐ/TW về việc “thành lập trường chính trị cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương”.
Ngày 03/9/2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành
Quyết định số 184-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Ngày 13/11/2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quy
định số 09-QĐi/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Ngày 30/12/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số

125/2011/NĐ-CP quy định về trường của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân. Đây
là văn bản pháp lý đầu tiên về cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, trong đó có trường chính trị.
3.1.3. Tính đặc thù của trường chính trị so với các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Trường chính trị là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở mỗi tỉnh/thành phố.
- Trường chính trị là đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện
nhiệm vụ chính trị.
- Trường chính trị là trường học trực thuộc tỉnh uỷ/thành uỷ.
12


- Trường chính trị thực hiện đồng thời đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị và quản lý nhà nước.
- Trường chính trị chỉ đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ,
công chức.
- Trường chính trị có nhiều chủ thể tham gia quản lý.
3.1.4. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các
trường chính trị
- Chức năng: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức, viên
chức ở địa phương.
- Nhiệm vụ:
Tổ chức giảng dạy, học tập; cấp văn bằng, chứng chỉ theo quy
định; nghiên cứu khoa học; tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển
lý luận làm cơ sở khoa học phục vụ công tác hoạch định đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước; tham gia giải quyết những vấn
đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương và đất

nước; thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định
của pháp luật; các nhiệm vụ và quyền hạn khác [Nghị định số
125/2011/NĐ-CP].
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính
quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn
và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp huyện và tương
đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, các đoàn thể chính trị
- xã hội cấp tỉnh và tương đương; cán bộ được quy hoạch vào các
chức danh trên; cán bộ, công chức, viên chức cấp cơ sở và một số đối
tượng khác về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
kiến thức về một số lĩnh vực khác [Quy định số 09-QĐi/TW].
13


- Cơ cấu tổ chức:
Trường chính trị gồm Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng (hoặc
giám đốc, các phó giám đốc) và các bộ phận chức năng, bao gồm:
các khoa, các bộ môn chuyên môn; các phòng, ban tham mưu, các
viện, các trung tâm; các đơn vị phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học
[Nghị định số 125/2011/NĐ-CP].
Trường chính trị có 05 khoa, phòng: Khoa Lý luận cơ sở;
Khoa Xây dựng Đảng; Khoa Nhà nước và pháp luật; Phòng Quản lý
đào tạo và nghiên cứu khoa học; Phòng Tổ chức, hành chính, thông
tin, tư liệu [Quy định số 09-QĐi/TW].
3.1.5. Một số kết quả hoạt động của các trường chính trị
- Về đào tạo, các trường mở nhiều loại lớp đào tạo, bồi dưỡng
nhưng chủ yếu là các lớp đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành
chính. Từ năm 2009 đến nay, riêng chương trình trung cấp lý luận

chính trị - hành chính đã mở được trên 16.000 lớp (chiếm hơn 40%
tổng số lớp đào tạo, bồi dưỡng của các trường).
- Về nghiên cứu khoa học, từ năm 2009 đến nay, các trường đã
nghiên cứu, nghiệm thu và đưa vào ứng dụng trong thực tế 1.270 đề
tài nghiên cứu khoa học. Các trường đã tổ chức được 1.011 cuộc hội
thảo. Có 61/63 trường đã xuất bản bản tin, nội san định kỳ, 01 trường
xuất bản được tạp chí. Có 54/63 trường đã xây dựng được trang
thông tin điện tử.
3.2. Tình hình quản lý các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay

3.2.1. Định hướng đối với hoạt động của các trường chính trị
- Về thành lập, giải thể, chia tách, sáp nhập trường chính trị,
quy hoạch mạng lưới trường chính trị, là đơn vị sự nghiệp nhưng
việc thành lập, giải thể trường chính trị không theo chịu sự điều
chỉnh của Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 về thành
lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập.
14


- Về quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
trường chính trị, không áp dụng Nghị định số 125/2011/NĐ-CP.
- Về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, do cơ
quan quản lý chương trình xây dựng mục tiêu.
- Về công nhận và sử dụng kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, chủ yếu thông qua việc thừa nhận qua văn bằng, chứng
chỉ mà trường chính trị cấp cho người học.
3.2.2. Hỗ trợ đối với hoạt động của các trường chính trị
- Về chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng:
Trường chính trị thực hiện các chương trình: Trung cấp lý luận

chính trị - hành chính; bồi dưỡng lãnh đạo cấp phòng và tương
đương; bồi dưỡng ngạch cán sự và tương đương; ngạch chuyên viên
và tương đương; ngạch chuyên viên chính và tương đương; bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã,
cấp huyện; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ thuộc diện ban
thường vụ huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh và tương
đương quản lý (đối tượng 4); bồi dưỡng bí thư, phó bí thư đảng ủy xã
và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội ở xã đồng bằng; đào
tạo, bồi dưỡng chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch,
phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
Về quản lý các chương trình mà trường chính trị thực hiện, do
Bộ Nội vụ và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh quản lý.
Về biên soạn tài liệu đào tạo, bồi dưỡng. Cơ quan nào quản lý
chương trình thì cơ quan đó thẩm định tài liệu, còn việc biên soạn tài
liệu được phân cấp cho các trường chính trị. Tuy nhiên, trong thực tế
việc biên soạn tài liệu do cơ quan quản lý chương trình tiến hành.
- Việc xây dựng tổ chức bộ máy:
+ Về tên gọi của trường: Có 60 trường gọi là trường chính trị;
02 trường gọi là trường đào tạo cán bộ; 01 trường gọi là học viện.
15


+ Về bộ máy: Có 53 trường tổ chức theo quy định mới; 9
trường tổ chức theo quy định cũ; 01 trường tổ chức đặc thù.
Việc tổ chức bộ máy của các trường chưa đúng theo quy định
là do Quy định số 09-QĐi/TW mới được ban hành thay thế cho
Quyết định số 184-QĐ/TW; cấp uỷ và chính quyền các địa phương
chưa thực sự quan tâm; do lịch sử, đặc điểm của mỗi trường khác
nhau; cơ quan quản lý không kiên quyết xử lý.
- Việc xây dựng đội ngũ nhân sự của các trường chính trị.

+ Đội ngũ lãnh đạo trường bao gồm hiệu trưởng (giám đốc) và
phó hiệu trưởng (phó giám đốc), có 59 trường gọi đội ngũ lãnh đạo
trường là ban giám hiệu; có 04 trường gọi là ban giám đốc.
Tổng số đội ngũ lãnh đạo của 63 trường là 239 người, trong đó
có 01 phó giáo sư (chiếm 0,42%); 30 tiến sĩ (chiếm 12,55%); 160
thạc sĩ (chiếm 66,95); 49 cử nhân (chiếm 20,5%).
Trong tổng số 63 người đứng đầu trường chính trị, có 14
người là nữ giới (chiếm 22,22%); có 36 người tham gia cấp ủy cấp
tỉnh (chiếm 57,14%); có 08 người là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh (chiếm 12,7%); có 05 người là Nhà giáo ưu tú (chiếm 7,94%).
+ Đội ngũ giảng viên của 63 trường chính trị là 2.162 người,
trong đó giảng viên nam là 1.013 người (46,85%), giảng viên nữ là
1.149 người (53,15%).
Về trình độ chuyên môn, 81 người có trình độ tiến sĩ (3,75%);
1.526 người có trình độ thạc sĩ (70,58%), đó là chưa tính giảng viên
đang theo học cao học và nghiên cứu sinh.
Về trình độ lý luận chính trị, 100% giảng viên của trường
chính trị có trình độ lý luận chính trị, trình độ trung cấp lý luận chính
trị là 667 người (30,85%), cao cấp là 1.283 người (59,34%), cử nhân
chính trị là 212 người (9,81%).
Về trình độ quản lý nhà nước, 100% giảng viên của trường
chính trị có trình độ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên trở lên,
16


trong đó trình độ chuyên viên là 1.533 người (70,91%), chuyên viên
chính là 573 người (26,5%), chuyên viên cao cấp là 56 người
(2,59%).
Về tiêu chuẩn giảng viên, cơ quan quản lý nhà nước đã có
nhiều quy định về các tiêu chuẩn giảng viên trường chính trị. Trước

năm 2011, các tiêu chuẩn do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh quy định nhưng từ năm 2011, Bộ Nội vụ chính thức có văn bản
quy định tiêu chuẩn giảng viên trường chính trị.
Về chế độ giảng viên trường chính trị, được hưởng các chế độ
về tiền lương, phụ cấp; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến
thức và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; nghỉ ngơi; vinh danh.
Tuy nhiên khi áp dụng trong thực tiễn, nhiều quyền lợi của giảng
viên không được bảo đảm hoặc khó thực hiện. Chẳng hạn việc phong
danh hiệu Nhà giáo ưu tú, danh hiệu phó giáo sư, giáo sư; việc kéo
dài thời gian công tác đối với giảng viên có trình độ tiến sĩ.
Về quản lý giảng viên, do tỉnh uỷ/thành uỷ quản lý (cơ quan
tham mưu là Ban tổ chức tỉnh uỷ/thành uỷ).
- Việc cung cấp tài chính và xây dựng cơ sở vật chất.
Những năm gần đây, các trường đã được cơ quan chủ quản
quan tâm nhiều hơn, thiết thực hơn nên cơ sở vật chất - kỹ thuật từng
bước được cải thiện theo hướng hiện đại, không chỉ làm thay đổi bộ
mặt của trường chính trị, mà quan trọng hơn là nó đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội văn minh trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cho hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. Tuy nhiên so
với yêu cầu vẫn chưa được như mong muốn và chưa ngang tầm với
vị trí, vai trò của trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của
Chính phủ, giao cơ chế tự chủ việc quản lý tài chính và cơ sở vật
chất cho các trường chính trị. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa thực hiện
tự chủ 100%, mà chỉ tự chủ một phần.
17


3.2.3. Kiểm soát đối với hoạt động của các trường chính trị
- Đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

của các trường chính trị.
Chính phủ đã ban hành các tiêu chí, chỉ báo, chỉ số để đánh giá
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc đánh giá
thông qua lấy ý kiến của học viên; đối với việc đánh giá hiệu quả sau
đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức lấy ý kiến từ 06 tháng trở lên sau
khi khóa bồi dưỡng kết thúc bằng cách gửi phiếu qua đường công
văn, thư điện tử đến học viên và cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ,
công chức hoặc phỏng vấn trực tiếp đối tượng lấy ý kiến.
Nội dung đánh giá bao gồm: Đánh giá chất lượng chương
trình; Đánh giá chất lượng học viên tham gia khóa học; Đánh giá
chất lượng đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy; Đánh giá chất
lượng cơ sở vật chất phục vụ khóa học; Đánh giá chất lượng khóa
học; Đánh giá hiệu quả sau đào tạo, bồi dưỡng.
Hoạt động đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức lần đầu tiên được đề cập năm 2014, nhưng đến năm 2017,
hoạt động này mới chính thức được thể chế hóa thành quy phạm
pháp luật trong Thông tư số 10/2017/TT-BNV ngày 29/12/2017 của
Bộ Nội vụ quy định về đánh giá chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức. Hoạt động này còn khá mới mẻ, nên trên thực tế
chưa tạo thành nền nếp ở các trường chính trị.
- Thanh tra, kiểm tra hoạt động của các trường chính trị.
+ Thanh tra, kiểm tra mang tính quyền lực nhà nước. Nhà
nước còn sử dụng công cụ kiểm toán nhà nước đối với hoạt động tài
chính của các trường chính trị. Tuy nhiên thời gian qua chưa được
tiến hành thường xuyên và kết quả cũng không cao.
+ Thanh tra, kiểm tra không mang tính quyền lực nhà nước.
Đó là kiểm tra của Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy/thành ủy và kiểm tra của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
18



Qua việc thanh tra, kiểm tra đã phát hiện và xử lý nhiều sai
phạm ở các trường chính trị, chủ yếu là những sai phạm về tài chính.
Tuy vậy, thanh tra, kiểm tra trường chính trị vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa chủ động tiến hành thanh tra, kiểm tra; thường tiến hành thanh
tra, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm hoặc có đơn thư phản ánh. Điều
này chỉ nhằm xử lý khi có vi phạm, không nhằm ngăn chặn vi phạm.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay

3.3.1. Kết quả quản lý các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay
Các chủ thể có thẩm quyền quản lý đã nhận thức rõ hơn về vị
trí, vai trò và tầm quan trọng của các trường chính trị. Các văn bản
làm cơ sở cho trường chính trị hoạt động đang ngày càng đầy đủ hơn
và chặt chẽ hơn. Chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị được
thể hiện rõ ràng, cụ thể hơn. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức tương đối phong phú, đáp ứng đa dạng đối tượng theo vị
trí việc làm của cán bộ, công chức. Đội ngũ nhân sự, giảng viên của
hệ thống trường chính trị có chất lượng chuyên môn, bản lĩnh chính
trị và năng lực công tác. Cơ sở vật chất của các trường chính trị được
quan tâm đầu tư theo hướng hiện đại và tiện ích, phục vụ tối đa nhu
cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc quản lý các trường
chính trị ở Việt Nam hiện nay
- Quy định của pháp luật về các trường chính trị chưa hoàn
thiện và còn mâu thuẫn với quy định của Đảng.
- Cơ quan quản lý nhà nước đối với các trường chính trị chưa
xác định.
- Quản lý giảng viên của các trường chính trị còn bất cập.
- Đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

của trường chính trị chưa được chú trọng.
19


- Thanh tra, kiểm tra hoạt động của trường chính trị chưa được
tăng cường.
Tiểu kết chương 3
Trường chính trị là đơn vị sự nghiệp công lập nhưng việc
thành lập và hoạt động không chịu sự điều chỉnh của Chính phủ quy
định trong văn bản về đơn vị sự nghiệp công lập, mà do Ban Bí thư
Trung ương Đảng quy định. Sự quản lý các trường chính trị, ngoài
cơ quan của Chính phủ còn có sự tham gia cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Việc quản lý các trường chính trị ngày càng được các
cơ quan chú trọng. Tuy nhiên, do tính đặc thù nên hiệu lực, hiệu quả
quản lý vẫn còn hạn chế. Trong việc quản lý các trường chính trị,
còn nhiều vấn đề đang đặt ra cần giải quyết.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm tăng cường quản lý các trường chính trị
- Phải trên cơ sở pháp lý.
- Phải đảm bảo tính hệ thống, thống nhất chặt chẽ.
- Phải kết hợp thực hiện cải cách hành chính.
- Phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng.
4.2. Giải pháp quản lý các trường chính trị
4.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến trường
chính trị
- Ban hành nghị định về trường chính trị.
- Văn bản quy định tiêu chuẩn, chế độ làm việc, chính sách
của giảng viên cần cụ thể hoá, bổ sung một số nội dung.

- Cần thống nhất những nội dung còn mâu thuẫn giữa quy định
của Đảng và quy định của Nhà nước liên quan đến trường chính trị.
4.2.2. Đổi mới mô hình tổ chức trường chính trị
20


- Tổ chức lại các trường chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt
động hiệu quả.
Đối với 05 thành phố trực thuộc trung ương, do số lượng dân
cư đông, có nhiều cơ quan đóng trên địa bàn nên mỗi thành phố sẽ có
01 trường chính trị. Còn 58 tỉnh, không nhất thiết tỉnh nào cũng phải
có 01 trường chính trị. Tỉnh nào không có trường chính trị sẽ đi đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh bạn hoặc ở các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ, ngành, cơ quan, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương.
Trường hợp mỗi tỉnh/thành phố có 01 trường chính trị như
hiện nay, nên thực hiện việc sáp nhập các trung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện vào trường chính trị, chuyển nhiệm vụ tuyên truyền của
trung tâm cho ban tuyên giáo tỉnh ủy/thành ủy, chuyển nhiệm vụ bồi
dưỡng của trung tâm cho trường chính trị. Một số tỉnh/thành phố có
diện tích lớn, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn thì có thể thành
lập cơ sở đặt tại huyện.
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường
chính trị.
Nên đặt tên trường chính trị là trường công vụ tỉnh/thành phố
để gợi mở về việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ “công bộc”.
Trung ương nên quy định khung về tổ chức bộ máy của trường
chính trị, trên cơ sở đó, các trường sẽ cụ thể hoá tổ chức bộ máy của
mình cho phù hợp với thực tiễn địa phương. Các trường chính trị có
thể có số lượng và tên gọi khoa, phòng khác nhau nhưng phải đảm

bảo chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Nên mở rộng chức năng đào tạo, bồi dưỡng của các trường
chính trị. Đối với trường có đủ năng lực, đáp ứng được yêu cầu, có
thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng các chương trình giáo dục quốc dân.
- Thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
theo cơ chế đặt hàng. Nguồn ngân sách của địa phương dành cho đào
21


tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sẽ không chuyển về trường chính
trị như hiện nay, mà chuyển về cơ quan, tổ chức cử cán bộ, công
chức đi đào tạo, bồi dưỡng để đặt hàng đối với trường chính trị.
- Xã hội hóa hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
trong khu vực công. Không cho phép khu vực tư tham gia đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nhưng cho phép một số cơ sở giáo dục
đại học công lập tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
4.2.3. Thay đổi phương thức quản lý đối với đội ngũ giảng
viên trường chính trị
Đội ngũ giảng viên là yếu tố quan trọng mang tính quyết định
của quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa phương.
Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị không chỉ góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của trường chính trị, mà còn khai
thác năng lực làm việc của giảng viên. Cần thay đổi cách quản lý
theo hướng sau: trường chính trị được tự chủ trong việc tuyển dụng
giảng viên; thực chất trong công tác đánh giá giảng viên; tạo động
lực làm việc cho giảng viên; sử dụng yếu tố của cơ chế thị trường
trong quản lý giảng viên; quản lý tốt đội ngũ giảng viên thỉnh giảng.
4.2.4. Quản lý theo chuẩn đầu ra đối với hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đánh giá theo chuẩn đầu ra là đánh giá kết quả đầu ra của quá

trình học tập hướng đến năng lực làm việc với những tiêu chuẩn cần
đạt được trên cơ sở sử dụng những nguồn lực đầu vào hợp lý và có
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của cơ quan cử người đi học. Để
đánh giá theo chuẩn đầu ra, cần: Xây dựng được chuẩn đầu ra; kiểm
soát quá trình đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá kết quả đào tạo, bồi
dưỡng; ghi nhận kết quả đào tạo, bồi dưỡng.
4.2.5. Xây dựng và thực hiện tiêu chí đánh giá chất lượng
trường chính trị
22


Việc đánh giá, thẩm định, xếp loại trường chính trị có thể là cơ
quan của Nhà nước; có thể là tổ chức phi chính phủ, hoạt động độc
lập, cung cấp kết quả cho cơ quan có thẩm quyền quản lý. Cần sự
phối hợp chặt chẽ giữa trường chính trị và cơ quan cử người đi học.
Xây dựng và thực hiện tiêu chí đánh giá chất lượng trường
chính trị sẽ sẽ buộc mỗi trường phải đầu tư các nguồn lực, đổi mới
hoạt động, xây dựng môi trường làm việc để đáp ứng tiêu chuẩn. Các
tiêu chí là: Triết lý đào tạo; tổ chức hoạt động; thông tin hoạt động;
đội ngũ nhân sự; tài chính, cơ sở vật chất và trang thiết bị; đối tượng
đào tạo, bồi dưỡng; nội dung chương trình, tài liệu đào tạo, bồi
dưỡng; quản lý đào tạo, bồi dưỡng; quản lý học viên; chuẩn đầu ra
sau đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và
chuyển giao công nghệ; hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng,
nghiên cứu khoa học.
4.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt
động của các trường chính trị
Các cơ quan chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, thực hiện
đầy đủ, kịp thời cơ chế hậu kiểm; kiểm tra tiến độ đầu tư theo các
cam kết trong dự án đầu tư đã được phê duyệt.

Cần có sự minh bạch trong việc sử dụng nguồn lực tài chính,
việc trích nộp khấu hao, tính toán chi phí và việc phân chia thu nhập
tăng thêm. Lĩnh vực này không thể hoàn toàn hoặc hầu như khoán
trắng. Chống việc tuyển sinh tùy tiện, móc ngoặc với cơ quan quản
lý chuyên ngành (nhất là việc kiểm định chất lượng, trong điều kiện
hiện nay chưa có đơn vị đủ tầm chuyên sâu; chưa có đơn vị kiểm
định độc lập), v.v.. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thường
xuyên và đột xuất hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của các trường chính
trị, cụ thể: Thanh tra, kiểm tra công tác tuyển chọn giảng viên, bổ
nhiệm cán bộ, việc sử dụng tài chính, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng,
nghiên cứu khoa học, v.v..
23


×