Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích bài thơ Chiều tối(Mộ) của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.62 KB, 4 trang )

CHIỀU TỐI (MỘ)
-

Hồ Chí Minh –

I.Tìm hiểu chung
1.Tác giả
- Hồ Chí Minh (1890 - 1969)
- Quê: Nam Đàn - Nghệ An.
- Gia đình: Nhà nho yêu nước.
- Bản thân: Thông minh, yêu nước và thương dân sâu sắc.
- Sự nghiệp văn học: Phong phú, đặc sắc.
2.Tác phẩm
a. Tập thơ “Nhật kí trong tù”
Hoàn cảnh ra đời tập thơ “Nhật kí trong tù”
+ Là tập nhật kí viết bằng thơ, được Bác sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch
bắt giam vô cớ từ mùa thu năm 1942 – 1943 tại tỉnh Quảng Tây.
+ Tập thơ gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán ghi trong một cuốn sổ tay lấy tên là “Ngục trung nhật kí”.
Năm 1960, tập thơ được dịch ra tiếng Việt và có tên là “Nhật kí trong tù”.
b. Bài thơ “Chiều tối”
- Vị trí: Bài thứ 31 của tập thơ “Nhật kí trong tù”
- Hoàn cảnh sáng tác: Trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối
thu năm 1942.
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Hai câu đầu : Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tối qua cảm nhận của nhà thơ
- Không gian: Rộng lớn, thinh vắng → làm nổi bật sự lẻ loi, cô đơn của con người, cảnh vật
- Thời gian: Chiều tối – thời khắc cuối cùng của một ngày→ mỏi mệt, cần được nghỉ ngơi
- Điểm nhìn: Từ dưới lên cao → phong thái ung dung, lạc quan của tác giả.
- Cảnh vật: Sự xuất hiện của hai hình ảnh:
+ Chim mỏi: Biểu tượng cho buổi chiều tà → cảm nhận từ trạng thái bên trong của sự vật.
+ Chòm mây: Cô đơn, đang trôi chầm chậm giữa bầu trời bao la.


- Vẻ đẹp của bức tranh:
+ Giống trong thơ ca cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong hai câu đầu đã được phác
họa bằng những nét chấm phá ( chỉ gợi ra một vài nét, cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật ).
+ Hình ảnh cánh chim bay về tổ là nét vẽ phác họa không gian rừng núi và gợi ý niệm thời gian,
tượng trưng cho buổi chiều :
+ Điểm khác biệt với thơ ca cổ là: hình tượng cánh chim trong thơ Bác được cảm nhận ở trạng thái
bên trong (mỏi mệt. Ngoại cảnh cũng là tâm cảnh. Trong ý thơ có sự hòa hợp, đồng điệu giữa tâm
hồn nhà thơ với cảnh vật thiên nhiên.
+ Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không- thi liệu quen thuộc nhưng không mang ý nghĩa
ước lệ triết học (cái khắc khoải mơ hồ của con người trước hư không) mà có hồn người : lẻ loi, đơn
độc và cái băn khoăn, trăn trở chưa biết tương lai phía trước của người tù nơi đất khách.
- Vẻ đẹp của con người:
+Dù trong hoàn cảnh nào, tâm hồn của Bác vẫn luôn yêu quí, hướng về thiên nhiên.
+ Mệt mỏi và đau đớn nhưng chan chứa hồn thơ .


+ Là hình ảnh của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thưởng ngoạn cảnh chiều hôm.
- >Con người có tâm hồn nhạy cảm, giàu thương yêu, có ý chí, nghị lực phi thường và sự tự chủ, tự
do về tinh thần .
- So với bản phiên âm
+ “Cô vân” dịch thành “chòm mây” → dịch chưa sát, bản dịch làm mất đi tính chất cô độc, lẻ loi của
áng mây trên bầu trời.
+ “mạn mạn” dịch thành “trôi nhẹ” → chưa thấy được tư thế chậm chạp gợi vẻ uể oải, lững lờ không
muốn trôi của áng mây.
=>-Bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển nhưng sinh động, gần gũi, có hồn.
- Cảnh ngộ và tâm trạng của người tù xa xứ.
-Một tấm lòng yêu thương tạo vật; một ý chí, nghị lực thép
- Hai câu thơ không nói “thép” nhưng lại rất “thép”.
Bức tranh thiên nhiên ở vùng núi hoang sơ trong cảnh trời chiều. Một buổi chiều buồn, vắng và con người
cảm thấy nỗi cô đơn. Ở đây chúng ta thấy một cách chim mỏi đang bay về phái rừng xa và một chòm mây lẻ

loi lững lờ trôi trên bầu trời:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
(Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không)
- Đây là những hình ảnh tả thực nhưng cũng giàu sức biểu cảm. Ở câu thơ thứ hai trong nguyên tác có chữ
“cô vân”. “Cô vân” có nghĩa là đám mây cô độc lẽ loi đơn chiếc, nó gợi lên nỗi buồn cho cảnh chiều hôm.
Hai chữ “mạn mạn” được dịch là trôi nhẹ không thật đúng với nguyên tác và dường như đã làm mất đi vẻ lẻ
loi, trôi nổi, lững lờ trên bầu trời. Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên
nỗi buồn bâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong
thơ cổ điển. Qua cảm nhận của thi nhân chòm mây như cũng có linh hồn ý thức được nỗi buồn cô đơn. Một
mình lẽ loi đơn chiếc trên không trung.
- Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá đó cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình
ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả “luôn ngẩng cao
đầu trong hoàn cảnh tù đày”. Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà”
“Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn”
(Bà Huyện Thanh Quan).
- Cả cánh chim mỏi và chòm mây xuất hiện đều hợp lí với quy luật tự nhiên của cảnh chiều tối. Đồng thời
cũng làm cho ta liên tưởng với tâm trạng của người tù sau một ngày đi đường mệt mỏi, bơ vơ giữa đất khách
quê người nhưng vẫn thể hiện thái độ ung dung tự tại.
- Hai câu thơ đầu gợi thời gian và không gian của bức tranh thiên nhiên của núi rừng lúc chiều tối. Trời đã
về chiều, ánh nắng sắp tàn lụi, chỉ có chòm mây lơ lững giữa bầu trời. Trong sự đối lập đó ta vẫn thấy có sự
thống nhất, đó là sự gợi tả về hình ảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng của núi rừng.
- Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm
giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu
thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Cái hay nằm ở
chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt
của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm
nhân đạo của Hồ Chí Minh. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật . Đúng

như Tố Hữu đã từng viết :
“Bác ơi tim Bác mênh thống thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”.

2. Hai câu cuối : Bức tranh cuộc sống và ánh lửa trong tâm trí người tù


-Hình ảnh cô gái xay ngô trong Chiều tối toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, đầy sức sống ( chữ cô em,
điệp ngữ, âm hưởng...).
Giữa núi rừng mênh mông, thiếu nữ sơn cước không bị hòa lẫn vào cảnh vật mà trái lại cô chính là
điểm sáng của bức tranh( hình ảnh con người trong thơ Bà Huyện Thanh Quan thấp thoáng, mờ nhạt,
nhỏ bé, chỉ tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời thiên nhiên )
- Thái độ của thi nhân : Trìu mến hướng về con người và sự sống; quan tâm ,yêu thương những
người lao động nghèo, không phân biệt quốc gia, dân tộc.
-Ba chữ “ma bao túc” ở cuối câu 3 được điệp lại ở đầu câu 4 “bao túc ma” đã tạo nên sự nối âm liên
hoàn, nhịp nhàng như vừa diễn tả cái vòng quay không dứt của động tác xay ngô vừa thể hiện dòng
lưu chuyển của thời gian từ chiều đến tối. Mặt khác, chính chữ “hồng” ở cuối bài thơ cũng giúp
người đọc hình dung ra bóng tối đang buông xuống xóm núi.
-Vẻ đẹp của câu kết qua chữ “hồng” : trong mối quan hệ ( chiều tối – lô dĩ hồng )-> tứ thơ loé sáng :
+Con người tìm thấy ánh sáng, sự ấm áp trong bóng đêm.
+Hơi ấm tình người, ước mơ thầm kín của Hồ Chí Minh về mái ấm gia đình
+ Màu của lạc quan, của niểm tin vào Cách Mạng
“Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mỏi mệt, sự uể
oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau
khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “con mắt thơ” (thi
nhãn), hoặc là “nhãn tự” ,nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác
dầu nặng đến mấy đi chăng nữa...” (Hoàng Trung Thông, “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác”, Nghiên
cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh)
=> - Tâm hồn yêu thương con người.
-Hình tượng vận động khỏe khoắn : từ ánh chiều âm u đến ánh lửa rực hồng, ấm áp; từ mệt mỏi

đến khỏe khoắn; từ buồn đến vui.
- Sự vận động này cho thấy tinh thần lạc quan yêu đời của một tâm hồn luôn hướng về sự sống,
ánh sáng và tương lai.
Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng
người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó
chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ dẹp của con người lao
động:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
(Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng)
- Sinh thời Hồ Chí Minh chỉ có một ao ước lớn:“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”. Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là
dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của
Quốc tế cộng sản.
- Hình ảnh cô thiếu nữ xay ngô trẻ trung, khỏe mạnh tràn đầy sức sống.. Bác nhìn về người dân lao động với
cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ “thiếu nữ” gợi lên vẻ trẻ
trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng. Hình
ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa.
- Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả
cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả


mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò
than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay
ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối.Câu thơ cuối thu hẹp không gian và quy tụ vào một điểm
sáng là “lò than đã rực hồng”, hình ảnh này mang lại ánh sáng ấm áp cho cả bức tranh thiên nhiên, mang
lại niềm vui, sức mạnh tinh thần cho tác giả.
- Việc lặp lại cụm từ “ma bao túc”- “bao túc ma hoàn” trong câu thơ phiên âm tạo cho người đọc cảm giác

công việc của cô gái thường xuyên xảy ra ở xóm núi.
- Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được
xem là nhãn tự là con mắt thần. Nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét
rằng: Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự
vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong
ngô tối. Chữ hồng ấy phải chăng là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù.
- Hình ảnh cô gái xay ngô và lò than rực hồng đã tỏa ấm bức tranh thơ, xua đi cái lạnh lẽo, xua tối tăm, buồn
vắng và đây cũng là đặc điểm phổ biến trong thơ HCM: hình tượng thơ vận động hướng về sự sống tương lai.
Nét hiện đại của bài thơ còn thể hiện ở chỗ bức tranh thơ đầm ấm tình đời, tình người.
- Từ bức tranh tả cảnh về thiên nhiên, về hoạt động của con người ta thấy được tâm hồn vừa thư thái vừa
bình yên vui với cảnh vui với người. Chúng ta biết HCM lúc này là một người tù bị đày ải đến một nơi rừng
núi heo hút, trời đã tối hoàn cảnh như vậy mà tâm trạng người vẫn thư thái thì thật là người có bản lĩnh có
tâm hồn phóng khoáng, có lòng thương yêu cảnh vật và thiên nhiên. Tất cả những phẩm chất đó đều xuất
phát từ tinh thần lạc quan yêu đời của Người.
- Bài thơ như bức tranh được miêu tả theo công thức thơ ca cổ điển với hình ảnh cánh chim mây, núi. Bức
tranh được miêu tả với vài nét “chấm phá” cổ điển: chỉ với hình ảnh cánh chim, chòm mây, cô gái xay ngô,
lò than rực hồng. Tác giả đã bao quát cả bầu trời, mặt đất. Bức tranh thiên nhiên nhằm gửi gắm tâm sự, nỗi
lòng của tác giả.

*Kết bài:
“Chiều tối” là bài thơ tứ tuyệt gồm 4 câu 28 chữ theo thể thơ Đường rất hàm súc. Bài thơ là nhật kí của một
người tù trên đường chuyển lao. Bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên núi rừng và cuộc sống con người miền
sơn cước. Qua đó ta thấy được phong thái ung dung tự tại đầy khí phách , lòng lạc quan Cách mạng cùng
tình cảm nhân đạo sâu sắc của Bác:
“ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn soi rọi mái đầu xanh
Ôi vần thơ bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
(Hoàng Trung Thông)




×