Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

chi phí đại diện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.72 KB, 28 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP




ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH

CHI PHÍ ĐẠI DIỆN











Giảng viên: TS.Nguyễn Thị Uyên Uyên
Nhóm 6 LỚP TCDN1-K31:
*Trần Ngọc Diễm Trang
*Phạm Thị Huyền
*Trần Thị Tâm
*Phạm Thị Thuý Sang






2



I.Vấn đề tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu:
Mỗi loại hình doanh nghiệp luôn có chủ sở hữu đích thực. Doanh nghiệp
do chủ sở hữu lập ra theo những mục tiêu, sứ mạng ngay từ lúc thành lập nhằm
phục vụ lợi ích của chủ sở hữu. Do vậy, lấy mục tiêu tối đa hoá lợi ích của chủ
sở hữu là bao quát nhất. Mỗi loại hình doanh nghiệp cần xác định rõ chủ sở hữu
đích thực là ai, đồng thời lợi ích của họ là gì khi thành lập doanh nghiệp. Đó sẽ
là căn cứ cuối cùng cho các quyết định quản trị tài chính hay kinh doanh.
Mặc dù vậy, mục tiêu này vẫn còn có hạn chế của nó đó là: khi quy mô
doanh nghiệp tăng lên và sự phản ứng của các nhà đầu tư với bất định thị trường
tăng lên thì quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý ngày càng tách rời nhau, dẫn đến
các nhà quản trị ra các quyết địng vì lợi ích của nhà quản trị chứ không phải lợi
ích của chủ sở hữu. Tuy nhiên nó có thể khắc phục đựợc nhờ các giải pháp
nhằm gắn lợi ích của người lao động với kết quả kinhdoanh hay mối quan hệ
thoả đáng giữa trách nhiệm và quyền lợi.
Mục tiêu của quản trị tài chính luôn bám sát mục tiêu, sứ mạng của doanh
nghiệp. Do vậy, tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, lợi ích chủ sở hữu đích thực
của nó mà cụ thể hoá mục tiêu tối đa hoá lợi ích chủ sở hữu thành các chỉ tiêu cụ
thể làm căn cứ chính xác cho các quyết định.
Mặc dù là người đang nắm quyền sở hữu công ty , nhưng họ không hẳn sẽ là
người trực tiếp quản lí công ty đó. Họ có thể trực tiếp quản lí hoặc lựa chọn


3
từ một người bên ngoài không thuộc công ty, ở các công ty lớn thì sự phân định
giữa quyền sở hữu và quyền quản lí là điều hết sức cần thiết ..

1.Khái niệm: chí phí đại diện là loại chi phí phát sinh khi một tổ chức gặp phải
vấn đề về sự thông tin bất cân xứng.
*Các chi phí đại diện xuất hiện khi :
-
Các nhà quản lí không cố gắng thực hiện nhiệm vụ tối đa hóa giá trị công
ty
-
Các cổ đông sẽ gánh chịu phí tổn để kiểm soát ban quản lí và do đó ảnh
hưởng đến công việc của họ. (Dĩ nhiên sẽ không có chi phí nào khi các cổ
đông cũng đồng thời là nhà quản lí) .
- Chi phí đại diện có thể nảy sinh trong lĩnh vực tài chính .
*Chi phí đại diện chỉ xuất hiện khi có sự phân định về quyền sở hữu và
quyền quản lí.Sự phân định này xuất hiện trong loại hình công ty cổ phần và
doanh nghiệp nhà nước nhà nước. Đây chính là thuận lợi của loại hình công ty
tư nhân , người chủ và người quản lí không mâu thuẫn về lợi ích.
•(M) :chi phí theo dõi bởi người chủ.
•(B) :chi phí ràng buộc bởi người đại diện.
•(R) :sự mất mát.
Khi đó, chi phí đại diện sẽ là :(M) +(B) +(R)
Vậy:Tổng chi phí theo dõi, ràng buộc, và mất mát phụ trội được gọi là chi phí
đại diện vì chúng xuất phát từ các mối quan hệ giữa ngườichủ và người quản lý.
•Những chi phí để giám sát người đại diện để đảm bảo rằng người đại diện gắn
với lợi ích của người chủ
•Người đại diện gánh chịu chi phí để cam kết rằng bản thân họ không xâm hại


4
đến lợi ích củangười chủ (the “bonding cost”),
•Những chi phí được kết hợp với một kết quả mà kết quả đó không hoàn toàn
phục vụ lợi ích của người chủ.

•Jensen –Meckling định nghĩa chi phí đại diện như là sự tổng hợp các chi phí của
một hợp đồng có tổ chức. Hợp đồng này gồm, một người (người chủ) thuê một
người khác (người đại diện)làm nhiệm vụ thay thế cho mình (người chủ).Người
chủ đưa ra quyết định -ủy quyền cho người đại diện.
• Theo Jensen – Meckling, vấn đề nhà quản lý trốn tránh nhiệm vụ của mình sẽ
được xem như một loại chi phí, các nhà quản lý không thể hiện năng lực lãnh
đạo của họ cũng được xem là một loại chi phí.
2.Nguyên nhân dẫn đến sự mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quyền quản lý :
Vấn đề thông tin bất cân xứng tồn tại giữa người sở hữu và người quản lí
là một nguyên nhân dẫn đến mâu thuẩn này. Đây là một điểm dễ làm phát sinh
tình trạng thông tin bất cân xứng và tiếp tục gây ra các vấn đề rủi ro đạo đức và
lựa chọn đối nghịch.
Mặc dù ý thức được vấn đề này ,nhưng không dễ để nhà đầu tư có thể kiểm
soát được, bởi trên thực tế tồn tại tình trạng thông tin không cân xứng
(information asymmetry) giữa nhà đầu tư và nhà quản lý. Nhà quản lý có những
thông tin mà nhà đầu tư không thể có hoặc không muốn có do chi phí để thu
thập các thông tin đó là quá cao. Ví dụ, nhà quản lý có thể biết được mức độ nỗ
lực của mình trong khi nhà đầu tư không biết được; nhà quản lý nhờ trực tiếp
điều hành nên có được những thông tin nội bộ mà nhà đầu tư hoặc không biết
được hoặc biết nhưng không hiểu được đầy đủ. Do tình trạng thông tin không
cân xứng này mà nhà quản lý có cơ hội để thực hiện các vấn đề như nêu trên mà


5
không sợ bị trừng phạt. Tất nhiên, nếu thị trường lao động là hoàn hảo thì trong
dài hạn những hành vi của nhà quản lý sẽ bị phát giác.
Khi doanh nghiệp mang một khoản nợ, sẽ có xung đột lợi ích phát sinh giữa
cổ đông (người nắm giữ cổ phiếu) và trái chủ (người nắm giữ trái phiếu) của
doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp có phát hành trái phiếu). Xung đột phát sinh ở
chỗ người sở hữu (cổ đông công ty) thường muốn theo đuổi những chiến lược

hoạt động có tính "ích kỷ", điều này làm phát sinh chi phí đại diện (agency cost).
Những chiến lược "ích kỷ" này thường tốn kém do chúng làm giảm giá trị thị
trường của toàn doanh nghiệp, chẳng hạn một chiến lược kinh doanh với mức
độ rủi ro cao; hoặc một chiến lược nhắm vào đầu tư những tài sản có độ rủi
ro thấp hơn kỳ vọng của trái chủ (trái chủ với mức đầu tư của mình vào doanh
nghiệp, ở dạng cho vay, có những kỳ vọng riêng về mức độ rủi ro trong hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích tối đa cho mình) - còn gọi là
underinvestment problem; hoặc cũng có thể là chiến lược nhằm vắt kiệt lợi ích
mà tài sản hiện tại của công ty có thể sinh ra phục vụ cho mục đích của cổ đông
- còn gọi là milking the property hay milking strategy.
Với một cái nhìn thoáng qua trên thực tế thị trường, chúng ta có thể thấy
rằng những nhà quản lý trong những công ty lớn và các cổ đông thường không
phải là cùng một nhóm nguời. Và khi chúng ta chú ý đến phần trình bày trước
đây, thì hai nhóm người này không có cùng sự tiếp cận đối với thông tin của
công ty. Nếu hai nhóm này không là một, thì ta phải giả định rằng ban giám đốc
chỉ tập trung vào việc tối đa hóa tài sản cho cổ đông. Nghĩa là, chúng ta đang giả
định rằng giá trị thị trường của công ty khi có sự tách biệt giữa người sở hữu và
người quản lý thì không khác với giá trị của công ty trong trường hợp không có


6
sự tách biệt đó.
Hai khả năng có thể giúp cho nhà quản lý nhìn thấy những vấn đề mà cổ
đông cũng nhìn thấy là: (1) Giá thị trường thấp có thể hấp dẫn việc tiếp nhận
quyền quản lý, và (2) một thị trường lao động cạnh tranh có thể cho phép cổ
đông thay thế những nhà quản lý không hợp tác. Nghĩa là, nếu như ban giám đốc
không đủ khả năng cho nhu cầu tối đa hóa tài sản cổ đông, những cổ đông mới
có thể mua cổ phần, nắm giữ quyền quản lý công ty, và giải tán ban giám đốc.
Hoặc nếu như ban giám đốc hiện tại thiếu tính hỗ trợ đối với những người chủ
sở hữu, những người chủ này luôn có thể tìm kiếm những người quản lý khác

mà có thể làm việc vì lợi ích cao nhất của nhà đầu tư. Nếu như hai bộ máy thị
trường hoạt động hoàn hảo mà không tốn bất kỳ khoản chi phí nào, thì những
mâu thuẫn tiềm ẩn sẽ không xuất hiện. Tuy nhiên, trong thực tế những mâu
thuẫn này vẫn tồn tại, và giá cổ phiếu của những công ty được sở hữu bởi những
nhà đầu tư tách ra từ ban giám đốc thường thấp hơn giá cổ phiếu của những
công ty được tổ chức một cách kỹ lưỡng. Sự khác biệt về giá chính là chi phí
của sự mâu thuẫn đối với người chủ sở hữu công ty, và được gọi là “Chi phí đại
diện”.
Nhận thấy những vấn đề có thể xảy ra, ban giám đốc (một cách độc lập
hay dưới sự yêu cầu của hội đồng quản trị) sẽ thường xuyên thực hiện việc tối
thiểu những chi phí có liên quan đến sự tách biệt về quyền sở hữu và quyền
quản lý. Những hoạt động đó, mà bản thân nó cũng tốn kém chi phí, bao gồm
hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi những kế toán độc lập, giao phó chức
năng giám sát cho hội đồng quản trị, thiết lập những quy ước về việc đồng ý cho
vay nhằm hạn chế quyền hạn của của ban giám đốc, và đưa ra những chính sách


7
khuyến khích đối với ban giám đốc để củng cố “sự ràng buộc” về quyền lợi của
ban giám đốc với các cổ đông.
Một chính sách cổ tức của công ty có thể được các cổ đông xem như là
một công cụ để tối thiểu những chi phí đại diện. Giả sử việc chi trả cổ tức đòi
hỏi công ty phải phát hành cổ phiều để tài trợ cho các khoản đầu tư mới, khi đó
công ty chỉ có thể hấp dẫn những nhà đầu tư mới nếu như ban giám đốc có thể
đưa ra những thông tin thuyết phục rằng những khoản vốn là có khả năng sinh
lợi. Do đó, việc chi trả cổ tức đã gián tiếp đem lại một một sự giám sát chặt chẽ
đối với những hoạt động đầu tư của ban giám đốc. Trong trường hợp này, cổ tức
có thể đem lại một sự đóng góp đầy ý nghĩa cho giá trị cua công ty.
Sự tách biệt quyền sở hữu và quản lý một mặt giải quyết mâu thuẫn giữa vốn
và năng lực điều hành như đã nói ở trên; mặt khác, nó cũng làm nảy sinh những

nguy cơ khiến cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không đạt mức tối
ưu, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nhà
quản lý ,cả hai bên đều mong muốn tối đa hoá lợi ích của mình, tuy nhiên điều
kiện để tối đa hoá lợi ích của hai bên không giống nhau. Nhà đầu tư mong muốn
tối đa hoá lợi ích của mình thông qua việc tăng giá trị của doanh nghiệp, còn lợi
ích của nhà quản lý thường gắn trực tiếp với thu nhập nhận được. Do nhà quản
lý là người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên họ có thể thực
hiện những hành vi hay quyết định nhằm tối đa hoá lơi ích cho cá nhân mình
nhưng lại làm tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư. Những tổn thất gây ra trong
trường hợp này được gọi là tổn thất do phân quyền (agency costs) .Ví dụ, nhà
quản lý có thể không nỗ lực với khả năng cao nhất của mình, do đó làm giảm
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (giám đốc, như bất kỳ một người bình


8
thường nào khác, có xu hướng thích nghỉ ngơi hơn là làm việc); nhà quản lý có
thể quyết định không đầu tư nguồn lực vào một dự án có khả năng sinh lời cao
trong tương lai vì làm như vậy sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận trong ngắn hạn (nếu
thu nhập của nhà quản lý được xác định dựa trên kết quả hoạt động của doanh
nghiệp trong ngắn hạn); thậm chí nhà quản lý có thể báo cáo không trung thực
về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đạt mức lợi nhuận kế hoạch
(kèm theo đó là tiền thưởng). Những hành vi như vậy của nhà quản lý sẽ làm tổn
hại tới lợi ích dài hạn của nhà đầu tư.
MỘT V Í DỤ VỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN:
PHẦN I:Mức độ ảnh hưởng của chi phí đại diện trong doanh nghiệp
Penn Central Railroad phá sản tháng 6năm 1970. Bốn năm sau, quy trình phá
sảnvẫn chưa hoàn tất. Business Week đã đăng một bài báo với tựa đề “Tại sao
PennCentral tan rã”.
“Do các chủ nợ săn đuổi –một vài người muốn công ty đóng cửa để lấy lại tiền –
công ty đường sắt này phải tiếp tục hoạt động vào lúc mà côngty khó có thể tiếp

tục vận hành được nếu không đổ thêm các khoản tiền lớn để xây dựng lại cáccơ
sở. Tuy nhiên, số tiền đó sẽ không có sẵn chođến khi nào công ty cho thấy có thể
được tái tổchức”
“Hàng tá vấn đề nảy sinh do thiếu tiền. Mọi ngườicủa Penn Central đều phẩn
nộ, vì có nhiều nguồn vốnnhưng công ty không thể đụng tới. Thí dụ, hầu nhưmỗi
nhánh mỏ đang bị bỏ hoang ởdãy Allegheny đầynhững toa xe cũ của Penn Central
chỉ dành để bán sắt vụn. Với giá sắt vụn hiện nay, chúng thật sự là mỏvàng.
Nhưng các chủ nợ sẽ không cho phép biến tài sản này thành tiền mặt để tái đầu tư
vào cơ sở vật chấtcủa công ty, trong khi cơ sở vật chất của công ty đangbị xói mòn
từng ngày”.
PHẦN II:Các kịch bản điển hình:
1. Mọi người đều bị lừa


9
Ngoài những lời tự đánh bóng về khả năng quản lýEnron được quảng cáo rất hiệu
quả qua công ty kiểmtoán Arthur Andersen và các nhà phân tích phố Wall,nhờ vậy
số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷlục, nhưng thực chất thì giá trị cổ phiếu
đã đựơcnâng lên “Ảo” để qua mặt các cổ đông.
Nhiều nhà phân tích chứng khoán vào tháng11/2001 còn tư vấn cho khách hàng
mua cổ phiếu Enron. Nhiều người thừa nhận không hiểu sâu về công việc làm ăn
của Enron nhưng tin rằng đây là công ty có triển vọng bởi cổ phiếu của họ liên
tục tăng giá trong thời gian dài. Trong khi các chuyêngia phân tích phải đánh giá
tình hình tài chính của Enron một cách độc lập thì họ lại phụ thuộc chủ yếu vào
báo cáo tài chính do Arthur Andersen cungcấp. Đến khi công ty tuyên bố phá sản
với số nợ31,2 tỷ USD, không ít người mới kêu trời.
2. Các nhân vật liên quan và thủ đoạn
Nhiều đối tác lớn của Enron đã giấu nhẹm các khoản nợ và thổi phồng lợi nhuận.
Giật dây cho các hành động này là chủ tịch Jeffrey Skilling và Andrew Fastow,
phụ trách đối ngoại. Hai nhân vật này đã cấu kết với hơn chụcthành viên hội đồng

quản trị và hãng kiểm toán ArthurAndersen để bưng bít sự việc và tung hỏa mù
đối với chính quyền trước những vụ làm ăn phi pháp ởEnron.Các bằng chứng
đưa ra cũng cho thấy Fastow còn làmxiếc số liệu, tạo lợi nhuận ảo để đút túi
hàng triệu đôlacho bản thân, gia đình và chiến hữu và Bộ tư pháp Mỹ đã buộc tội
Fastow với 178 tội danh khác nhau, từ biển thủ công quỹ, gian lận sổ sách tới lừa
dối pháp luật.
Michael Kopper (Hội đồng quản trị –Cựu lãnhđạo tập đoàn Enron)
Kopper được coi là cánh tay phải của Andrew Fastow trong việc điều hành các
công ty con –nguyên nhân chính làm Enron sụp đổ. Các công ty con đựơc sửdụng
để che giấu nợ và thổi phồng lợi nhuận củaEnron lên hơn 1tỷ USD, khiến nhìn bề
ngoài nó có vẻổn định về tài chính, dễ đánh lừa cổ đông.Cuộc điều tra nội bộ của
ban giám đốc Enron trướcđây còn khẳng định Kopper lợi dụng khe hở của Enron
để biến 125.000 USD tiền đầu tư cá nhân thành 10,5triệu USD trong chưa đầy


10
3năm.
II.Giải pháp giải quyết mâu thuẩn giữa quyền sở hữu và
quyền quản lí :
1.Áp dụng một cơ chế thù lao hợp lý nhằm hạn chế chi phí đại diện(agency
costs)
Một cơ chế thù lao hợp lý cho nhà quản lí phải bảo đảm được tối thiểu ba yêu
cầu:
- Thứ nhất, cơ chế thù lao đó phải có tác dụng khuyến khích nhà quản lý làm
việc với nỗ lực cao nhất. Muốn vậy mức thù lao phải tỷ lệ thuận với mức độ nỗ
lực của nhà quản lý.
- Thứ hai, cơ chế thù lao phải khuyến khích nhà quản lý đồng thời quan tâm tới
lợi ích ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp.
- Thứ ba, phải bảo đảm kiểm soát được mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp.
*Một số qui định pháp luật về vấn đề tiền lương :

Giám đốc DN: Bị hạ lương nếu...
Theo NĐ 207/2004/NĐ - CP, người lao động không được đảm bảo lương thì lãnh
đạo DN sẽ bị hạ lương. Tiền lương, phụ cấp cho các lãnh đạo sẽ được tính căn cứ
vào việc thực hiện lợi nhuận và năng suất lao động của Cty. Quỹ tiền lương của
Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, giám đốc được xác định theo năm, tháng và
được tạm ứng 80% quỹ tiền lương kế hoạch. Phần còn lại xác định theo mức độ
hoàn thành nhiệm vụ vào cuối năm. Lãnh đạo Cty sẽ không được nâng lương hoặc
bị hạ bậc lương nếu để Cty lâm vào tình trạng sau: lỗ, mất vốn nhà nước; quyết
định dự án đầu tư không hiệu quả, không thu hồi được vốn đầu tư, không trả được
nợ; không đảm bảo tiền lương và các chế độ khác cho người lao động; để xảy ra
sai phạm về quản lý vốn, tài sản, chế độ kế toán, kiểm toán và các chế độ khác do
nhà nước quy định; lỗ 2 năm liên tiếp hoặc không đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn 2


11
năm liên tiếp hoặc lỗ lãi đan xen nhưng không khắc phục được.
6 nghị định của chính phủ về chế độ tiền lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội:

NĐ số 203/2004/NĐ - CP về mức lương tối thiểu

NĐ số 204/2004/NĐ - CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức và lực lượng vũ trang

NĐ số 205/2004/NĐ - CP về hệ thống thang bảng lương và chế độ phụ cấp
lương trong các công ty nhà nước

NĐ số 206/2004/NĐ - CP về việc quản lý lao động, tiền lương và thu nhập
trong các cty nhà nước.

NĐ số 207/2004/NĐ - CP quy định chế độ tièn lương, tiền thưởng và chế

độ trách nhiệm đối với các thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc và
giám đốc cty nhà nước.

NĐ số 208/2004/NĐ - CP về điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã
hội.
Làm thế nào để xây dựng một cơ chế thù lao có tác dụng khuyến khích
nhà quản lý? Như đã phân tích ở trên, tình trạng thông tin không cân xứng
khiến cho nhà đầu tư không thể quan sát được mức độ nỗ lực của nhà
quản lý. Tuy nhiên, nhà đầu tư có thể quan sát được kết quả công việc
của nhà quản lý thông qua một số tiêu chí như lợi nhuận, dòng tiền, giá trị
thị trường của doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế đó, một trong những cơ
sở để xác định mức thù lao cho các nhà quản lý là lợi nhuận hằng năm của
doanh nghiệp, dựa trên giả thiết lợi nhuận của doanh nghiệp tỷ lệ thuận
với mức độ nỗ lực của nhà quản lý. Tuy nhiên, sử dụng lợi nhuận để đánh
giá hiệu quả công việc của các nhà quản lý có hai nhược điểm:


12

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×