Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.47 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC VIỆT

TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC VIỆT

TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số:8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS.VÕ KHÁNH VINH

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” là công trình nghiên cứu khoa học của cá
nhân tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS Võ Khánh Vinh.
Tôi xin cam đoan số liệu, thông tin và trích dẫn trong luận văn bảo đảm
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông tin và
tài liệu trích dẫn trong luận văn được ghi rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Quốc Việt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP
DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ................................................................................ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các dấu hiệu pháp lý đối với tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi ............................................................................................................. 8
1.2. Phân biệt tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác mà nạn
nhân dưới 16 tuổi .................................................................................................. 24
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi ....................................................................................................................... 27
Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI
DƯỚI 16 TUỔI TẠI TỈNH LONG AN ................................................................. 33
2.1. Thực tiễn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại tỉnh Long An . 33
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi tại tỉnh Long An ..................................................................... 40
2.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi tại tỉnh Long An ............................................................................................. 48
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI .......... 57
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi ........................................................................................................................ 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi ................................................................................................ 62
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình giải quyết vụ án hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi
trên địa bàn tỉnh Long An giai đoạn 2014 -2018
Bảng 2.2. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo về tội Hiếp dâm người dưới 16
tuổi trên địa bàn tỉnh Long An giai đoạn 2014 -2018


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLHS 1999

Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009

BLHS 2015


Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

CQĐT

Cơ quan điều tra

CTTP

Cấu thành tội phạm

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 20 như sau: “Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19].
Hiến pháp đã đặt ra trách nhiệm bảo vệ nhân phẩm, sức khỏe, danh dự của công dân
là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và tất cả các tổ chức xã hội, do nhiều ngành
luật điểu chỉnh trong đó có pháp luật hình sự, và tại khoản 1 Điều 37 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Trẻ em được nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bốc lột sức lao động và những hành vi khác xâm
phạm quyền trẻ em” [21, tr.26]. Do trẻ em chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm
sinh lý, chưa có khả năng nhận thức một cách cơ bản và tự bảo vệ mình nên ở độ
tuổi này rất dễ tổn thương về mọi mặt.
Qua tìm hiểu và theo dõi tình hình tội phạm tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ,
thời gian qua loại tội phạm xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em luôn là vấn đề
thời sự và được dư luận hết sức quan tâm, trong đó nổi lên là các tội xâm hại tình
dục đối với người dưới 16 tuổi, đây không chì là vấn đề xã hội mà dưới góc độ pháp
lý đặt ra yêu cầu đòi hỏi việc vận dụng pháp luật đúng đắn để xử lý tội phạm trên.
Trong các các tỉnh Miền Tây Nam Bộ thì Long An là tỉnh có vị trí đặc biệt,
trải rộng và có sự khác biệt về vị trí địa lý so với hầu hết các tỉnh thành khác. Là
cửa ngõ của cả miền Tây về thành phố Hồ Chí Minh, giáp ranh với một tỉnh thuộc
Miền Đông Nam Bộ là tỉnh Tây Ninh, chỉ cách biển Đông 12km qua hướng cửa
sông Soài Rạp và giáp với nước bạn Campuchia ở phía tây, có một cửa khẩu quốc tế

là Bình Hiệp, hai cửa khẩu quốc gia là Long Khốt và Mỹ Quý Tây, vị trí cuối tỉnh
giáp với hai tỉnh lân cận và nước bạn cũng là cửa khẩu Phước Chỉ - Tây Ninh và
Giồng Găng - Đồng Tháp, và nhiều lối đi nhỏ sang nước bạn. Nhìn chung kinh tế xã
hội Long An phát triển với tốc độ nhanh so với tốc độ chung của khu vực và cả
1


nước, do đó tình hình an ninh trật tự trị an luôn là vấn đề luôn được xã hội quan
tâm, các tội về hiếp dâm gia tăng trong đó thời gian gần đây nổi bật là tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật đúng đắn trong việc xử
lý.
Trước tình hình đó, vấn đề bảo vệ trẻ em tránh khỏi sự xâm hại thân thể và
tình dục đang là vấn đề cấp thiết nhất, vì đây đối tượng chưa thực sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần, các em cần được sống trong môi trường lành mạnh, trong
sạch để phát triển bình thường, phát huy hết tiềm năng và khả năng mà con người
có được.
BLHS 2015 ra đời đã được sửa đổi bổ sung, thông qua năm 2017 cũng đã
quy định khá cụ thể về các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên,
vẫn còn các vướng mắc và thiếu sót chưa đáp ứng được hết yêu cầu của thực tiễn.
Xuất phát từ tình hình tội phạm xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi hiện nay đang
có xu hướng tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm, người phạm tội có thể là
những người thân thích, quen biết nạn nhân thực hiện hành vi phạm tội trái với pháp
luật cũng như các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Ngoài ra, tình hình các tội phạm xâm phạm về tình dục người dưới 16 tuổi
ngày càng diễn biến phức tạp, số lượng gia tăng cũng như mức độ nguy hiểm, gây
tâm lý khủng hoảng đối với nạn nhân, hoang mang trong nhân dân và làm ảnh
hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội
xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi cho thấy còn gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc trong việc định tội danh, định khung và quyết định hình phạt dẫn đến oan sai
hoặc bỏ lọt tội phạm, xử lí quá nghiêm khắc hoặc nhẹ hơn với tính chất mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội, gây ảnh hưởng đến chất lượng của pháp luật khi
vận dụng vào cuộc sống. Do đó, việc tìm hiểu nghiên cứu các quy định của pháp
luật và thực tiễn thực thi áp dụng pháp luật đối với tội danh này là một vấn đề cần
thiết, đặc biệt là việc nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Long An là một nhu cầu thực tế,
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và tính đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật đối
với địa phương.
2


Bản thân tác giả mong muốn đóng góp một phần công sức và sự hiểu biết
của mình cho công tác nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về tội Hiếp dâm người
dưới 16 tuổi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm. Đó là
lý do mà tác giả quyết định chọn đề tài: “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm luận văn thạc sĩ luật
học, nhằm góp phần hạn chế thấp nhất án bị huỷ, sửa với lỗi chủ quan của người
tiến hành tố tụng. Qua đó nâng cao chất lượng xét xử và áp dụng pháp luật hình sự
vào hoạt động thực tiễn công tác tư pháp.
Luận văn nghiên cứu từ thực tiễn và qua phân tích số liệu từ năm 2014 đến
năm 2018, là thời điểm chuyển giao hiệu lực giữa BLHS 1999 và BLHS 2015. Do
đó nội dung nghiên cứu về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong luận văn này bao
gồm “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 142 BLHS 2015 và “Tội
hiếp dâm trẻ em” quy định tại Điều 112 BLHS 1999.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiêm cứu ở ngoài nước
Do đây là đề tài có phạm vi hẹp ở một tội danh cụ thể và địa bàn nghiên cứu
tại địa bàn tỉnh Long An, nên chưa tìm thấy có công trình nghiên cứu, bài báo khoa
khọc pháp lý viết về đề tài này được tiến hành nghiên cứu ở nước ngoài.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Nhận thức được từ rất sớm của việc bảo vệ quyền con người mà đặc biệt là
quyền trẻ em, trên phạm vi thế giới đã có các những văn bản pháp lý được ban hành

về bảo vệ trẻ em, tiêu biểu là Công Ước về quyền trẻ em 1986 mà Việt Nam là quốc
gia thứ 2 ký kết (ngày 20/02/1990) chỉ sau Ghana, Tuyên bố thế giới về quyền con
người, Tuyên bố về quyền trẻ em 1959.
Liên quan đến các tội xâm phạm tình dục nói chung và hiếp dâm người dưới
16 tuổi nói riêng đã có nhiều luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp, đề tài nghiên
cứu khoa học trong nghiên cứu về vấn đề này.
Nhóm các luận văn thạc sĩ, có thể kể đến: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” – Tác giả Trần Thúy
3


Quỳnh Trang (năm 2014); “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Hồ Chí Minh” Tác giả Lê Văn Hùng (năm 2014); “Tội hiếp dâm trẻ
em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Trà Vinh” – Tác giả Lâm Thị
Bé Ba (năm 2015); “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Cà Mau” – Tác giả Chung Văn Kết (năm 2015); “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” Tác giả Lê Thị Mỹ Ly (năm
2018); “Định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh An Giang”
– Tác giả Lại Văn Giang (năm 2019).
Các bình luận khoa học chuyên sâu về tội hiếp dâm như: “Bình luận khoa
học Bộ luật hình sự” (Phần các tội phạm, xuất bản năm 2013) của GS.TS Võ Khánh
Vinh - Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Giám đốc Học viện
khoa học xã hội; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm của Đại học
Luật Hà Nội năm 2008.
Thông qua các tài liệu trên cung cấp những kiến thức pháp lý cơ bản về khái
niệm của các tội về dâm ô và hiếp dâm, các dấu hiệu pháp lý cơ bản, các trường hợp
phạm tội cụ thể theo quy định của pháp luật của các tội hiếp dâm cũng như hình
phạt dành cho của các tội này.
Đa số các luận văn, khóa luận, các công trình nghiên cứu khoa học trên chủ
yếu tập trung khai thác làm nổi bật nội dung các quy định của pháp luật hình sự về

các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong BLHS 1999 với những chế định cũ có nhiều
điểm không phù hợp với thực tiễn áp hiện nay.
Mặt khác, BLHS 2015 vừa có những sửa đổi, bổ sung và được thông qua vào
năm 2017 có hiệu lực ngày 01/01/2018 với những quy định mới, và dựa trên tình
hình thực tiễn cho thấy còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự.
Do vậy, đây là đề tài tạo được tính mới so với những nghiên cứu trước đây.
Đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học, tuy nhiên chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu về: “Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Long An”. Do đó đây là đề tài mới, lần đầu tiên được nghiên
cứu ở cấp độ luận văn Thạc sĩ.
4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ niềm đam mê nghiên cứu khoa học, quá trình tìm tòi học hỏi từ
thực tiễn, nhận thấy hành vi xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi trong đó có hành
vi hiếp dâm diễn ra nhiều nơi. Trong khi đó BLHS 2015 thay thế BLHS 1999 đã có
nhiều bước tiến, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử đối với
tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Trên cơ sở nghiên cứu từ thực tiễn làm rõ những vấn đề lý luận của luật hình
sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, trên cơ sở phân tích đánh giá, nhận xét các
khía cạnh lý luận về mặt pháp lý và việc áp dụng thực tiễn từ công tác xét xử tại địa
bàn tỉnh Long An từ năm 2014 đến năm 2018, đồng thời chỉ ra các khó khăn vướn
mắc và tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp áp dụng đúng quy
định của Bộ luật hình sự về tội danh này trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiêm cứu
Trong phạm vi đề tài, tác giả thực hiện 3 nhiệm vụ nghiêm cứu, cụ thể như
sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ hai: Áp dụng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại
tỉnh Long An.
Thứ ba: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề: quan điểm khoa học, các quy định
của BLHS Việt Nam về “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; thực tiễn áp dụng tội
danh tội này tại địa bàn tỉnh Long An nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc
trong việc vận dụng pháp luật; đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp áp dụng
đúng pháp luật đối ở nước ta hiện nay.
5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn: “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” được nghiên cứu trong phạm vi như sau:
Về không gian, số liệu thu thập được từ việc khảo sát tình hình tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi trên phạm vi tỉnh Long An từ năm 2014 - 2018
Về thời gian, luận văn sử dụng số liệu thống kê số liệu trong 05 năm, từ năm
2014 đến năm 2018.
Trong đề tài, tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi cấp xét xử sơ thẩm của
TAND tỉnh Long An và TAND các huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh Long An đối với
việc định tội danh và áp dụng hình phạt.
Về nội dung, luận văn nêu ra các vấn đề sau: khái niệm, đặc điểm, dấu hiệu
pháp lý tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý của định
tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Phân biệt tội hiếp dâm người dưới 16
tuổivới một số tội danh trong BLHS; Thực tiễn áp dụng các biện pháp trách nhiệm
hình sự đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại tỉnh Long An và đề xuất các giải

pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của luận văn dựa trên phương pháp luận của khoa học
pháp lý, sử dụng quan điểm duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
tội phạm và hình phạt, công tác xét xử tội phạm, lý luận về tội phạm, Luật hình sự
và Tố tụng hình sự, cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp phương pháp tổng hợp, phân tích; phương pháp tìm hiểu,
khảo sát thực tiễn thông qua số liệu thống kê; phương pháp tổng kết các kinh
nghiệm, đọc các bản án và phương pháp trao đổi, thảo luận, tham khảo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
6


Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu, tổng hợp, đánh giá và đề xuất
góp phần áp dụng đúng pháp luật và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu trong việc nghiên cứu, học tập và
giảng dạy chuyên ngành luật.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo
công việc và tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ án hình sự
về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn tỉnh Long An cũng như cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục từ
viết tắt, nội dung của luận văn gồm 3 chương.Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi.
Chương 2: Áp dụng pháp luật hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại
tỉnh Long An.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình
sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
1.1. Khái niệm, đặc điểm dấu hiệu pháp lý tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi
1.1.1. Các khái niệm
Người dưới 16 tuổi theo pháp luật hiện hành:
Điều 1 Luật Bảo vệ, năm 2004, quy định: “Trẻ em quy định trong luật này là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” và tại Điều 1 Luật Trẻ em được Quốc hội thông
qua ngày 5/4/2016 trong đó quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [22, tr.7].
Như vậy, người dưới 16 tuổi xác định là “trẻ em” theo các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành.
- Tội hiếp dâm:
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì hành vi hiếp dâm
được hiểu là “Dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thoả mãn nhu cầu tình dục
của mình”. Như vậy, theo như quan điểm trên thì hiếp dâm là hành vi dùng sức
mạnh hoặc đe dọa để nhằm thỏa mãn tình dục một cách trái pháp luật.
Theo Điều 141 BLHS 2015 quy định về tội hiếp dâm như sau: Hiếp dâm là
hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân”
[20, tr.96]. Hoặc có thể hiểu theo cách ngắn gọn theo quan điểm tác giả là: Hiếp

dâm là hành vi xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người khác.
- Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là trường hợp đặc biệt của tội Hiếp dâm
thuộc nhóm các tội xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm con người, đồng thời xâm
phạm tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường về thể chất và tâm lý, sinh
lý của người dưới 16 tuổi. Như vậy, có thể kết hợp các nội dung trên và quy định tại
Điều 142 BLHS 2015 để nêu ra khái niệm đối với tội phạm hiếp dâm người dưới 16
tuổi như sau: “Tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã
8


hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý bằng cách thức dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi trái với ý
muốn của họ”.
1.1.2. Đặc điểm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Tội phạm này thuộc nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người,
đồng thời là tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường về thể chất và tâm,
sinh lý của người dưới 16 tuổi.
Hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, có thể sử
dụng vũ lực, đe doạ sử dụng vũ lực hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm thỏa mãn
những ham muốn tình dục, dục vọng thấp hèn của người phạm tội (nếu giao cấu với
nạn nhân là người dưới 13 tuổi cũng phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi mặc dù
có sự thuận tình của nạn nhân).
Tội Hiếp dâm trẻ em còn xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình
dục, danh dự và nhân phẩm của trẻ em, tạo ra sự tác động lớn đến sự phát triển lành
mạnh cả về thể chất và tinh thần của trẻ em (có thể làm cho trẻ sợ hãi, bị tâm thần
sau khi bị xâm hại, có khi dẫn đến trẻ tự sát).
Do đó, về phương diện pháp lý, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy

định tại Điều 142, Chương XIV phần các tội phạm của BLHS 2015 nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam [20, tr.98].
Ngoài sự tác động lớn đến sự phát triển lành mạnh cả về thể chất và tinh
thần, người thực hiện hành vi của tội danh này có thể để lại hậu quả nghiêm trọng
đối với nạn nhân, đó là:
- Làm cho nạn nhân có thai.
- Nạn nhân bị lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, đặc biệt là HIV.
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Từ các lý do trên, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi không bỏ khung hình phạt
với mức án cao nhất là tử hình trong BLHS, điều này thể hiện chính sách pháp luật
9


của nhà nước Việt Nam là nghiêm khắc, không khoang nhượng đối với hành vi hiếp
dâm người dưới 16 tuổi.
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội Hiếp dâm người dưới
16 tuổi
Xét về mặt cấu trúc theo khoa học hình sự Việt Nam, tội phạm được hợp
thành bởi bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Bốn yếu tố
này hợp thành cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu
chung có tính đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS.
Cấu thành tội phạm được coi là khái niệm cơ bản của pháp luật hình sự, là sự mô tả
khái quát nhất về loại tội phạm nhất định. Cũng như bất kỳ loại tội phạm nào, tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng được cấu thành bởi bốn yếu tố cấu thành tội
phạm, cụ thể đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.
Nghiên cứu bốn yếu tố này của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi giúp làm rõ
các dầu hiệu pháp lý của tội phạm, có tác dụng xác định có hay không có tội cho
hành vi đã xảy ra đồng thời phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác.
1.1.3.1. Khách thể của tội phạm
“Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ

và bị hành vi phạm tội xâm hại” [32, tr.62].
Như vậy, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các
quan hệ xã hội đó đã được Bộ luật hình sự thừa nhận bảo vệ đây cũng là một đặc
điểm mà thiếu nó thì không phải là tội phạm. Có thể nói khách thể của tội phạm có
vai trò rất lớn trong quá trình định tội danh, việc xác định đúng khách thể (khách thể
chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp) giúp làm sáng tỏ một trong số những tiêu
chuẩn trong quá trình định tội danh.
Những quan hệ được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan
hệ xã hội đã được xác định trong BLHS, bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,... Đối với tội
10


hiếp dâm hiếp dâm là xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con
người, mặc khác hành vi này còn xâm hại đến sự phát triển bình thường về mặt tâm
sinh lý của nạn nhân và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe, tình dục, danh dự, nhân phẩm của trẻ chính là khách thể được Luật
hình sự bảo vệ. Mặt khác, hành vi này còn xâm hại đến sức khỏe, sự phát triển bình
thường, ổn định và lành mạnh của trẻ em, gây ảnh hưởng xấu đến tâm, sinh lý của
trẻ về lâu dài, làm tổn thương tinh thần trẻ em cũng như gia đình của trẻ.
Độ tuổi nạn nhân là đặc điểm có ảnh hưởng quan trọng đến tính nguy hiểm
của tội phạm, được thể hiện rõ nét qua việc xâm hại của hành vi phạm tội đối với
mọi trẻ em dưới 16 tuổi, độ tuổi này trẻ em là đối tượng chưa hoàn thiện về tâm,
sinh lý, dễ bị dụ dỗ, mua chuộc hoặc không thể chống cự, tự vệ lại hành vi xâm hại.
Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, khách thể trực tiếp là quyền được
tôn trọng nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em,
ngoài ra tội phạm còn có thể xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính

mạng, sức khỏe của trẻ em. Tội này còn xâm phạm nghiêm trọng đến đạo đức xã
hội, đạo đức truyền thống tốt đẹp, xâm phạm Công ước về quyền trẻ em mà Việt
Nam đã phê chuẩn.
Đối tượng tác động là một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành
tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, nó có ý nghĩa trong việc phân biệt tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi với các tội danh khác về tình dục khác cũng như xác định khung
hình phạt và quyết định mức hình phạt.
Việc phụ thuộc nhiều về vật chất và tinh thần, nên dễ bị lợi dụng để thực
hiện hành vi hiếp dâm; trường hợp hiếp dâm có tính chất loạn luân còn ảnh hưởng
đến đạo đức, luân thường đạo lý. Khách thể bị xâm hại còn có thể là quyền bất khả
xâm phạm về tính mạng, sức khỏe như làm nạn nhân có thai, làm nạn nhân bị nhiểm
HIV, tự sát. Như vậy, một khi khách thể bị xâm hại thì không chỉ nguy hại về thể
chất và tinh thần mà còn gây ảnh hưởng đến đến quyền nhân thân của bị hại, đồng

11


thời tác động gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác được pháp luật
hình sự bảo vệ, đó là chính là trật tự an toàn xã hội.
Đối tượng tác động là một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành
tội phạm tại Điều 142 BLHS giúp phân biệt Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với
các tội danh khác.
Độ tuổi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc phải xác định tuổi của
nạn nhân trên cơ sở các loại giấy tờ nhân thân của họ, nếu trường hợp không có
giấy giấy tờ nào thì phải dùng tất cả các biện pháp để có thể xác định được tuổi thật
của nạn nhân, trường hợp xác định được thì phải áp dụng nguyên tắc suy đoán có
lợi cho người phạm tội.
1.1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm

những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan” [32, tr.77], thì các dấu hiệu hợp thành mặt khách quan của tội phạm bao
gồm: hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều
kiện chi phối hành vi và hậu quả của hành vi và các dấu hiệu khách quan khác như:
thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội... (các dấu hiệu không bắt buộc).
Hiếp dâm người dưới 16 tuổi là trường hợp đặc biệt của tội Hiếp dâm. Độ
tuổi của nạn nhân chính là yếu tố định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bắt buộc
phải là dưới 16 tuổi, đồng thời việc xác định độ tuổi này còn là dấu hiệu để phân
biệt giữa tội này với các tội danh về tình dục khác trong Bộ luật Hình sự. Mặt
khách quan của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi bao gồm:
Hành vi dùng vũ lực: Là hành vi có mục đích là làm tê liệt hoặc vô hiệu hóa
sự kháng cự của nạn nhân để người thực hiện hành vi phạm tội tiến hành việc giao
cấu như: vật lộn, giữ chân tay, dùng hung khí de dọa, bịt mồm, dùng dây trói, bóp
cổ, đánh đấm... Thực tế có trường hợp nạn nhân bị dùng vũ lực tới mức ngất xỉu
(chưa chết), sau khi người phạm tội thực hiện xong hành vi thì người nạn nhân mới

12


chết, người phạm tội hiếp dâm còn phải về tội giết người do đã bỏ mặc cho hậu quả
xảy ra chết người.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực: Là hành vi của một người dùng lời nói hoặc
hành động mang tính bạo lực uy hiếp về tinh thần nạn nhân, làm cho nạn nhân sợ
hãi như: dọa giết chết, dọa tính mạng sức khỏe người thân, dọa đánh, dọa chém, dọa
bắn... làm cho nạn nhân không dám phản kháng, phải để cho người phạm tội thực
hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của mình. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở đây
bao gồm đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe dọa dùng vũ lực thông
thường do luật không quy định phân loại.
Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân: là trường
hợp nạn nhân vì lý do nào đó mà đã rơi vào tình trạng nếu như bị người khác tấn

công hoặc thực hiện hành vi giao cấu thì không thể phản kháng lại được. Tình trạng
này cũng có thể do chính người phạm tội cố ý tạo ra cho nạn nhân nhằm mục đích
thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của họ. Ví dụ: Bỏ thuốc mê vào nước
uống làm cho nạn nhân sau khi uống vào sẽ bị mê man không biết điều gì xảy ra
xung quanh và đối với mình, người phạm tội lợi dụng lúc này để thực hiện hành vi
giao cấu, hoặc vì lý do khách quan khác như nạn nhân bị tai nạn, say rượu bia, bệnh
tâm thần, đang lâm bệnh nặng ảnh hưởng đến việc nói và cử động hoặc dùng thuốc
trị bệnh có tác dụng làm cho ngủ sâu… nên không thể tự vệ được.
Hành vi dùng thủ đoạn khác: Là những thủ đoạn mà pháp luật chưa dự liệu
trước được ngoài những hành vi được quy định trong cấu thành tội hiếp dâm nêu
trên. Quy định này mang tính mở nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống và
xử lý tội phạm này. Ví dụ: Cho nạn nhân sử dụng ma túy, thuốc kích dục, xem phim
người lớn, và hiện nay tình trạng các thầy lang, thầy cúng trị bệnh, lợi dụng sự ít
hiểu biết của người dân tộc, bịa chuyện chữa bệnh bằng cách cho giao cấu với nhau
thì mới trị hết bệnh; học sinh muốn học giỏi thi đậu thì giao cấu sẽ đạt kết quả
cao… các hành vi này diễn ra khá phổ biến.
Hành vi giao cấu trái ý muốn của người bị hại là dấu hiệu bắt buộc đối với
cấu thành tội hiếp dâm nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng, đây
13


là vấn đề quan trọng xác định có tội hay không có tội (trái ý muốn hay đồng tình).
Trên thực tế, biểu hiện trái ý muốn của người bị hại được thể hiện ra bên ngoài, có
thể nhìn thấy được như vết cào cấu, tiếng kêu cứu, trầy xướt hoặc vết cắn, vùng vẫy
nhằm trốn thoát, vết bẩn bùn đất... Nhưng cũng có trường hợp nạn nhân sợ hãi, hoặc
sức khỏe yếu không có khả năng kháng cự, cho nên một vài trường hợp việc chứng
minh trạng thái tâm lý trái ý muốn nạn nhân có thể gặp trởi ngại, khó khăn. Có
trường hợp do có sự thỏa thuận nên khai mình bị hiếp dâm, có trường hợp tội phạm
ẩn diễn ra đã lâu nhưng vì sợ ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm mà không tố giác
nên khi phát hiện thì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, ngược lại có

trường hợp bị hiếp dâm thật nhưng do bị mua chuộc, hay bị đe dọa nên khai là có sự
đồng ý,... Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá cẩn trọng, khách
quan, phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như: mối quan hệ giữa các bên, thủ
đoạn thực hiện hành vi phạm tội, hoàn cảnh cụ thể xảy ra sự việc, ý kiến nhận xét
của cơ quan, tổ chức, bạn bè, cha mẹ...nhằm hạn chế việc chủ quan, đánh giá phiến
diện, tránh trường hợp xử lý oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Về hậu quả thiệt hại: Như đã phân tích trên, hành vi khách quan của tội hiếp
dâm gây ra không chỉ nguy hại về vật chất, thể chất mà còn nguy hại đến các quyền
nhân thân của người bị hại, đồng thời ảnh hưởng xấu đến các quan hệ xã hội khác
được pháp luật hình sự bảo vệ.
Tuy nhiên, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ
và hậu quả có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Nhóm dấu hiệu khách quan không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành
tội phạm như: công cụ, phương tiện thực hiện phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn
cảnh phạm tội... Tuy nhiên việc xác định các dấu hiệu này có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do những dấu hiệu
này góp phần xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, đồng thời thông qua đó làm rõ được nguyên nhân và điều kiện phạm tội, để từ
đó tìm ra các phương pháp hữu hiệu cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm hình thức.
14


Theo khoa học pháp lý, CTTP là tổng thể những dấu hiệu chung có tính đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi,
hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành
vi nguy hiểm cho xã hội.
Như vậy, ở đây có hai loại hành vi mà điều luật không quy định hậu quả

xảy ra do những hành vi này tác động lên, do vậy với quy định tại Khoản 1 Điều
142 BLHS 2015 đối chiếu với những căn cứ lý luận nêu trên ta nhận thấy nó thỏa
mãn các dấu hiệu của CTTP hình thức. Cũng có quan điểm khác cho rằng mục đích
cuối cùng của tội phạm là để “giao cấu” với người bị hại, nên chưa giao cấu thì
chưa coi là đã phạm tội hiếp dâm, do vậy tội hiếp dâm là tội cấu thành vật chất.
Tác giả cho rằng, hành vi giao cấu trong chuỗi hành vi là không bắt buộc
chỉ cần có hành vi khách quan nhằm giao cấu ngoài ý muốn nạn nhân là cấu thành
tội phạm, đã phạm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổithuộc trường hợp phạm tội
chưa đạt.
Có thể thấy cấu thành tội phạm chỉ nêu ra dấu hiệu của mặt khách quan là
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không nói đến hậu quả và mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả. Ở đây có thể hiểu, do tính chất nghiêm trọng của
hành vi hiếp dâm, xâm phạm vào khách thể có tầm quan trọng đặc biệt, chỉ cần
người nào thực hiện một hành vi trong mặt khách quan nghĩa là người đó có ý định
hiếp dâm người khác và có hành động dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm
mục đích giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ là đã đủ điều kiện để cấu thành
tội phạm, bất kể hành vi đó có được hoàn thành và gây hậu quả hay không. Như vậy
việc cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm chỉ cần đề cập đến hành vi gây nguy hiểm
mà không cần hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là đủ.
Với đặc điểm như vậy, có thể kết luận cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi là cấu thành tội phạm hình thức.
Các dạng hành vi tương ứng với các khung hình phạt đối với tội hiếp dâm
15


Dạng hành vi thuộc khung cơ bản: Khoản 1 Điều 142 quy định “Người nào
thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”. Tuy
chỉ là quy định mức hình phạt ở khung cơ bản, nhưng mức hình phạt cao nhất là 15
năm tù. Theo quy định tại Điều 9 BLHS 2015 thì đây là loại tội phạm rất nghiêm
trọng, chế tài rất nghiêm khắc.

Khung tăng nặng thứ nhất: Khoản 2 Điều 142 BLHS 2015 quy định:
“Có tính chất loạn luân;”
Tình tiết định khung này là đáng lên án nhất, cần phải xử lý nghiêm minh vì
tính chất nguy hiểm khôn lường về mặt hậu quả dài lâu của nó. Về mặt sinh học do
có cùng bộ gen, nếu hành vi này nếu dẫn đến sinh con thì hậu quả những đứa bé bị
quái thai, dị tật, khuyết tật, đần độn… do các gen lặn ẩn chứa nhiều ảnh hưởng xấu
gặp nhau dẫn đến thế hệ lớp người tương lai của đất nước, để lại một gánh nặng
khác cho gia đình nạn nhân, cho xã hội.
Bên cạnh đó, không thể không ảnh hưởng tới tập quán, thuần phong mỹ tục,
bởi hành vi đó đi ngược lại những giá trị về đạo đức, văn hóa, về luân lý, về lẽ
thường truyền thống, bị xã hội lên án phản đối, đó là sự biểu hiện trầm trọng về sự
suy đồi của đạo đức. Vì vậy, việc quy định đây là tình tiết dịnh khung tăng nặng cho
hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi với khung hình phạt như tại khoản 2 là đúng
đắn và hết sức cần thiết.
“b) Làm nạn nhân có thai;”
Các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định thai nhi là kết quả của việc giao
cấu giữa người phạm tội với nạn nhân, bởi vì có trường hợp nạn nhân bị hiếp dâm
nhưng thai nhi là kết quả của việc giao cấu với người khác hoặc tự nguyện giao cấu
khi dưới 16 tuổi, không phải của lần bị hiếp dâm (do bán dâm, hoặc giao cấu nhiều
lần, hoặc quan hệ với nhiều người khác nhau…) thì không thể áp dụng tình tiết định
khung tăng nặng này. Nhưng thực tế đôi khi các cơ quan tiến hành tố tụng lại bỏ
qua việc xác định này mà cứ kết án hình phạt theo hành vi hiếp dâm trẻ cùng thời
điểm nạn nhân mang thai một cách trùng hợp. Quy định tình tiết này là tình tiết cần

16


thiết, hợp lý, bởi nhà lập pháp dự liệu trong trường hợp này nhằm mục đích có mức
hình phạt tương thích đối với hành vi phạm tội.
“c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và

hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;”
Quy định tình tiết định khung này là phù hợp thực tiễn và hậu quả đến từ lỗi
vô ý của người phạm tội trong quá trình thực hiện hành vi gây ra thương tích cho
nạn nhân, tỷ lệ thương tích và tổn hại sức khỏe chính là tỷ lệ mất sức lao động.
Muốn đánh giá tỷ lệ thương tích cần phải căn cứ vào kết quả pháp y của Hội đồng
giám định pháp y kết luận. Nếu lỗi gây ra thương tật là lỗi cố ý, người phạm tội còn
bị truy tố thêm tội danh tại Điều 134 BLHS 2015.
Rối loạn tâm thần: Là các biểu trầm cảm, người bệnh có cảm giác buồn chán,
trống rỗng, khó tập trung suy nghĩ, hay quên, luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn
làm việc gì, cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều, hay
cáu gắt, giận dữ, giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày, giảm
cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều, nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc
hành vi tự sát.
Rối loạn hành vi: Là các biểu hiện không tuân theo những quy tắc xử sự
thông thường được xã hội chấp nhận như: Cư xử hung hãn, có hành động gây hại
cho bản thân và người khác, nói năng vô thức, khó thích ứng với xã hội. (Nguồn:
Internet).
“d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh;”
Điều kiện bắt buộc trong quy định tại trường hợp này là người phạm tội có
đang trực tiếp nghĩa vụ đối với nạn nhân. Ví dụ: quan hệ giữa cha mẹ với con cái,
bác sĩ với bệnh nhân, giáo viên với học sinh. Tình tiết này được áp dụng khi người
phạm tội lợi dụng tình cảnh, điều kiện thuận lợi trong công việc và mối quan hệ để
có hành vi xâm phạm tình dục đối với trẻ em.
“đ) Phạm tội 02 lần trở lên;”

17


Đây là điểm mới của BLHS 2015, trước đây BLHS 1999 có quy định tương

ứng là “phạm tội nhiều lần”.
Mặc dù chưa có văn bản chính thức về khái niệm thế nào là “phạm tội 02 lần
trở lên” nhưng thông qua các văn bản hướng dẫn thì có nhận thức chung “phạm tội
nhiều lần” tức là “phạm tội 02 lần trở lên”, theo đó người thực hiện tội phạm đã
phạm cùng một tội từ 02 lần trở lên, mà nếu tách riêng mỗi lần đó thì đều có đủ yếu
tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 (khung cơ bản) của Điều luật đó
(tội phạm đó) và chưa lần nào bị đưa ra xét xử, được miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong hình
phạt.
“e Đối với 02 người trở lên;”
Cũng giống như tình tiết “phạm tội 2 lần trở lên” có thể hiểu “phạm tội đối
với 2 người trở lên”, theo đó người thực hiện tội phạm đã phạm cùng một tội phạm
với từ 2 người trở lên, mà nếu tách riêng mỗi lần đó với từng người một thì đều có
đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 (khung cơ bản) của Điều
luật đó (tội phạm đó) và chưa lần nào bị đưa ra xét xử, được miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong
hình phạt.
“g) Tái phạm nguy hiểm.”
Khoản 2 Điều 53 BLHS 2015 quy định:
“2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do
cố ý.” [20, tr.36, 37]
Trong trường hợp là việc người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội
18



hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Quy định này nhằm mục đích xử lý người phạm tội
không có dấu hiệu cải tạo, hoàn lương, ngoan cố, tỏ ra ý thức coi thường pháp luật,
suy thoái nặng về đạo đức, cần thiết áp dụng hình phạt tăng nặng so với khung cơ
bản nhằm có thời gian nhiều hơn để giáo dục hoàn lương và phục thiện.
Khung tăng nặng thứ hai: Được quy định tại Khoản 3 Điều 142 BLHS 2015
như sau: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm,
tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;”
Đây là sự kết cấu chặt chẽ giữa các đồng phạm có tổ chức, vừa thể hiện đặc
điểm dấu hiệu chủ quan vừa thể hiện được đặc điểm của dấu hiệu khách quan, vừa
thể hiện mức độ liên kết về mặt chủ quan, vừa thể hiện mức độ phân hóa vai trò,
nhiệm vụ cụ thể về mặt khách quan của những người đồng phạm.
Theo quy định tại Điều 17 BLHS 2015 thì người tổ chức, người thực hành,
người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
“b) Nhiều người hiếp một người;”
Đây là trường hợp nhiều người cùng thực hiện hiếp một người, nhưng không
thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, và thực tế cũng có trường hợp có đồng phạm
thông thường.
“c) Đối với người dưới 10 tuổi;”
Bổ sung tình tiết này là cần thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn xã
hội hiện nay, thể hiện rõ sự phân hóa về độ tuổi của đối tượng tác động khi chủ thể
thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
ở độ tuổi dưới 13 tuổi: một là người dưới 10 tuổi, hai là người từ đủ 10 tuổi đến
dưới 13 tuổi.
“d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;”
Trường hợp này tương tự với trường hợp hiếp dâm gây tổn hại sức khỏe theo
Điểm c Khoản 2 Điều 142 BLHS 2015, chỉ khác nhau ở chổ tỷ lệ thương tật của nạn
nhân của trường hợp này phải từ 61% trở lên.

19


×