Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.63 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ VĂN BÌNH

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ VĂN BÌNH

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN



HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ Luật
học “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Long An” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Trần Văn Luyện.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Hồ Văn Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY .............................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy................................7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội mua bán trái phép chất ma túy
...................................................................................................................................19
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma
túy trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ....................................................26
Chương 2: ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN .........................................32
2.1. Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Long An ....32
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh

Long An.....................................................................................................................43
Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ..........................64
3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma
tuý ..............................................................................................................................64
3.2. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ....................................................65
3.3. Các giải pháp về tổ chức và tăng cường nguồn lực để bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy ....................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ADPL

: Áp dụng pháp luật

BCA

: Bộ công an

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


BTP

: Bộ tư pháp

CTTP

: Cấu thành tội phạm

HĐTP

: Hội đồng Thẩm phán

QPPL

: Quy phạm pháp luật

QPPLHS

: Quy phạm pháp luật hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTLT

: Thông tư liên tịch

TANDTC


: Tòa án nhân dân Tối cao

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Diễn biến tình hình tội mua bán trái phép chất ma túy so với tình hình tội
phạm nói chung giai đoạn 2012-2016 trên địa bàn tỉnh Long An...………....…….36
Bảng 2.2: Thống kê số bị cáo bị xét xử theo các khoản khác nhau theo Điều 194
BLHS giai đoạn 2012-2016 trên địa bàn tỉnh Long An. ………………………......37
Bảng 2.3: Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy giai đoạn 2012-2016 trên địa bàn tình Long An…………………………...51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma túy là hiểm họa đối với mọi quốc gia trên thế giới, gây tác hại cho
sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia
đình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển lành mạnh đối với kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, đe dọa sự ổn định về an ninh và chủ quyền của quốc gia. Ma túy là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm bùng phát đại dịch HIV/AIDS và hàng
loạt các tội phạm như: giết người, cưới tài sản, trộm cắp, hiếp dâm…. Chính vì vậy,
trong BLHS của Nhà nước ta, từ nhiều năm nay đã phải giành một chương quy định
các tội phạm về ma túy, trong đó có tội mua bán trái phép chất ma túy. Loại tội này

đã và đang xảy ra ở các địa bàn trên cả nước, trong đó có tỉnh Long An.
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam,
tỉnh Long An có diện tích 4.491,9 km2 với 13 huyện, thị xã, thành phố, trong đó có
5 huyện giáp biên giới với địa hình tương đối thuận lợi cho việc thông thương, xuất
nhập cảnh sang Campuchia nên từ trước đến nay Long An luôn là điểm nóng của
các loại tội phạm như buôn lậu, mua bán người, vận chuyển tiền giả…. đặc biệt là
các tội phạm về ma túy. Mặc dù đã có nhiều cố gắng về mặt lập pháp và tổ chức lực
lượng đấu tranh nhưng tình hình tội phạm về ma túy có xu hướng gia tăng với
những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, có sự câu kết chặt chẽ hình thành đường
dây mua bán ma túy lớn. Tội mua bán trái phép chất ma túy là tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, nhưng vì lợi nhuận
của ma túy đem lại rất lớn nên tội phạm về ma túy vẫn có chiều hướng gia tăng
trong những năm gần đây, kéo theo hàng loạt các vấn đề như sự xuống cấp trầm
trọng về đạo đức, các tệ nạn xã hội phát sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình
chính trị, trật tự và an toàn xã hội.
Qua thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử tại tỉnh Long An thì thấy rằng các tội
phạm về ma túy nói chung, tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng thường
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tổng số tội phạm hình sự. Các chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta đối với tội phạm về ma túy là rất toàn diện và nghiêm khắc.
1


Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy lùi tiến tới xóa bỏ
tệ nạn ma túy. Các hành vi liên quan đến tội phạm về ma túy đều bị xử lý bằng
những hình phạt rất nghiêm khắc. Cùng với cả nước, tỉnh Long An đã yêu cầu cấp
ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị tiếp tục nâng cao năng
lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng, chống ma túy… Tỉnh
Long An chỉ đạo sát sao các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm về ma túy trên
các tuyến giáp biên giới, điều tra, triệt phá các tổ chức, đường dây mua bán ma túy
lớn, các điểm, tụ điểm phức tạp trong nội địa, truy bắt các đối tượng bị truy nã về

tội phạm ma túy. Trên thực tế đã đạt được những kết quả nhất định, phát huy hiệu
quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó còn tồn tại những
hạn chế, sai sót như một số vụ án chưa đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra, nhiều bản án tuyên
khác với điều khoản, khung hình phạt và Viện kiểm sát đã truy tố sau đó bị kháng
nghị và phải chờ hướng giải quyết…. dẫn đến chất lượng và hiệu quả chưa cao. Quy
định về tội mua bán trái phép chất ma túy trong BLHS Việt Nam còn nhiều hạn chế,
bất cập gây ra những khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong
hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này. Từ các lý
do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm nội dung nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để có lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa học
sau đây đã được nghiên cứu và tham khảo:
2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận
- “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung” (2014), Võ Khánh Vinh,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
- “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” (2014), Võ Khánh
Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

2


- “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” (2007), Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên),
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- “Hoàn thiện một số quy định về hình phạt của BLHS năm 1999 nhằm đảm
bảo hơn nữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự” (2008), Hồ Sỹ Sơn, Tập chí
Luật học, (số 04), tr. 30-45;
- “Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam” Nxb Chính

trị quốc gia, 1994;
- “Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam”
2005, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội;
- “Định tội danh – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, GS. TSKH Lê Cảm,
Tạp chí Tòa án nhân dân các số 3, 4, 5, 8 và 11/1999;
2.2. Tình hình nghiên cứu thực tiễn
Các tội phạm về ma túy là tội phạm có tính nguy hiểm gây ra cho xã hội cao,
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp độ khác
nhau. Để phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện đề tài, những công trình khoa học sau
đây đã được tác giả tham khảo:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lai
Châu” của tác giả Nguyễn Huy Hoàng, Học viên Khoa học xã hội- Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, năm 2013;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành
phố Đà Nẵng” của tác giả Phạm Trung Hiếu, Học viên Khoa học xã hội - Viện Hàn
lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2013;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn
La” của tác giả Mai Ngọc Chính, Học viên Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam, năm 2017;

3


- Luận văn Thạc sỹ Luật học: “Định tội danh đối với tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”
của tác giả Phan Thị Hồng Thắng, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học: “Quyết định hình phạt đối với các tội phạm về

ma túy từ thực tiễn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình” của tác giả Phạm Văn
Khôi, Học viên Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm
2012;
- Các công trình nghiên cứu trên có giá trị liên quan đã được tác giả tham
khảo khi thực hiện đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối
với tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng, cũng như đánh giá thực tiễn áp
dụng trên địa bàn tỉnh Long An, từ đó đánh giá các điểm hợp lý và bất hợp lý trong
việc thực hiện những quy định của pháp luật hiện và rút ra được những kiến nghị
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự, bao gồm hoàn thiện quy định về tội
mua bán trái phép chất ma túy và các văn bản hướng dẫn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích như đã nêu trên, tác giả đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất
ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển
của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Khái quát những vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt,
đánh giá hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Long An từ năm 2012 đến năm 2016.
- Kiến nghị giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
sự về tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Long An từ năm 2012 đến
năm 2016.

4



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với
tội mua bán trái phép chất ma túy giai đoạn từ 2012-2016 trên địa bàn tỉnh Long
An, luận văn xác định và luận giải sự phù hợp hoặc chưa phù hợp giữa quy định của
pháp luật hình sự và thực tế thực hiện hành vi của người phạm tội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật hình
sự và Tố tụng hình sự;
- Về địa bàn, đề tài được thực hiện trong phạm vi tỉnh Long An;
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm 2012
đến 2016, gồm số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Long An;
- Về tội danh, đề tài nghiên cứu tội mua bán trái phép chất ma túy được quy
định tại Điều 194 BLHS 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước, pháp luật và những chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng tổng hòa các phương
pháp đặc thù của khoa học luật hình sự để nghiên cứu đó là: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
khái quát hóa để giải quyết những vấn đề khoa học được đặt ra từ nội dung đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về tội
mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999, có thể
được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học
5



viên. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất
ma túy nói chung và trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy.
Chương 2: Áp dụng các quy định về tội mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Long An.
Chương 3: Các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất
ma túy
1.1.1.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy
Chất ma túy là loại chất phức tạp, có rất nhiều ứng dụng trong y học, trong
công nghiệp dược phẩm. Mặt khác, đây cũng là loại chất gây nguy hiểm nếu bị lạm
dụng nên được Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý với những quy định rất
nghiêm ngặt. Do tác hại lâu dài và nhiều mặt của các hành vi vi phạm chế độ quản
lý chất ma túy nên mọi hành vi vi phạm ở bất kỳ khâu nào của quá trình quản lý

chất ma túy đều bị coi là tội phạm và được quy định trong BLHS Việt Nam năm
1999.
Căn cứ vào khái niệm tội phạm trong Điều 8 BLHS năm 1999 và các quy
định của pháp luật hình sự có liên quan, có thể đưa ra khái niệm: Các tội phạm về
ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm chế
độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và bị xử lý bằng hình phạt. Có thể hiểu
ngắn gọn, các tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội cố ý xâm
phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước được quy định trong BLHS Việt
Nam. Các tội phạm về ma túy có những đặc điểm chung như các loại tội phạm khác
được quy định trong BLHS gồm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình
sự, tính có lỗi và tính phải chịu hình phạt.
Trong số tất cả các tội phạm về ma túy được các quốc gia trên thế giới ghi
nhận thì tội phạm về vận chuyển và buôn bán ma túy là có lợi nhuận cao nhất và
cũng chiếm tỷ lệ phổ biến nhất. Do đó, Liên hợp quốc đã đưa ra Công ước Liên hợp
quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm
1988 (sau đây gọi là Công ước năm 1988). Quy định tại khoản 1 Điều 3 của Công
7


ước năm 1988 là luật mẫu cho các quốc gia tham khảo về “Tội phạm và hình phạt”
đối với các tội phạm về ma túy, quy định như sau:
Theo nội luật của mình, mỗi bên của Công ước sẽ áp dụng những biện pháp
cần thiết để coi là tội phạm hình sự những hành vi dưới đây nếu chúng được cố ý
thực hiện:
a) i) Sản xuất, điều chế, chiết xuất, pha chế, chào hàng, phân phối, bán, trao
đổi dưới bất cứ hình thức nào như môi giới, gửi, quá cảnh, vận chuyển, nhập khẩu,
xuất khẩu ma tuý và các chất hưởng thần trái với các quy định của Công ước năm
1961, Công ước năm 1961 sửa đổi hoặc Công ước năm 1971;
ii) Trồng cây thuốc phiện, cây côca hay cây cần sa với mục đích sản xuất trái

phép ma tuý trái phép với các quy định của Công ước năm 1961 và Công ước năm
1971 sửa đổi;
iii) Tàng trữ hoặc mua bán bất kỳ chất ma tuý hoặc chất hướng thần nào với
mục đích thực hiện bất kỳ hoạt động nào quy định tại điểm (i) nói trên;
iv) Điều chế, vận chuyển hay cung cấp phương tiện, nguyên liệu hoặc các
chất trong các Danh mục I và Danh mục II mà biết rõ những chất đó được sử dụng
để trồng trọt, sản xuất, điều chế trái phép các chất ma tuý hoặc các chất hướng thần;
v) Tổ chức, chỉ đạo hoặc tài trợ cho bất kỳ hành động phạm tội nào quy định
tại các điểm (i), (ii), (iii) hoặc (iv) nói trên;
b) i) Chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó thu được từ
bất kỳ hành vi phạm tội nào được quy định tại điểm (a) của khoản này hoặc từ việc
tham gia vào hoạt động phạm tội đó với mục đích che giấu hoặc ngụy trang nguồn
gốc bất hợp pháp của tài sản hoặc giúp bất kỳ người nào có dính líu vào hành vi
phạm tội như vậy trốn tránh trách nhiệm hình sự của hành vi đó;
ii) Che giấu hoặc ngụy trang bản chất thực sự nguồn gốc, địa điểm, chuyển
nhượng, chuyển quyển sở hữu tài sản mà biết rõ tài sản đó thu được từ hoạt động
phạm tội đã được quy định tại điểm (a) được quy định tại điểm này;
c) Dựa theo những quy định của Hiến pháp và những khái niệm cơ bản của
hệ thống pháp luật của từng nước;
8


i) Việc có được sở hữu, hoặc sử dụng tài sản mà vào thời điểm đó biết rõ đấy
là tài sản do phạm tội quy định tại điểm (a) khoản này hoặc do tham gia vào những
hoạt động phạm tội đó mà có;
ii) Tàng trữ những phương tiện, nguyên liệu hoặc các chất liệt kê trong Danh
mục I và Danh mục II mà biết rõ những thứ đó đang hoặc sẽ được sử dụng trái phép
cho các mục đích trồng, sản xuất hoặc điều chế các chất ma tuý và các chất hướng
thần;
iii) Bằng mọi cách kích động hoặc xúi giục người khác phạm tội quy định tại

Điều này hoặc sử dụng trái phép các chất ma tuý và các chất hướng thần;
iv) Tham gia, cấu kết hoặc có âm mưu phạm các tội quy định tại Điều này,
cũng như có hành vi giúp sức, xúc giục, thúc đẩy hoặc dụ dỗ người khác phạm bất
kỳ tội nào quy định tại Điều này.
Như vậy, tại khoản 1 Điều 3 của Công ước năm 1988 đã liệt kê đầy đủ tất cả
các hành vi liên quan đến các tội phạm về ma túy nói chung. Các nước tham gia
Công ước năm 1988 tùy tình hình và điều kiện thực tế tại mỗi quốc gia và dựa trên
Công ước để nội luật hóa, đảm bảo phù hợp với luật pháp quốc tế.
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có khái niệm thống nhất về Tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Tiến sĩ Phạm
Văn Beo đã định nghĩa: “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, chiếm đoạt
(bằng mọi hình thức) chất ma túy” [3, tr.255]. Một trong những định nghĩa về Tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy khá khái quát
của Thạc sĩ Đinh Văn Quế là: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy là hành vi cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại,
cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt,
trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt chất ma túy” [28, tr.78].
Qua khái niệm “Tội phạm” quy định theo khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999, khái
niệm “Các tội phạm về ma túy” và các định nghĩa về Tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Như vậy, khái niệm về tội mua bán trái
9


phép chất ma tuý có thể diễn đạt một cách đầy đủ như sau: “Tội mua bán trái phép
chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm chế độ quản lý Nhà nước đối với các chất ma túy”.
Khái niệm trên đây về tội mua bán trái phép chất ma túy thể hiện một số đặc
điểm của loại tội phạm này là:

- Về mặt pháp lý: Tội mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trái pháp luật
hình sự.
- Về mặt khách quan: Tội mua bán trái phép chất ma túy là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước trong các khâu lưu giữ,
vận chuyển, mua bán các chất ma túy.
- Về mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm: Tội mua bán trái phép chất ma
túy do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thực hiện bằng lỗi cố ý.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy theo
pháp luật hình sự Việt Nam
Để nhận thức sâu sắc hơn bản chất pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma
túy, cần đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của CTTP tội mua bán trái phép
chất ma tuý được phân thành 04 yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt
chủ quan của tội phạm.
a) Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại. Hệ thống pháp luật hình sự là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước
bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp, lợi ích công dân trong nhà
nước đó. Các chất ma túy là loại chất gây nghiện nguy hiểm, tuy nhiên ma túy cũng
là chất có rất nhiều những ứng dụng nhất định trong y học mà ta không thể phủ
nhận vai trò của chúng, do vậy theo quy định của Nhà nước, chỉ những cơ quan,
những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới được phép quản lý,
sản xuất, mua bán chất ma túy nhằm phục vụ cho các mục đích y học, dược học
10


(sản xuất thuốc và chữa bệnh) và nghiên cứu khoa học. Nhà nước độc quyền và
thống nhất quản lý các chất ma túy nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng chất ma
túy, bảo vệ sức khỏe công dân và ngăn ngừa các tội phạm và các tệ nạn liên quan
đến ma túy. Như vậy, Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 194

BLHS năm 1999 có khách thể trực tiếp là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước
về các chất ma túy. Mặt khác, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy còn gián tiếp
xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn xã hội và sức khỏe, tính mạng của công
dân.
Đối tượng tác động của tội phạm: Đối tượng tác động của tội phạm là bộ
phận của khách thể tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệu hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng của
tội phạm này là các chất ma túy. Ở nước ta, các chất ma túy thường gặp là: Thuốc
phiện, hêrôin, morphine, cần sa, các dạng ma túy tổng hợp (methamphetamine
suzusen,......) Các chất ma túy được quy định cụ thể trong:
- Theo 3 Công ước quốc tế về thống nhất các chất ma túy năm 1961, 1971,
1988 thì Ma túy là bất kì chất liệu nào được liệt kê trong bảng I, II, III, IV của các
Công ước, dù dưới dạng tự nhiên hay tổng hợp. Việt Nam đã tham gia 3 Công ước
này năm 1997;
- Theo quy định tại Điều 2 Luật phòng chống ma túy năm 2000;
- Theo Nghị định 82/2013/NĐ-CP Chính phủ ban hành các danh mục các
chất ma túy và tiền chất thì hiện nay các chất ma túy bao gồm 235 chất chia thành 3
danh mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất, điều chế ma túy.
Đối với một số trường hợp đặc biệt, trường hợp một người biết là chất ma
túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao
đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139
BLHS năm 1999 nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của
tội này. Trường hợp khác, sau khi giám định không phải là chất ma túy, nhưng
người thực hiện hành vi mua bán ý thức rằng đó là chất ma túy thì vẫn bị truy cứu
11


trách nhiệm hình sự theo Điều 194 của BLHS năm 1999. Theo quy định của pháp
luật, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định

để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy. Thực tế hiện nay xảy ra một
số trường hợp là sau khi gửi mẫu đi giám định thì kết luận của cơ quan giám định
xác định không phải chất ma túy, hoặc không phải chất ma túy theo quy định của
danh mục các chất ma túy do Chính phủ Việt Nam ban hành, nhưng lại thuộc danh
mục kiểm soát ma túy của quốc tế. Như vậy những trường hợp này vận dụng quy
định của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP,
nếu chứng minh được ý thức của người thực hiện hành vi mua bán rằng họ tin
tưởng đó là chất ma túy, thì họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1
Điều 194 BLHS năm 1999.
b) Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cơ bản cấu thành tội
phạm. Mặt khách quan được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Việc nghiên
cứu mặt khách quan của tội phạm có vai trò rất quan trọng trong việc định tội và
định khung hình phạt, và thông qua mặt khách quan chúng ta cũng có thể xác định
được mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm biểu hiện rõ nét nhất các yếu tố của tội phạm
mà con người có thể nhận biết trực tiếp được bao gồm các yếu tố:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ,
phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản,
những biểu hiện của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan,
không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Cụ thể đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy thì hành vi khách quan của tội phạm này là:
12



* Hành vi mua bán trái phép chất ma túy:
Tại tiểu mục 3.3, Mục 3 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BTP đã giải thích cụ thể “Mua bán trái phép chất ma túy” là
một trong các hành vi sau đây:
- Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc
chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để
hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác: Bán trái phép chất ma túy cho người khác là
dùng ma túy mình có được dưới bất kỳ hình thức nào như: mua được, xin được,
nhặt được, người khác gửi bán hộ hoặc chiếm đoạt được ma túy… để bán cho người
khác lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích khác. Trường hợp bán hộ chất ma túy cho người
khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác cũng đều bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Điều 194 của BLHS năm 1999 là để tránh một số trường hợp trên thực
tế người phạm tội khi bị phát hiện, bắt giữ khai bán hộ chất ma túy cho người khác
nhằm phủ nhận hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: là dùng tiền, tài sản
hoặc lợi ích khác để đổi lấy chất ma túy và dùng chất ma túy đó để bán lại cho
người khác nhằm thu tiền hoặc tài sản. Chỉ khi nào xác định được rõ hành vi mua
chất ma túy nhằm mục đích bán lại cho người khác thì mới được truy cứu trách
nhiệm hình sự về Tội mua bán trái phép chất ma túy. Việc xác định hành vi mua
chất ma túy có nhằm mục đích bán trái phép hay không cần được xác định rõ bởi đó
là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội mua bán trái phép chất ma túy.
Việc xác định mục đích người mua chất ma túy có nhằm bán trái phép hay không
cũng chỉ phức tạp trong trường hợp ma túy có trọng lượng (thể tích) ít và người
phạm tội khai nhận mua là để sử dụng. Còn đối với trường hợp người mua lượng
ma túy lớn thì việc xác định mục đích đơn giản hơn và căn cứ vào những tình tiết
xung quanh vụ án, có thể xác định được Tội mua bán trái phép của người phạm tội.
Việc xác minh người phạm tội có mục đích bán chất ma túy cho người khác hay
không là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đây
là nhiệm vụ quan trọng bởi nếu không chứng minh được mục đích mua bán của
13



người phạm tội thì tùy trường hợp chỉ có thể truy tố người phạm tội về Tội tàng trữ
hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy, mà trên thực tế thì đó là những tội có mức
độ nguy hiểm thấp hơn Tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: Hành vi xin chất ma
túy nhằm bán trái phép cho người khác là bằng lời nói hoặc hành động để người
khác cho mình chất ma túy, rồi sau đó đem chất ma túy đó bán cho một người thứ
ba để lấy tiền hoặc tài sản. Nếu xin được chất ma túy và bán ngay thì hành vi của
người phạm tội là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Nếu xin được chất ma
túy, đem cất giữ qua một thời gian rồi mới đem bán, thì đó là hành vi tàng trữ, mua
bán trái phép chất ma túy.
- Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có.
- Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy
nhằm bán lại trái phép cho người khác.
- Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: là hành vi cất giữ
chất ma túy (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) sau đó đem
bán chất ma túy đó cho người khác để lấy tiền hoặc tài sản.
- Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác: là hành vi
chuyển dịch ma túy bằng bất kỳ hình thức nào từ địa điểm này đến địa điểm khác,
với mục đích để bán chất ma túy cho người khác để lấy tiền hoặc tài sản. Nếu không
chứng minh được mục đích vận chuyển là để bán cho người khác thì chỉ có thể định
tội danh là vận chuyển trái phép chất ma túy. Việc chứng minh mục đích mua bán
chất ma túy của người phạm tội là trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành
tố tụng.
Với hành vi bán trái phép chất ma túy, dùng chất ma túy nhằm trao đổi,
thanh toán trái phép đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 194 BLHS năm
1999, không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy đó do đâu mà có. Còn lại các
hành vi khác như mua, xin, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy… thì cần
phải chứng minh được mục đích thực hiện hành vi này là bán trái phép chất ma túy

14


đó. Như vậy, khi xác định hành vi mua bán trái phép chất ma túy có một số vấn đề:
Thứ nhất, chất ma túy mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ
thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có; không phụ thuộc vào chất ma túy
đó là thật hay là giả, hàm lượng cao hay thấp. Cũng tức là hành vi mua bán trái
phép chất ma túy tự nó đã xác lập tội danh cho người phạm tội, các yếu tố về chất
hay về lượng và các vấn đề liên quan khác chỉ góp phần định khung hình phạt. Thứ
hai, trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi mua bán trái phép chất ma túy
kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt chất ma túy
thì tùy từng trường hợp cụ thể mà định tội là “Tội tàng trữ, mua bán trái phép chất
ma túy”, “Tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy”, “Tội chiếm đoạt, mua
bán trái phép chất ma túy”.
Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao có hướng dẫn về trách nhiệm hình sự cho một số trường hợp về Tội mua bán
trái phép chất ma túy như sau:
- Điểm a mục 2 phần II quy định: người nào biết người khác đi mua chất ma
tuý để sử dụng trái phép mà gửi tiền nhờ mua hộ chất ma tuý để sử dụng và sau khi
mua được chất ma tuý người đi mua bị bắt giữ, thì việc xác định trọng lượng chất
ma tuý để xem xét trách nhiệm đối với từng người như sau: Người nhờ mua hộ chỉ
phải chịu trách nhiệm về trọng lượng chất ma tuý mà họ nhờ mua hộ; người đi mua
phải chịu trách nhiệm về tổng trọng lượng chất ma tuý đã mua được (cho bản thân
và mua hộ).
- Điểm e mục 2 phần II quy định: người nào bán trái phép chất ma tuý cho
người khác và còn cho họ sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc
quản lý của mình để họ sử dụng trái phép chất ma tuý, thì ngoài Tội mua bán trái
phép chất ma tuý, người đó còn phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội chứa chấp sử
dụng trái phép chất ma tuý.
c) Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy

Theo quy định của luật hình sự Việt Nam thì chủ thể của tội phạm là con
người cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật
15


hình sự quy định là tội phạm và thỏa mãn điều kiện có năng lực TNHS và đủ tuổi
chịu TNHS. Ngoài ra ở một số tội phạm đặc biệt, để có thể thực hiện được hành vi
khách quan của tội phạm hay để phản ánh chính sách hình sự riêng của Nhà nước,
chỉ coi là chủ thể của tội phạm khi có thêm các dấu hiệu đặc biệt khác như đặc điểm
xấu về nhân thân của chủ thể vì đặc điểm này mà hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất
định bị coi là tội phạm. Đó là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy cũng phải đảm bảo đủ các yếu
tố (điều kiện) cần và đủ là độ tuổi và năng lực TNHS quy định tại Điều 12, 13
BLHS. Đối với chủ thể của tội này không yêu cầu phải là chủ thể đặc biệt, tuy nhiên
trong từng khoản của tội danh, cần xác định độ tuổi chịu TNHS cho đúng, cụ thể
như sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Khoản 1 Điều 194 BLHS, vì khoản 1
Điều 194 BLHS là tội phạm nghiêm trọng, và theo quy định tại Điều 12 BLHS thì
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy
cứu TNHS về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS về tội mua bán trái phép chất ma túy
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 194 BLHS, vì các
trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
Tuy nhiên khi truy cứu TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên cần phải
lưu ý đến vấn đề người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi “phạm tội
nhiều lần” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 194 BLHS vì theo hướng dẫn tại
mục 10 Nghị quyết số 01/2006/ NQ – HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao thì hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS có
quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma túy
của các lần cộng lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng
16


chất ma túy của tất cả các lần đó đến mức tối thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m,
n hoặc o khoản 2 Điều 194 BLHS thì họ không phải chịu TNHS về tội mua bán trái
phép chất ma túy”. Như vậy, không phải cứ người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện hành vi “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 194
BLHS cũng đều bị truy cứu TNHS.
d) Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội phạm là thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách
quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan của
tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội
phạm không tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội
phạm. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm động cơ phạm tội, mục đích phạm tội và
lỗi của người phạm tội, trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội
phạm. Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất trong mặt chủ quan của tội phạm. Lỗi là thái
độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với
hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Người
thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi khi hành vi đó là kết quả
của sự tự lựa chọn cách xử sự trái pháp luật hình sự trong khi họ có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật. Lỗi trong
luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi của một con người cụ thể khi thực hiện
hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Về phân loại lỗi, Điều 9 và Điều 10 BLHS
1999 phân chia thành: lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin, lỗi
vô ý do cẩu thả.
Trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi năm 2013 ghi nhận, quyền tự

do kinh doanh, sở hữu tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt là quyền công dân, được
Nhà nước và pháp luật bảo hộ [31, Điều 32 và Điều 33]. Tuy nhiên, các chất ma túy
là loại “hàng hóa” đặc biệt, được nhà nước độc quyền thống nhất quản lý, nghiêm
cấm hành vi mua bán trái phép cho nên những người thực hiện hành vi kể trên đều
bị coi là tội phạm và đều bị coi là có lỗi đối với hành vi mà họ thực hiện.

17


Lỗi của người phạm tội mua bán trái phép chất chất ma túy là lỗi cố ý trực
tiếp:
- Về lý trí, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi đó. Do ma túy là chất cấm, được Nhà nước bằng mọi biện pháp tuyên truyền đến
sâu rộng nhân dân về tính chất và mức độ nguy hiểm của ma túy, việc nghiêm khắc
cấm mọi hình thức mua bán, việc đe dọa áp dụng hình phạt nặng đối với các tội
phạm về ma túy… Hầu hết tất cả mọi người dân, không phân biệt giới tính, độ tuổi,
dân tộc đều được phổ biến, giáo dục nhận thức về các chất ma túy và các tội phạm
ma túy, vậy nên việc thực hiện các tội phạm về ma túy nói chung và tội phạm mua
bán chất ma túy đều là những tội phạm thể hiện thái độ chống đối chính sách, pháp
luật của Nhà nước, trái pháp luật hình sự, cố ý phạm tội, đòi hỏi phải bị xử lý bằng
các biện pháp hình sự. Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận
thức được rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được hậu quả của hành
vi nhưng vẫn quyết tâm thực hiện.
- Về ý chí, người phạm tội mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra,
mong muốn hậu quả mà họ đã có thể thấy trước, đã hình dung ra khi thực hiện hành
vi nguy hiểm sẽ xuất hiện hậu quả nào đó trên thực tế. Nhận thức được hành vi mua
bán ma túy là hành vi trái pháp luật, họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để
lựa chọn và thực hiện xử sự khác nhưng họ vẫn thực hiện hành vi mua bán ma tuý.
Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy chỉ có thể được thực hiện do cố ý

trực tiếp, không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp. Nhưng đối với hành vi chiếm
đoạt chất ma túy thì người phạm tội có thể thực hiện hành vi do cố ý gián tiếp trong
trường hợp người phạm tội không cần xác định đối tượng, là ma túy cũng chiếm
đoạt mà tài sản khác cũng chiếm đoạt.
Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 là
tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả của tội phạm không phải dấu hiệu bắt
buộc. Điều 194 chỉ quy định dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội và việc một
người thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong điều luật quy định tội phạm
18


thì bị coi là phạm tội và tội phạm đã hoàn thành. Có nhiều động cơ thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy và họ còn có nhiều mục
đích khác nhau khi thực hiện hành vi này. Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội
cũng không phải yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm này. Nhưng có thể nói
tựu chung lại, chủ yếu động cơ, mục đích mà loại tội phạm này hướng đến là tiền,
tài sản hoặc lợi ích khác về vật chất có được từ việc phạm tội.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội mua bán trái phép
chất ma túy
Điều 194 BLHS 1999 có quy định 4 khung hình phạt. Khung hình phạt cơ
bản được quy định tại khoản 1 Điều 194 với mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy
năm. Khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều
194 có mức hình phạt cao hơn mức hình phạt quy định tại khung hình phạt cơ bản.
Theo đó phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 thì bị phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm; phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3
Điều 194 thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm; phạm tội thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194 thì bị phạt tù từ hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình. Hình phạt bổ sung đối với tội mua bán trái phép chất ma túy
được quy định tại khoản 5 Điều 194, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu
đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm.
Ngày 09/12/2000, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật
Phòng, chống ma túy. Đây là đạo luật đầu tiên về phòng, chống ma túy và đã tạo cơ
sở pháp lý hiệu quả hơn trong việc đấu tranh, phòng ngừa tệ nạn ma túy.
Ngày 14/11/2015 Thông tư liên tịch số 08/2015/ TTLT – BCA – VKSNDTC
– BTP sửa đổi bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT –
BCA- VKSNDTC – TANDTC – BTP quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng Điều
194 nói riêng và chương XVIII “các tội phạm về ma túy nói chung” của BLHS
1999. Thông tư này đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình giải
quyết các vụ án về ma túy.
19


×