Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận giáo dục học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.77 KB, 22 trang )

A.
1.

PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài

Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh ra và lớn lên, nơi thế hệ trẻ
được chăm lo cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần, nhân cách, là môi trường giáo
dục đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định đến hình thành đạo đức của con
người. Giáo dục nhà trường, xã hội là những môi trường giáo dục rất quan
trọng, song vai trò của nó chỉ phát huy hiệu quả khi lấy giáo dục gia đình làm
cơ sở. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xã hội có nhiều đổi mới nhưng
giáo dục gia đình vẫn được các bậc cha, mẹ chú ý, quan tâm, những giá trị
truyền thống đạo đức của gia đình, của dân tộc vẫn được tiếp tục gìn giữ và phát
huy.
Chủ tịch Hồ CHí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề gia đình. Người khẳng
định: “Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt
nhân của xã hội là gia đình”. Trong bối cảnh đất nược và quốc tế đang có những
thay đổi về mọi mặt, đặc biệt từ khi nước ta bước và thời kỳ đổi mới, hội nhạp
kinh tế quốc tế sâu rộng thì vai trò của gia đình ngày càng có vai trò quan trọng,
trong đó đề cao và nhấn mạnh vai trò giáo dục đạo đức của gia đình. Bởi vì, gia
đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng giúp hình thành
và giáo dục đạo đức, góp phần vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đạo đức con người bắt đầu hình thành từ rất sớm. Lứa tuổi trung học phổ thông
là giai đoạn thay đổi rõ rệt nhất trong quá trình hình thành đạo đức con người.
Để trở thành một người có đạo đức tốt thì viecj giáo dục khổng chỉ thể hiện ở
lời nói mà phải bằng những công việc cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của
người lớn, nhất là cách “đối nhân xử thế” của các thành viên trong gia đình có
tác động trực tiếp đến việc hình thành và phát triển đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông. Qua những việc làm cụ thể, người lớn từng bước uốn nắn những
hành vi lệch lạc, ngăn chặn những hành vi trái với chuẩn mực xã ội của con cái.


Việc giáo dục và hình thành đạo đức con người trong gia đình có tính chất đặt
nên móng, mang tính quyết định trong bước đi đầu tiên. Là xuất phát điểm đầu
tiên, là trường học đầu tiên trong giáo dục con người. Gia đình, nhà trường, xã
hội là ba môi trường liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình hình
thành và phát triển đạo đức của mội cá nhân. Gia đình là một trong ba môi
trường xã hội hóa trẻ em, quyết định trực tiếp đến mặt tự nhiên và xã hội của


mỗi cá nhân, thông qua gia đình mội cá nhân ngày càng hoàn thiện hơn và cá
nhân có thể tiếp nhận những giá trị mới, những chuẩn mực xã hội. Để từ đó có
thể bước sang một môi trường mới, cao hơn và hoàn thiện bản thân mình, trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Nói như vậy, gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mooiix cá nhaan
trong quá trình phát triển, liên tục tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ các tành
viên trong gia đình. Gia đình truyền thụ những cho cá nhân những giá trị văn
hóa truyền thống cũng như những giá trị văn hóa hiện đại tạo nên những giá trị
xã hội và đạo đức của mội cá nhân. Vậy gia đình có ảnh hưởng như thế nào
trong việc giáo dục đạo đức? với ý nghĩa quan trọng đó để làm sang tỏ vấn đề
trên tôi chọn đề tài “ảnh hưởng của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ toong hiện nay – thực trạng và giải pháp”.
2.

Mục đích nghiên cứu.

Thông qua việc tìm hiểu lí thuyết và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu tôi nhằm
đề ra một số giả pháp nhằm nâng cao vai trò giáo dục của gia đình trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
3.
4.
5.

6.
7.

Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tìm hiểu cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Đề xuất các giải pháp liên quan.
Đối tượng, khách thể nghiên cứu.
Đối tượng: ảnh hưởng của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông.
Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thong.
Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc tài liệu
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: trò chuyện, quan sát, lấy ý kiến chuyên
gia…
Phạm vi nghiên cứu.
Giáo dục đạo đức.
Học sinh trung học phổ thông.
Đóng góp đề tài.


Thông qua đề tài này, em muốn chia sẻ một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông nhằm giúp cho cán
bộ quản lí cũng như giáo viên giáo dục đạo đức cho học sinh tốt hơn.
B.

NỘI DUNG

Chương 1: cơ sở lí luận của đề tài.

1.1.

Một số khái niệm liên quan.
1.1.1. Biện pháp là gì?

Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
1.1.2.

Giáo dục là gì?

Giáo dục (theo nghĩa rộng): Là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có
mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo dục
với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh
nghiệm xã hội của loài người.
Để hiểu rõ hơn khái niệm Giáo dục (theo nghĩa rộng) cần làm sáng tỏ khái niệm
nhân cách và khái niệm xã hội hoá con người.
Hình thành nhân cách: Đó là quá trình phát triển con người về mặt sinh lý, tâm lý
và mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất. Quá trình
này diễn ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di truyền, tính tích
cực của chủ thể…), và các nhân tố bên ngoài (ảnh huởng của hoàn cảnh tự nhiên
và hoàn cảnh xã hội, tác động giáo dục), do ảnh hưởng của các tác động tự phát,
ngẫu nhiên (tác động bên trong, bên ngoài chưa được kiểm soát, điều khiển) và các
tác động có mục đích, có tổ chức (kiểm soát được, điều khiển được). Quá trình này
làm biến đổi đứa trẻ với những tư chất vốn có của con người thànhmột nhân cách.
Xã hội hoá con người: Đó là quá trình có tính chất xã hội hình thành nhân cách.
Quá trình này chỉ bao hàm các tác động do những nhân tố xã hội; xã hội tác động
một cách có mục đích, có tổ chức tới cá nhân, mặt khác cá nhân tích cực tái sản
xuất các mối quan hệ xã hội bằng hoạt động, bằng sự tham gia tích cực vào môi
trường xã hội. Từ đó, giáo dục nói một cách khác là sự xã hội hoá con nguời chỉ
dưới những tác động có mục đích và có tổ chức.

Giáo dục (theo nghĩa hẹp): Đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá trình
hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ,
tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong


xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thẻ lực.
Chức năng trội của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) chỉ được thực hiện trên cơ
sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến tình cảm và hành vi.
1.1.3.

Đạo đức là gì?

Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong tính
cách và giá trị của một con người. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những
công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn
luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong
đời sống và tâm hồn.
Đạo đức có thể được nhìn thấy theo các góc độ sau:


Nghĩa hẹp: Đạo đức thể hiện nét đẹp trong phong cách sống của một người
hiểu biết và rèn luyện ý chí theo các bậc tiền nhân về các quy tắc ứng xử, các
đường lối tư duy thanh tao tốt đẹp.



Nghĩa rộng hơn: đạo đức trong một cộng đồng thể hiện qua những quy tắc
ứng xử được áp dụng từ việc hợp với đạo lý xưa nay và phong tục của địa
phương, cộng đồng đó. Tạo thành nét đẹp truyền thống văn hóa.



Nghĩa rộng: Đạo đức của cả một xã hội thường được xét đến khi xã hội đó bị
hỗn loạn và thiếu chuẩn mực. Khi đó những bậc trí giả sẽ định ra những
chuẩn mực cơ bản nhất để tạo dựng nên nền tảng đạo đức. Khi đã đạt đạo
đức cơ bản nhất thì đó là đạo đức xã hội. Từ đó học tập đi lên thành các
thành phần cao cấp hơn.
1.1.4. Giáo dục đạo đức là gì?

Giáo dục đạo đức là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm giúp
cho nhân cách mỗi học sinh dược phát triển đúng đắn, giúp cho học sinh có những
ững xử chuẩn mực trong các mối quan hệ trong và ngoài xã hội.
1.1.5.

Học sinh trung học phổ thông.

Học sinh trung học phổ thông còn gọi là tuổi thanh niên, là giai doạn phát triển bắt
đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được
tính từ 15 đến 25 tuổi, được cia thành 2 thời kỳ:


Thời kỳ từ 15 dến 18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên.




Thời kỳ từ 18 đến 25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên ( thanh niên sinh
viên)
1.1.6. Gia đình là gì?

Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan

hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và hoặc
quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát
triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ
đến xã hội.
1.2.

Vị trí của gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.2.1. Vai trò của gia đình.

Gia đình là xã hội thu nhỏ, gia đình là tế bào của xã hội. Nói như thế để thấy được
vai trò của gia đình trong xã hội ngày nay, đặc biệt là trong vấn đề giáo dục đạo
đức cho con cái. Truyền thống đạo đức của gia đình có ảnh hưởng sâu sắc và trực
tiếp đến con cái. Ngay từ khi lọt lòng, trẻ đã được chăm sóc, nuôi dạy cùng với
những người thân yêu trong gia đình. Số thời gian trẻ sống ở gia đình cũng nhiều
hơn ở trường, do vậy, mối quan hệ ông bà, cha mẹ, anh chị em có ảnh hưởng trực
tiếp đến tình cảm của trẻ. Đặc biệt với tuổi vị thành niên, các em dần hình thành
thái độ nhận xét, đánh giá về sự quan tâm, mối tương quan giữa các thành viên
trong gia đình… Chính điều này sẽ xây dựng nên tình cảm của các em với các
thành viên trong gia đình.
Khi trẻ được sống trong một gia đình nề nếp, có những giá trị đạo đức của xã hội
được ông bà, cha mẹ và anh chị em lựa chọn, điều này sẽ tác động trực tiếp,
thường xuyên, lâu dài và mạnh mẽ đến các em. Do vậy các em dễ dàng tiếp nhận
và thực hiện một cách tự nguyện. Trẻ vị thành niên là những người đang phát triển
rất mạnh mẽ về óc phê phán và nhận xét, do vậy, dưới sự định hướng của gia đình,
kết hợp với truyền thống đạo đức của gia đình, sẽ tác động rất tích cực tới đời sống
và các hành vi đạo đức của các em. Còn khi gia đình không hòa thuận, ông bà, cha
mẹ không sống đúng với vai trò của mình, cha mẹ không quan tâm đến con cái, chỉ
biết làm giàu, coi việc giáo dục là của nhà trường, không biết con cái cần gì, suy
nghĩ gì, ai cũng sống ích kỷ… thì sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống
đạo đức của trẻ.

Gia đình rất quan trọng trong việc hình thành nề nếp đạo đức, lối sống cho con cái.
Sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ, ân cần chỉ bảo của cha mẹ tác động rất nhiều đến
con trẻ. Ví dụ như trước khi con cái đi học, cha mẹ đều dạy dỗ, dặn dò kỹ lưỡng
con em luôn ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc gòn gàng, vào lớp học không được nói


chuyện, cười giỡn… thì nhất định các em sẽ trở thành những con ngoan, trò giỏi,
có ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Nhận thức được vấn đề này, mới thầy tầm quan trọng,
sự ảnh hưởng của gia đình với việc hình thành nên đạo đức lối sống cho các em.
Từ thuở thơ ấu, bài học đầu đời dành cho con trẻ chính là việc chào hỏi ông bà, cha
mẹ, anh chị, bà con cô bác khi tiếp xúc gặp gỡ. Bản thân tác giả cũng lớn lên từ
một vùng quê và chịu sự ảnh hưởng, tác động rất lớn từ truyền thống đạo đức của
gia đình, làng xã. Khi có khách đến nhà, cha mẹ thương nhắc nhở con cái “Vòng
tay chào ông/bà/bác/chú đi con”. Sự coi trọng trong việc giáo dục lễ phép cho con
cái đã dần hình thành nên nhân cách tốt nơi các em. Ở các vùng quê, hầu hết các
em đều được thu nhận bài học này. Ra đường, đi học về, gặp người lớn là vòng tay
chào hỏi. Tuy nhiên ngày nay, nhiều gia đình, đặc biệt là các gia đình thành phố lại
không coi trọng chuyện này và cho đó là bài học… không cần thiết. Vô hình dung,
cha mẹ đã dạy con cái lối sống không coi trọng lễ phép, thiếu sự tôn trọng người
lớn và không quan tâm đến những người xung quanh…
“Dạy con từ thuở còn thơ” – đó là điều mà các bậc cha mẹ luôn phải tâm niệm.
Nhiều bậc phụ huynh không ý thức được vấn đề này, cứ để con cái sống tự do. Đến
khi nhận thấy con hư, con khó bảo, không vâng lời, có muốn uốn nắn, muốn giáo
dục thì cũng đã muộn vì “nhỏ không ươm, lớn gãy cành”. Vậy nên, ngay khi còn
uốn nắn được, các bậc cha mẹ nên dạy con những bài học tuy sơ đẳng nhưng lại tối
quan trọng như chào hỏi, đi thưa về gửi, ăn nói văn minh lịch sự, không nói dối,
không nói tục chửi thề… Với lứa tuổi vị thành niên – tuổi gần bạn xa mẹ - nếu cha
mẹ cứ để con cái tự do, không giáo dục, cứ để con cái đi đâu thì đi, chơi với ai
cũng không cần quan tâm… thì thật dễ xảy ra những rủi ro, những hậu quả đáng
tiếc.

Qua một vài phân tích trên đây có thể nhận thấy, vài trò của gia đình là rất quan
trọng trong việc giáo dục đạo đức cho con cái. Truyền thống văn hóa, đạo đức gia
đình ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của các em. Khi gia đình coi
trọng việc dạy dỗ đạo đức cho con cái, bắt đầu bằng những bài học rất đơn sơ như
chào hỏi, thưa gửi… sẽ giúp trẻ ý thức được mỗi lời nói cũng như từng hành vi cử
chỉ của mình. Trẻ vị thành niên là người dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi những lời
nhận xét, đánh giá, những lối sống, trào lưu sống bên ngoài, do vậy, giáo dục cho
các em có một lối sống đạo đức vững vàng là cần thiết để các em có thể đứng vững
và trưởng thành, trở thành một người con ngoan hiền, giúp ích cho bản thân, gia
đình và xã hội.
1.2.2. Vị trí – ý nghĩa.
Giáo dục đạo đức là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh
nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp cho học


sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ; của cá nhân và xã
hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cả cá
nhân với chính bản thân mình. Trong tất cả các mặt, giáo dục đạo đức giữ một vị
trí hết sức quan trọng. Hồ Chủ Tịch đã nêu: “dạy cũng như học, phải biết chú trọng
cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không
có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”. Giáo dục đạo dức còn có ý nghĩa
lâu dài, được thức hiện thường xuyên và trong mọi tình hướng chứ không phải chỉ
được thực hiện trong những tình huống phức tạp hoặc trong những tình huống cấp
bách. Trong nhà trường trung học phổ thông, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục
phải được đặc biệt coi trọng, nếu được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện
sẽ được nâng lên vì đạo đức có mối liên hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác. Để
thực hiện được yêu cầu về nội dụng giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường
trung học phổ thông thì: Vai trò của tập thể sư phạm giữ một vị trí quan trọng có
tính quyết định, trong đó vai trò của Hiệu trưởng, người chỉ đạo tổ chức thực hiện
kế hoạch giáo ducjcuar nhà trường là quan trọng nhất. Vai trò của cấu trúc và nội

dung chương trình môn giáo dục công dân cũng góp phần không nhỏ đối với công
tác này.
1.2.3. Đặc điểm của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh.
Giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ đòi hỏi chỉ dừng lại ở việc truyền thụ
khái niệm tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải thể hiện
thành tình cảm, niềm tin, hành động thức tế của học sinh. Quá trình dạy học chủ
yếu được tiến hành trong các giờ học trên lớp; còn quá trình giáo dục đạo đức
không cỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể hiện thông qua tất cả các hoạt
động có thể có trong nhà trường. Đối với học sinh trung học phổ thông, kết quả của
công tác giáo dục đạo đức còn phụ thuộc vào nhan cách người giáo viên, gương
đạo đức của người giáo viên sẽ có tác động quan trọng vào việc học tập, rèn luyện
của các em. Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố học tập có thể
giữ vai trò hết sức quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chỉ đạt kết
quả tốt khi nó có tác động thức sự với các lực lượng giáo dục: nhà trương, gia đing
và xã hội. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đòi hỏi người giáo viên phải nắm
vững các đặc điểm tâm – sinh – lý lứa tuổi học sinh, nắm vững cá tính, hoàn cảnh
sống của từng em để từ đó có thể tạo ra sự tác động thích hợp. Giáo dục đạo đức à
một quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi người giáo ciên phải thật kiên trì, phải có sự
đầu tư công phu và được lặp đi lặp lại nhiều lần.
1.3.
Nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.3.1. Nội dung giáo dục đạo đức.
Nội dung giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa bao gồm các phẩm chất đạo đức được
thể hiện dưới dạng các biểu hiện về hành vi đạo đức, các khái niệm về các quy tắc
đạo đức, các thói quen ứng xử trong các quan hệ đạo đức…


Những yếu tố của tri thức, tình cảm và thói quen đạo đức được chứa đựng trong
nội dung của tất cả các môn học trong nhà trường, trong yêu cầu về nội dung, thái
độ của học sinh tham gia các loại hình hoạt động đa dạng trong và ngoài nhà

trường, trong giao lưu tập thể trong và ngoài xã hội nơi học sinh học tập và sinh
sống.
1.3.2. Hình thức giáo dục đạo đức.
Hình thức tổ chức giáo dục cho học sinh trung học phổ thông bao gồm các hình
thức tổ chức dạy học và hoạt động giáo dục trên lớp, trong và ngoài nhà trường.
Các hình thức giáo dục phải đảm bảo cân đối, hài hòa giữa dạy học các môn học và
hoạt động giáo dục; giữa dạy học theo lớp, nhóm và cá nhân, bảo đảm chất lượng
giáo dục chung cho mọi đối tượng và tạo điều kiện phất triển năng lực cá nhân của
các em.
Đối với học sinh có năng khiếu, có thể vận dụng hình thức tổ chức dạy học và hoạt
động giáo dục phù hợp nhằm phát triển năng khiếu đó.
Giáo viên cần chủ động lựa chọn, vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức
giáo dục cho phù hợp với nội dung và đối tượng và điều kiện cụ thể.
Các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh.
Phương pháp thuyết phục: Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm
1.4.

của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
- Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng
như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ…
- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện,
đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương
tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
- Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những
hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.
Phương pháp rèn luyện: Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt
động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức
và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế:



- Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy
học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể.
- Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện
pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên
trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức
tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh
tham gia tốt phong trào này.
- Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có
hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của
trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đã bằng cách gây
cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động
có hại.
Phương pháp thúc đẩy: Là phương pháp dùng những tác động có tính chất
“cưỡng bách đạo đức bên ngoài” để điều chỉnh, khuyến khích những “động cơ
kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh.
- Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học
sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để
có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
- Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh
làm cho bản thân học sinh đã vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em
khác noi theo.
- Xử phạt: là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính
chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những
hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh


khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này.
Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận
và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết
điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo

đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.
Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức hiện nay.
2.1. Đặc trưng nhân cách của học sinh trung học phổ thông.
Đây là lứa tuổi của các em không còn là trẻ con nữa, nhưng chưa hẳn là người lớn.
Ở lứa tuổi này các em cần được tôn trọng nhân cách, cần được phát huy tính độc
lập nhưng cũng rất cần đến sự chăm sóc chu đáo và đối xử tế nhị.
Khi đến trường, trẻ được lĩnh hội chuẩn mức đạo đức và quy tắc hành vi đạo đức
một cách có hệ thống. Đến tuổi thiếu niên, do sự mở rộng quan hệ xã hội, do sự
phát triển mạnh mẽ của tự ý thức… mà trình độ đạo đức của các em được phát
triển mạnh. Sự hình thành đạo đức nói chung và sự lĩnh hội tiêu chuẩn của hành vi
đạo đức nói rieeng là đặc diểm tâm lí quan trọng trong lứa tuổi thiếu niên.
Tuổi thiếu niên là lứa tuổi hình thành thế giới quan, lí tưởng, niềm tin đạo đức,
những phán đoán giá trị,…
Do tự ý thức và trí tuệ đã phát triển, hành vi của thiếu niên bắt đầu chịu sự chỉ đạo
của những nguyên tắc riêng, những quan điểm riêng của thiếu niên.
Nhân cách của thiếu niên được hình thànhphụ thuộc vào việc thiếu niên đó có được
kinh nghiệm đạo đức như thế nào?
Những nghiên cứu tâm lý học cho rằng trình độ nhận thức đạo đức của thiếu niên
là cao. Thiếu niên hiểu rõ những khái niệm đạo đức vừa sức đối với chúng…
Nhưng cũng có cả những kinh nghiệm và khái niệm đạo đức hình thanhfmootj
cách tự phát ngoài sự hướng dẫn của giáo dục, do ảnh hưởng của những sự kiện
trong sách, phim, bạn bè xấu,… Do vậy, các em có thể có những ngộ nhận hoặc
hiểu phiến diện, không chính xác một số khái niêm đạo đức… Trong công tác giáo
dục, cần chú ý giúp các em hiểu rõ được khái niệm đạo đức một cách chính xác và
tổ chức cho các em có những hành động để thiếu niên có những kinh nghiệm đạo
đức đúng đắn.
2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh.
2.2.1. Kết quả đạt được.
Các hoạt động ngoại khóa.
Các trường đã tổ chức cho học sinh tham gia tích cực các hoạt động giáo dục theo

quy định do Bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo như sau:
- Giáo dục an toàn giao thông từ thàng 9 đến hết năm học.


- Giáo dục phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội thông qua các buổi nói chuyện
chuyên đề của Nhà trường. Đa số các học sinh và giáo viên tham gia đầy đủ.
- Tổ chức các hội thi diễn văn nghệ do ngành tổ chức.
- Tổ chức sinh hoạt dưới cờ hang tuần phát động các phong trào thi đua có lien
quan đến các hoạt động giáo dục trong nhà trường, nêu gương người tốt việc tốt,
vượt khó học giỏi,…
Các hoạt động ngoại khóa của các trường được tổ chức phong phú, đa dạng thu hút
các em học sinh tham gia. Các hoạt động giáo dục này có tác dụng giáo dục hình
thành những hẩm chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh, xây dựng lối sống tạp thể, có
tinh thần hợp tác,…
Các hoạt động giáo dục lao động.
Giáo dục lao động: Nhà trường tổ chức cho học sinh lao động hằng tuần, thu dọn
vệ sinh môi trường, cải tạo cảnh quang sư phạm. Thông qua các buổi lao động,
giáo dục cho học sinh tinh thần kỷ luật, biết yêu thương và kình trọng người lao
động.
Việc giảng dạy môn giáo dục công dân ở các trường.
Các trường đã tổ chức thức hiện giảng dạy môn giáo dục công dân đầy đủ theo quy
định của chương trình, có lồng ghép giáo dục pháp luật vào bộ môn. Tuy nhiên,
thức tế việc dạy và học môn giáo dục công dân ở một số trường còn nhiều khó
khăn, bất cập nên hiệu quả giáo dục chưa thực sự cao.
Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
- Tổ chức sinh hoạt lớp cuois tuần, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, xây dựng
kế hoạch chủ nhiệm, kế hoạch thi đua,…
- Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh, chủ động phối hợp với các giáo vien bộ
môn, Đoàn TNCSHCM và các ban ngành đoàn thể ở địa phương trong công tác
giáo dục đạo dức cho học sinh

- Nhận xét, đánh giá, xếp loại hạnh kiểm và học lực cho học sinh, đề nghị khen
thưởng và kỷ luật học sinh.
Sự tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh của các giáo viên bộ môn
Đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường đã quán triệt trên hội đồng giáo viên là
trách nhiệm giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ của mọi thành viên trong
nhà trường, giáo dục đạo đức cho học sinh là một quá trình thường xuyên, liên tục,
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Một giờ dạy trên lớp không chỉ đơn thuần là truyền thụ
kiến thức khoa học cho học sinh mà còn giáo dục các em những hành vi, cử chỉ,
tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan khoa học.
2.2.2. Hạn chế.
Lực lượng giáo viên dạy môn giáo dục công dân cò hạn chế, những giáo viên đứng
lớp chưa thức sự có chuyên môn, chưa được đào tạo chuyên môn về giáo dục công
dân mà chỉ là đạo tạo ghép nên có nhiều khó khan và lung túng về phương pháp
giảng dạy, về soạn bài và nghiên cứu, rút kinh nghiệm giờ dạy. Giáo viên chưa


nhận thức đầy đủ, vị trí vai trò của môn học, còn xem nhẹ nên chưa chú trọng đàu
tư công sức, thời gian để dạy tốt môn học, chủ yếu là đầu tư vào môn chính mình
được đào tạo.
Trang thiết bị dạy học, các điều kiện khác phục vụ cho công tác dạy học còn thiếu
thốn, lạc hậu gây khó khăn cho việc đổi mới dạy học.
Tâm lý chung của mọi người trong đó có cả cha mẹ học sinh cho rằng đay là môn
học phụ, kết quả học tập không quan trọng lắm, vì vậy nên chưa chú ý động viên
con em tích cực học tập.
Một vài giáo viên chủ nhiệm chưa có tâm huyết với công tác này, tác động giáo
dục chưa cao, trong lớp vẫn còn một số học sinh chưa tiến bộ trong rèn luyện đạo
đức.
Thiếu sự quan tâm thường xuyên với các bậc cha mẹ học sinh.
Một số giáo viên quá gò bó, đơn điệu khi gán ghép liên hệ giáo duch đạo đức thông
qua bài học. Một số giáo viên còn vi phạm nghe diện thoại trong khi giảng dạy.

Một số bộ phận không ít học sinh có biểu hiện chán nản, không thích học, thường
xuyên gây mất trật tự trong lớp, nói tục, vô lễ với thầy cô, nói dối thầy cô và bạn
bè, giao lưu với đối tượng xấu bên ngoài, uống rượu bia gây mất trật tự.
Số học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức vẫn còn nhiều, một số giáo viên
thờ ơ vô trách nhiệm khi thấy học sinh có dấu hiệu vi phạm đạo đức.
Công tác thiết kế bài giảng của giáo viên giáo dục công dân còn sơ sài, chưa thể
hiện sâu nội dung của từng hoạt động, khô khan không gây hứng thú cho học sinh.
2.2.3. Nguyên nhân.
2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan.
Đã có rất nhiều bài viết chỉ ra các nguyên nhân dẩn đến việc xuống cấp đạo đức
của học sinh. Có ý kiến cho rằng do gia đình thiếu sự quan tâm, chưa kết hợp với
nhà trường trong giáo dục đạo đức của các em. Nhưng trong thực tế, không phải
trường hợp học sinh vi phạm đạo đức nào cũng ở trong hoàn cảnh gia đình không
quan tâm. Dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu thường gặp.
Do sự phát triển của nền kinh tế.
Một nguyên nhân cũng được đặt ra là kinh tế xã hội phát triển ngày càng cao và sự
bùng nổ thông tin, dẫn đến việc một bộ phận gia đình khá giả chiều chuộng con
mình, tạo nên sự đua đòi trong các em.
Điện thoại di động, Internet, phim ảnh, của các Website đen đã tác động không nhỏ
đến nhận thức, lối sống và cách hành xử của học sinh, làm hư hỏng học sinh bởi
bản tính tò mò, hiếu động của tuổi mới lớn.
-

Tuy nhiên việc vi phạm đạo đức của học sinh không chỉ diễn ra ở địa bàn thành
phố, đô thị hay chỉ rơi vào trường hợp các em gia đình có điều kiện kinh tế.


Các trường vùng sâu, xa, học sinh nghèo chưa có điều kiện tiếp cận nhiều với
Internet vẫn đang phải đối mặt với vấn nạn vi phạm đạo đức của học sinh.
Do luật pháp chưa nghiêm.

Nhân cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian
con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những
phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
Hình thành nhân cách, đạo đức một con người đâu chỉ giáo dục trong nhà trường
phổ thông là đủ. Nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hộ ít nhiều đều bị chi phối
bởi cách mà xã hội đó đang hành xử với nhau.
-

Nếu được sống trong một môi trường nghiêm minh về pháp luật, chuẩn mực về
đạo đức, mọi người hành xử với nhau một cách có tình có lý, chắc chắc đó sẽ là
một môi trường giáo dục lý tưởng trong việc hình thành nhân cách đạo được của
học sinh,
Những bài học mà các thầy cô giáo đang cố sức rao giảng để giáo dục đạo đức của
học trò mình trên lớp dường như ngược lại với các hoạt động đang diễn ra trong
cuộc sống xã hội.
Trong khi các giáo viên dạy nhạc cố gân cổ lên để rao giảng về thẩm mỹ âm nhạc,
chắt chiu từng giờ dạy dân ca để các em biết yêu quý những giá trị tinh thần mà
ông cha ta đã dày công vun đắp. Thì hàng ngày, mấy chục nhà đài liên tục phát
những bài hát được gọi là nhạc trẻ với một thứ thẩm mỹ vay mượn, hổ lốn.
Báo chí thì thì nhau săm soi kỹ lưỡng đời sống của các “Sao” như một sự tôn vinh.
Chúng ta có nhói tim không khi nghe một học sinh lớp 6 hát nghêu ngao “vì em
đam mê thú vui thân xác, nên em đánh mất mối tình của tôi...”.
Luật giao thông được đưa vào nhà trường để dạy cho các em, những công dân
tương lai, sống và làm việc đúng luật pháp. Thế nhưng khi ra đường các em luôn
phải chứng kiến những hành vi vi phạm an toàn giao thông của người lớn mà đôi
khi còn có cả cảnh sát giao thông.
Do những tiêu cực mà các em hàng ngày phải chứng kiến.
Nhà trường thường xuyên giáo dục các em về tính trung thực, phải biết vươn lên
bằng chính đôi chân của mình. Nhưng trong thực tế các em lại chứng kiến có quá
nhiều người lớn không trung thực nhưng vẫn "thành đạt".

-


Tệ sử dụng bằng giả hay mua bằng, gian dối trong báo cáo thành tích, sự thiếu
nghiêm minh của pháp luật tác động lên các em hàng ngày trách sao các em không
thiếu niềm tin với những điều học được trong nhà trường.
Những thứ mà các em đang học trong nhà trường dường như là một mớ lý thuyết
không áp dụng được cho cuộc sống.
Trong một cuộc họp chuyên môn đầu năm học 2011-2012 ở một phòng GD-ĐT
cấp huyện của tỉnh An Giang, một giáo viên dạy toán lâu năm đã đề nghị nên chấp
nhận với thực tế, học thật, đánh gá thật, có thể trong một vài năm huyện sẽ thua các
đơn vị huyện thị khác, nhưng bù lại chúng ta biết chính xác thực trạng của học sinh
mà có hướng nâng chất thật sự. Vị trưởng phòng GD-ĐT huyện trầm ngâm phát
biểu “Thế thì chúng ta sẽ thua các huyện thị nhiều lắm”.
Vậy ra thành tích học tập của các em được xem như là một thứ đảm bảo cho vị tri
chiếc ghế của người lớn sao? Ngay cả trong nhà trường các em cũng đã chứng kiến
bao nhiêu là điều thiếu trung thực. Chỉ với các chỉ tiêu về chất lượng bộ môn,
chống lưu ban bỏ học, phổ cập giáo dục... cũng đã làm cho những thầy cô của
chúng phải chấp nhận với việc ai cũng làm như vậy.
- Do chính nội dung giảng dạy trong nhà trường.
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó chính là chương trình giảng dạy
đạo đức ở các cấp học phổ thông.
Chương trình đạo đức được thực hiện xuyên suốt, từ bậc Mầm non là giáo dục lễ
giáo, bậc Tiểu học là môn Đạo đức, bậc Trung học là môn Giáo dục công dân. Thế
nhưng các giáo viên dạy tiêu học cho rằng chương trình nặng tính lý thuyết, thiếu
kỷ năng sống, lại không tạo được dấu ấn để tác động hình thành nhân cách học
sinh.
Những bài học ý nghĩa, gần gũi với đời sống không được chú trọng mà thay bằng
những bài học quá trừu tượng.
Còn chương trình GDCD bậc THPT, chỉ có 11 tiết dạy các vấn đề về đạo đức trên

tổng số 105 tiết. Dạy đạo đức cho học sinh đâu chỉ có môn học Đạo Đức mà nó
phải được tích hợp ở những bộ môn xã hội như Lịch sử, Văn học...
Tôi rất thích những bài tập làm văn, những bài học thuộc lòng được học lúc nhỏ
trong sách giáo khoa trước năm 1975 (ở miền Nam) với nội dung chứa đựng tình
cảm yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc và giữ gìn cốt cách người Việt


Nam. Còn nội dung những bài học trong sách Đạo Đức thì rất gần gũi với cuộc
sống đời thường.
Phương pháp giáo dục đạo đức theo kiểu giáo điều không còn phù hợp nữa, cần
phải đưa học sinh vào các xử lý tình huống thực tế.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường cần giảm thiểu những vấn đề cao xa, lớn lao,
thay vào đó cần kiên trì bồi đắp lòng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng, nếp
nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật.
Chương trình sách giáo khoa giáo dục công dân bậc phổ thông cần phải có những
thay đổi từ nội dung đến phương pháp truyền đạt.
Những giá trị đạo đức, ứng xử trong đạo lý của người Việt Nam cần phải được
chuyển tải trong những tình huống cụ thể, gần gũi để học sinh dễ tiếp cận, dễ nhớ.
Cần dạy cho học sinh những giá trị đạo đức cơ bản của con người thay cho quá
nhiều kiến thức triết học, hàn lâm, thiếu vắng việc hình thành những thói quen đạo
đức và kỹ năng sống phù hợp với những chuẩn mực xã hội.
2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan.
Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng ủy, UBND, sự hỗ trợ nhiệt tình của các
ban ngành đoàn thể địa phương, nhất là sự tận tình giúp của phụ huynh học sinh.
Trong năm học, gióa viên chủ nhiệm đã kết hợp được nhiều hoạt động, đoàn thể
trong công tác gióa dục đạo đức cho học sinh. Giáo viên bộ môn có chú ý liên hệ
giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các bài học, tiết học. Thường xuyên nhắc
nhở, uốn nắn những sai phạm của học sinh trong giờ học. Kết quả đạt được về phía
học sinh là phần lớn các em có được những hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mức
hành vi đạo đức, từng bước hình thành được thái độ tự trọng, tự tin vào khả năng

của bản than, có trách nhiệm với hành vi của mình, yêu thương, tôn trọng con
người, mong muốn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số học sinh có đạo đức yếu kém nhà quá xa nên
giáo viên chủ nhiệm không thẻ đến được gia đình để phối hợp giáo dục. Công tác
chủ nhiệm là một công tác khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều cho công
tác này, nhưng thực tế giáo viên chủ nhiệm còn phải lo cho công tác chuyên môn.
Tâm lý chung của mọi người trong đó có cha mẹ học sinh cho rằng đây là môn học
phụ, kết quả học tậm không quan trọng lắm, vì vậy chưa có chú ý động viên con
em tích cực học tập. Một số bộ phận học sinh có biểu hiện chán nản, không thích


học, thường xuyên gây mất trật tự trong lớp, số học sinh gặp khó khăn trong rèn
luyện đạo đức còn nhiều, một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến giáo dục đạo
đức cho học sinh thông qua các bài học trên lớp, còn thờ ơ khi thấy học sinh có dấu
hiệu vi phạm đạo đức.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh.
3.1. cơ sở khoa học.
3.1.1. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo từ năm 2011 đến năm 2020.
Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo từ năm 2011 đến năm 2020 do Thủ Tướng
ban hành ngày 11/05/2011 có quy định:
- Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát
triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách
ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu
tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc
thù.
- Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ
nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực

hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để
đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở
giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng
với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình
đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số,
người nghèo, con em diện chính sách.
- Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công
nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an
ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi
người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng.


- Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc
dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu
hợp tác với các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến
hiện đại; phát hiện và khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất
lượng.
- Giáo dục phổ thông.
Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao, đặc biệt chất lượng giáo dục văn
hóa, đạo đức, kỹ năng sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học.
Đến năm 2020, tỷ lệ đi học đúng tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và
80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương
đương; có 70% trẻ em khuyết tật được đi học.
3.1.2. Mục tiêu bậc học trung học phổ thông.
Giáo dục phổ thông nhằm giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết

thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân
để lựa chon hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đănge, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động.
3.1.3. Nội quy nhà trường.
Nội quy nhà trường trung học phổ thông do Hiệu trưởng thông qua trên cơ sở điều
lệ trường trung học phổ thông có quy định:
- Học sinh phải lễ phép với thầy cô, cán bộ công nhân viên nhà trường, người lớn
tuổi, cha mẹ, khách đến liên hệ công việc tại trường.
- Kính trên nhường dưới, hòa nhã với bạn bè, không nói tục, không nói lời thô bạo,
kích bác người khác.
- Không có những cử chỉ hành động thái quá trong quan hệ bạn bè giữa nam và nữ
làm ảnh hưởng đến môi trường sư phạm.
- Nữ sinh đầu tóc gọn gàng, không trang điểm, không mang nhiều bông tai, không
sơn móng tay móng chân, không nhuộm tóc, không dùng keo vuốt tóc…
- Nam sinh đầu tóc cắt ngắn, gọn gàng, bình thường, không cắt tóc có kiểu cách
phản cảm, không nhuộm tóc,không sơn móng tay, móng chân, tóc không rẽ ngôi
giữa, không dùng keo vuốt tóc…
- Trong các buổi chào cờ và sinh hoạt dưới sân trường trước khi kết thúc hiệu lệnh
học sinh các lớp phải nhanh chóng, trật tự, im lặng, xếp hàng, đúng vị trí của lớp.
Không ở lại trên lớp, trên hành lang trừ 2 học sinh trực lớp.Trong khi chào cờ và
sinh hoạt đầu tuần dưới cờ hoặc trong các buổi lễ học sinh phải nghiêm túc, trật tự
và không làm việc riêng.
- Trang phục:
Ngày thứ hai và các ngày lễ:


Nữ sinh: Mặc áo dài trắng, tay áo dài ngang cổ tay, (không may bằng vải mỏng) có
cổ, có áo lá, quần trắng, không mang giày gót nhọn, không mang giày hở mũi, hở
gót, không cao quá 5cm, không mở nút cổ áo, không xắn tay áo, phù hiệu đúng qui
định may hẳn vào ngực áo phải.

Nam sinh: Đồng phục của trường, áo bỏ vào quần, không xắn tay áo và cài nút
ngực, mang giày bata, phù hiệu đúng qui định may vào ngực áo phải.
Các ngày còn lại:
Nữ sinh: Mặc đồng phục của nhà trường váy rộng, cao ngang eo và dài quá gối
trước, sau, áo cài nơ và bỏ vào trong váy, mang giày bata (hoặc giày đế bằng, bít
hai đầu, không cao gót, cao cổ, không màu sắc sặc sỡ), phù hiệu may vào ngực áo
phải.
Nam sinh: Như trang phục ngày thứ hai và các ngày lễ.
Giờ học trái buổi và giờ thể dục quốc phòng:
Học sinh mặc đồng phục thể dục của trường, áo bỏ vào quần, có phù hiệu ở ngực
áo phải, đi
giày thể dục.
Khi đi học, học sinh chỉ dược mang cặp có tay xách nằm ngang, không mang balô,
túi xách, không mang cặp có màu sặc sỡ.
* Chú ý:
Nam sinh: Không mặc áo lửng, lưng quần xệ dưới rốn, áo quần bó sát thân người.
Nữ sinh: Không mặc áo lửng, mỏng, không mặc trang phục lót màu, lưng váy
không xệ dưới rốn, áo váy không bó sát thân người, không sử dụng váy không
đúng đồng phục của nhà trường.
II. HỌC TẬP VÀ CHUYÊN CẦN:
1. Giờ Học:
- Học sinh có mặt tại trường : Buổi sáng trước 6 giờ 40’, buổi chiều trước 12 giờ
40’, riêng sáng thứ hai (chào cờ), học sinh có mặt tại trường trước 6 giờ 30’.
- Chú ý học sinh đi trễ so với giờ qui định sẽ ở phòng giám thị làm bản kiểm điểm,
ký sổ kỷ luật, nhận giấy vào lớp, chờ chuyển tiết mới được lên lớp, các trường hợp
đặc biệt, phụ huynh phải liên hệ trực tiếp với nhà trường.
- Trong giờ học không được có mặt tại căn tin, trên hành lang, sân trường. Không
ra khỏi lớp khi chuyển tiết (trừ trường hợp có lý do chính đáng).
- Giờ chủ nhiệm các lớp phải ổn định trật tự, không ra ngoài trong thời gian chờ
thầy cô vào tiết chủ nhiệm.

- Đến giờ về học sinh phải nhanh chóng ra về, 11 giờ 15 nhà trường đóng cổng.
Khi ở lại phải có giáo viên chủ nhiệm bảo lãnh và báo cho Ban Giám Hiệu, Giám
thị, Bảo vệ.
2. Học Tập:
- Giờ học ngồi đúng sơ đồ, ghi chép bài cẩn thận, học thuộc bài và làm bài đầy đủ.


- Không làm việc riêng, không nói chuyện, không sử dụng điện thoại, máy nghe
nhạc, không mang tai nghe trong giờ học.
- Thực hiện đầy đủ và đúng hạn tài chính, hành chính (nộp bằng cấp hai, nộp ảnh
làm hồ sơ…) đối với nhà trường.
3. Chuyên Cần:
- Nghỉ học phải có lý do chính đáng, phải có cha , mẹ, người giám hộ, người đã ký
tên mẫu trong sổ liên lạc từ đầu năm trực tiếp đến xin phép tai phòng giám thị
trước hoặc ngay trong buổi học xin nghỉ (trường hợp đột xuất phụ huynh có thể
liên hệ với GVCN để báo cho bộ phận giám thị ngay trong buổi học xin nghỉ và
gởi sổ liên lạc có phiếu kiểm diện, đơn xin phép ngay buổi học hôm sau. ). Nghỉ từ
3 ngày trở lên cha mẹ hoặc người giám hộ phải trực tiếp xin phép Ban Giám Hiệu
thông qua thầy cô giám thị. Nếu học sinh bị bệnh dài ngày phải có y chứng của bác
sĩ ở bệnh viện. Học sinh nghỉ học các giờ TD – QP là nghỉ một buổi học chính
thức.
* Chú ý : Học sinh nghỉ quá 45 buổi học trong năm học ( nghỉ có phép hoặc không
phép, nghỉ liên tục hoặc nghỉ nhiều lần cộng lại ), thì không được lên lớp.
Học sinh ra về giữa giờ, phải có lý do chính đáng được cha, mẹ, người giám hộ
đón và được phòng giám thị cấp giấy phép.
Học sinh nghỉ học không phép, trốn tiết, phải ký sổ kỷ luật và nhà trường sẽ báo
ngay cho cha, mẹ, người giám hộ.
III. GIỮ GÌN TRƯỜNG LỚP:
- Không vẽ, khắc, viết trên tường, bàn ghế, không mang thức ăn, nước uống vào
lớp học (trừ nước uống đóng chai).

- Học sinh lớp nào phải chịu trách nhiệm về giữ sạch lớp mình, hành lang trước lớp
và cầu thang bên lớp.
- Giữ gìn cơ sở vật chất trường, lớp. Tắt đèn, quạt khi không dùng đến và sau giờ
tan học.
- Chỉ được sử dụng phòng vệ sinh dành riêng cho học sinh, phải giữ sạch sẽ phòng
vệ sinh.
- Học sinh phải bỏ rác đúng nơi qui định, không bỏ rác, xả rác bừa bãi.
IV. TRẬT TỰ KỈ LUẬT:
1. Học sinh không được có lời nói, hành động vô lễ với thầy cô, cán bộ công nhân
viên nhà trường, người lớn tuổi, cha mẹ, khách đến liên hệ công việc tại trường.
2. Học sinh không được quay cóp, gian lận khi kiểm tra, thi cử.
3. Không mang, không sử dụng: Rượu, bia, thuốc lá, thuốc gây nghiện và các loại
hung khí, chất nổ trong và ngoài nhà trường.
4. Không mang, không tổ chức, không tham gia các trò chơi mang tính cờ bạc.
5. Không trộm cắp tài sản của bạn, của nhà trường.
6. Không hăm dọa, gây gổ, đánh nhau với bạn bè và người ngoài nhà trường.


7. Học sinh không được phao tin đồn nhảm, xem và truyền bá sách báo, phim, ảnh
có nội dung xấu.
3.2. Các giải pháp.
Nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường
trung học phổ thông, tôi xin nêu ra một số giải pháp sau:
3.2.1. Đối với xã hội.
Trong thực tế hiện nay, chất lượng giáo dục đạo đức của học sinh nói chung và của
học sinh trung học phổ thông nói riêng đang có tình trạng giảm sút bởi ảnh hưởng
của nguyên nhân sự cạnh ranh của cơ chế thị trường có mặt tích cực là thúc đẩy,
phát triển nề kinh tế, song lại là điều kiện tốt cho tư tưởng cá nhân , coi đồng tiền
là tất cả dẫn đến sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức từ người lớn cho đến trẻ
em.

Ngoài những hiện tượng tiêu cực, các hành vi đạo đức thiếu văn hóa như tuyên
truyền, chứa các văn hóa phẩm đồi trụy mà nhà nước cấm từ rất lâu, các web đen
đã ảnh hưởng rất nhiều đến đọa đức học sinh trung học phổ thông.
Vì vậy, muốn có một xã hội tốt thì trước tiên trong xã hội đó phải có những công
dân thực sự tốt. Để có những điều như vậy, chính quyền địa phương phải có những
biện pháp thiết thực đối với các tệ nạn xã hội đó, có cách xử lí thích hợp với những
học sinh vi phạm ở địa phương để răn đe làm gương cho những người khác. Quan
tâm đến các em có hoàn cảnh gia đình khó khan, con em của các gia đình chính
sách để các em có cơ hội đến trường, được học hỏi, tiếp xúc và giao lưu với thế
giới bên ngoài, và hơn hết là bảo vệ các em khỏi những tệ nạn xã hội.
3.2.2. Đối với gia đình.
Ngày từ những năm đầu đời, cha mẹ hãy luôn qua tâm và chăm sóc con cái đến
nơi, đến chốn. Luôn thể hiện sự tôn trọng, hiểu con và tạo dieuf kiện cho con cái
huể cha mẹ. Lắng nghe những ý kiến và cho phép con tham gia phát biểu ý kiến
trong một số công việc của gia đình với tư cách là một thành vien trong gia đình.
Hỗ trợ, giúp đỡ con giải quyết mọi vấn đề lien quan. Nếu con mắc lỗi, cha mẹ
không nên la mắng, chỉ trích mà cần phải phân tích, góp ý cho con những sai lầm
để con có thể sửa chữa những sai lầm. Nếu cần phải trách phạt con, cha mẹ cần
phải phân minh vì nếu sơ xuất trong cư xử để con chịu thiệt thòi sẽ hình thành
những tâm lý không phục, mặc cảm, đối kháng ở trẻ. Đây chính là yếu tố dẫn đến
trẻ hư hỏng, sa vào lầm lỗi. Cha mẹ nên thể hiện sự công bằng, yêu thương các con
như nhau. Mỗi ngươi on đều có những mặt mạnh và mặt yếu khác nhau, hãy tìm
những mặt mạnh đó và khen con, động viên con phát huy. Thường xuyên quan tâm
đến tâm tư, tình cảm, mối quan hệ bạn bè của con để giúp con tự chủ, có tính độc
lập, không ỷ lại cha mẹ và những người khác. Cha mẹ cần làm gương cho con noi
theo. Trong gia đình, cha mẹ phải luôn chú ý rèn luyện, tu dưỡng mình; là tấm
gương về đạo đức, nhân cách, là điểm tựa tinh thần của con để con noi theo và học
tập. Nếu khi dạy con mà lời nói và hành động của cha mẹ không nhất quán, nói



một đằng làm một nẻo thì việc giáo dục cho con cái trở nên phản tác dụng. Trẻ sẽ
không tin vào cha mẹ nữa, không tin vào người lớn và sẽ tự tìm con đường riêng
cho bản thân, mất phương hướng, trong đó có những con đường lạc lối đã đưa trẻ
đến những con đường vi phạm pháp luật.
Đối với trẻ vị thành niên, cha mẹ cần phải phải hiểu và thông cảm, luôn gần gũi và
chia sẽ với con. Tùy theo sự phát triển tâm sinh lý lứa tuổi mà có những biện pháp
giáo dục thích hợp. Các bậc cha mẹ cần phải đặc biệt quan tâm để định hướng,
điều chỉnh diễn biến tâm lý của trẻ, không để trẻ tự phát triển nhân cách. Cân nhắc
và đáp ứng đúng những mong muốn, đề nghị của con một cách chính đáng, trao
đổi giúp con nắm rõ thông tin để con có những quyết định đúng đắn. Tạo điều kiện
để con phát triển, cùng con bàn bạc thức hiện kế hoạch bản thân. Hãy dìu dắt để trẻ
tiếp thu những ngôn ngữ mới, hành vi ứng xử và những quy tắc đạo đức phù hợp.
Với nền tảng gia đình cùng với sự giáo dục phía nhà trường và sự quan tâm của
toàn xã hội, tôi tin rằng trẻ sẽ được phát triển một cách toàn diện cả về đạo đức và
nhân cách.
3.2.3. Đối với học sinh.
Học sinh chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Để là người chủ nhân có ích thì
học sinh cần phải tu dưởng đạo đức để trở thành người có đủ cả tài lẫn đức. Vì vậy,
học sinh cần phải thực hiện đúng những quy định của của nhà trường. Phải đi học
đúng giờ, đến lớp chú ý nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực phát biểu xây dựng
bài. Kính trọng thầy cô giáo, nhân viên nhà trường; đoàn kết, giúp đỡ bạn bè khi
khó khăn, phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường; thực hiện điều lệ , nội quy
nhà trường; chấp hành các quy tắc an toàn, trật tự xã hội. Hoàn thành nhiệm vụ
học tập và rèn luyện theo yêu cầu của giáo viên, của nhà trường. Rèn luyện thân
thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường. Tham gia các hoạt động tập thể của
trường, của lớp, của Đoàn TNCSHCM, giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường,
giúp đỡ gia đình, tham gia lao động công ích và công tác xã hội. Hành vi, ngôn ngữ
ứng xuwrcuar học sinh trung học phổ thông phải có văn hóa, phù hợp với đạo đức
và lối sống của lứa tuổi học sinh trung học phổ thông.
C. KẾT LUẬN.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, có vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội. Đạo đức chỉ được hình thành thông qua giáo dục, đó là một quá trình
lâu dài, liên tục.
Qua quá trình nghiên cứu thực trạng đạo đức của học sinh, tôi nhận thấy rằng vấn
đề giáo dục đạo dức cho học sinh là một vấn đề quan trọng.vấn đề này không phải
nhỏ mà một người hay một vài người có thể giải quyết được. Mà nó cần phải có sự
tham chung tay góp sức của nhiều người, nhiều ngành để rèn cho các chủ nhân
tương lai của đất nước có đầy dủ cả đức lẫn tài để dưa đất nước ngày càng đi lên.
Nhìn chung công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong quá trình dạy học vẫn
chưa được xem trọng. Một số giáo viên do hoàn cảnh cá nhân nên chưa có điều


kiện để có thể lắng nghe những tâm tư của học sinh, chưa thật sự gần gũi với học
sinh. Và thời gian ngồi trên ghế nhà trường của các em rất ít nên việc phát hiện tình
trạng đạo đức xuống cấp của học sinh chưa nhiều. Vì vậy, gia đình vẫn là nơi giáo
dục đạo đức tốt nhất cho học sinh; thông qua các hoạt động hằng ngày trong gia
đình, thông qua lời ăn tiếng nói của cha mẹ, của các thành viên trong gia đình sẽ
rèn cho các em cách ăn nói đúng mực, cách cư xử hòa nhã thân thiện đối với mọi
người xung quanh.
Là cha mẹ, là giáo viên giảng dạy, ai cũng muốn con cái của họ trở thành người có
ích cho xã hội, là một người con ngoan trò giỏi, là một người ngoan hiền, hiếu
thảo; trở thành người thành đạt. Chính vì vậy, chúng ta cần phải tạo những điều
kiện thuận lợi để giáo dục đạo đức cho các em, để giúp cho các em trở thành người
có ích cho xã hội, hoàn thiện cả đức lẫn tài.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình giáo dục học đại cương – NXB ĐHSP 2007.
2. Luật giáo dục – NXBCTQG 2005.
3. />4. />



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×