Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đồng phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.15 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THÁI BẢO

ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THÁI BẢO

ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận băn bảo đảm tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ, tác giả đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy cô giáo, các nhà khoa học, các
cơ quan, tổ chức cá nhân. Đề tài nghiên cứu cũng được hoàn thành dựa trên sự
tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu có liên quan của
các tác giả. Đặc biệt đề tài còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy GS, TS Võ Khánh
Vinh, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công sức
hướng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin được trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo,
các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tác giả hoàn thiện công trình
nghiên cứu.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu
sót, tác giả kính mong các quý Thầy cô, các nhà khoa học những người quan
tâm đến đề tài đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Đỗ Thái Bảo



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ
ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC..................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đồng phạm có tổ chức..................................................... 7
1.2. Trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm có tổ chức............................................ 16
1.3. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về đồng
phạm có tổ chức từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay........................21
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐỒNG
PHẠM CÓ TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH VỀ ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NINH.................................................................................................................................. 27
2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức...................27
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh................................................................................................................. 35
2.3. Đánh giá chung.................................................................................................................. 52
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC.................................................................................................. 62
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm có tổ chức . 62

3.2. Tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự về đồng phạm có tổ chức......................................................................................... 69
3.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ........................................................................ 70
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt


Chữ viết đầy đủ

BLHS

Bộ luật Hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định đồng phạm có tổ chức được quy định trong BLHS của hầu hết
các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên còn có nhiều cách thể hiện khác nhau về
đồng phạm có tổ chức cũng như trách nhiệm hình sự đối với những người
đồng phạm có tổ chức.
Ở nước ta, chế định đồng phạm có tổ chức đã được quy định từ rất sớm
trong lịch sử lập pháp. Trong thực tiễn, việc xác định yếu tố đồng phạm có tổ
chức trong các vụ án còn gặp rất nhiều khó khăn do tính chất phức tạp của tội
phạm và các yếu tố khác tác động. Mặt khác, so với tội phạm do một người
thực hiện, đồng phạm thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm người cùng cố
ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng
tham gia thực hiện. Trong đồng phạm, sự tập trung sức lực, sự phối hợp,
tương trợ lẫn nhau giữa những người phạm tội, cho phép chúng không chỉ
thực hiện tội phạm một cách thuận lợi, mà trong nhiều trường hợp có thể gây
ra những thiệt hại nghiêm trọng hơn, dễ dàng che giấu dấu vết của tội phạm
để tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo vệ pháp luật, về mặt tâm
lý, những người đồng phạm do dựa dẫm vào nhau, nên quyết tâm phạm tội

thường là cao hơn so với các trường hợp phạm tội riêng lẻ.
Do đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm phức tạp có mối
quan hệ hữu cơ với nhiều chế định quan trọng khác của Luật hình sự như chế
định tội phạm, chế định miễn trách nhiệm hình sự, chế định miễn hình phạt...
cho nên các cơ quan quan bảo vệ pháp luật vẫn còn bị lúng túng, mắc phải
thiếu sót trong việc giải quyết những vụ án có đồng phạm có tổ chức. Thực
tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm cũng đặt ra nhiều vấn
đề vướng mắc đòi hỏi Khoa học Luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như
vai trò của các loại người trong đồng phạm có tổ chức, trách nhiệm hình sự

1


trong đồng phạm có tổ chức, các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng
phạm có tổ chức, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm có
tổ chức... Trong khi đó, đồng phạm có tổ chức lại là một trong những chế định
được quy định rất khác nhau trong pháp luật hình sự của các nước trên thê
giới.thậm chí trái ngược nhau.
Thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh trong năm qua cho thấy, tình hình tội phạm có những diễn
biến phức tạp, đặc biệt là các vụ án có yếu tố đồng phạm có tổ chức có xu
hướng gia tăng. Công tác phòng ngừa và đấu tranh các vụ án đồng phạm có tổ
chức đã đạt được những kết quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn một số những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án đồng phạm có tổ chức. có
thể kể đến: việc xác định dấu hiệu pháp lý của đồng phạm có tổ chức để phân
biệt giữa đồng phạm có tổ chức với các trường hợp đồng phạm thông thường
đôi khi còn nhầm lẫn, việc xác định vai trò và phân hóa TNHS của những
người tham gia trong đồng phạm có tổ chức còn chưa chính xác, ảnh hưởng
đến tính nghiêm minh của pháp luật…
Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu một cách toàn diện và có hệ thống những

vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình
sự về đồng phạm có tổ chức là cần thiết, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật hình sự về đồng phạm có tổ chức và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định
này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Đồng phạm có tổ chức
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài
luận văn Thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong Khoa học Luật hình sự Việt Nam, những vấn đề liên quan đến
chế định đồng phạm nói chung và đồng phạm có tổ chức nói riêng đã được đề
cập trong một số tài liệu giáo trình, sách tham khảo do nhiều tác giả khác

2


nhau biên soạn như: Chương X - Đồng phạm, trong sách: Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007; Chương
XIII - Đồng phạm, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Công an Nhân dân, 2005; Chương V - Đồng phạm, trong sách: Tìm hiểu
pháp luật hình sự, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1995; Chương VII - Quyết định
hình phạt, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2001.
Về chủ đề nghiên cứu liên quan đến chế định đồng phạm, một số nghiên
cứu đã được các tác giả hướng tới như: Tác giả Trần Quang Tiệp, Đồng phạm
trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học - Đại học Luật Hà Nội,
2000; Tác giả Nguyễn Thị Trang Liên, Các hình thức đồng phạm trong Luật
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2009; Tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa, Người thực hành trong đồng phạm
theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học
quốc gia Hà Nội, 2011, Mai Lan Ngọc. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về

những loại người đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2012.

Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường hợp đồng
phạm có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như bài “Phạm tội
có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ chức” của tác
giả Nguyễn Vạn Nguyên; Bài viết “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách
nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của
GS,TS. Hồ Trọng Ngũ đăng trên tạp chí Lập pháp số 6/2009; Bài viết “Đấu
tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia trong hội
nhập kinh tế quốc tế” của PGS,TS. Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí Cộng sản
điện tử, hoặc các bài viết của TS. Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh phòng chống
tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga” trong tạp chí
Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ

3


chức” (Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã tạo
ra những nhận thức cơ bản trong việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ chức. Đề
tài luận án của TS. Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức trong luật hình
sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống” đề cập chi tiết đến trường hợp
đồng phạm có tổ chức ở cả góc độ Khoa học Luật hình sự và Tội phạm học.
Các nghiên cứu trên đã nghiên cứu một cách tổng thể về chế định đồng
phạm có tổ chức trong khoa học luật hình sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong tình
hiện nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện về đồng phạm có tổ chức trong pháp luật hình sự từ thực tiễn địa bàn tỉnh
Quảng Ninh. Do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu nhằm góp
phần hoàn thiện lý luận về đồng phạm có tổ chức và nâng cao hiệu quả áp dụng
chế định đồng phạm có tổ chức từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng
chế định đồng phạm có tổ chức; chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của tồn tại, hạn chế; trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về đồng phạm có tổ
chức về đồng phạm có tổ chức.
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ
chức và thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về đồng phạm
có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định
đồng phạm có tổ chức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chế định đồng phạm có tổ chức từ
thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước về các nội dung có liên quan đến Luật hình sự nói chung và
chế định đồng phạm có tổ chức nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: Tổng hợp, phân tích, so sánh, trao đổi, tọa đàm,
lấy ý kiến chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về chế định đồng
phạm có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu và những
đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện BLHS hiện
hành, hoàn thiện lý luận Khoa học Luật hình sự, đồng thời góp phần tăng
cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm được
thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công
tác nghiên cứu, giảng dạy về Khoa học pháp lý và các cán bộ đang công tác
tại các cơ quan bảo vệ pháp luật.

5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn
gồm 03 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về đồng phạm có
tổ chức
Chương 2. Các quy định của pháp luật về đồng phạm có tổ chức và
thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh
Chương 3.Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về đồng phạm
có tổ chức

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT
VỀ ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đồng phạm có tổ chức
1.1.1. Khái niệm đồng phạm có tổ chức
Tội phạm là một chế định bao trùm, là cơ sở cho mọi chế định khác và
có tính chất quyết định, nền tảng của Luật hình sự. Tội phạm có thể do một
người thực hiện, nhưng cũng có thể do nhiều người cố ý cùng gây ra. Khi tội
phạm được thực hiện bởi nhiều người cùng chung ý chí và hành động, Khoa
học luật hình sự gọi là đồng phạm.
Chế định đồng phạm được quy định tại Điều 17 BLHS Việt Nam hiện
hành với nội dung: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng
thực hiện một tội phạm”. Căn cứ vào từng tiêu chí cụ thể, đồng phạm được
phân chia thành các hình thức khác nhau. Cụ thể: khi căn cứ vào những dấu
hiệu khách quan, đồng phạm được phân chia thành đồng phạm giản đơn và
đồng phạm phức tạp; khi căn cứ vào những dấu hiệu chủ quan, đồng phạm
được phân chia thành đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có
thông mưu trước; khi căn cứ vào sự câu kết giữa những người đồng phạm,
đồng phạm được phân chia thành đồng phạm thông thường và đồng phạm có
tổ chức. Trong các hình thức đồng phạm, đồng phạm có tổ chức là một hình
thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của nó được nhà làm luật Việt
Nam ghi nhận trong pháp luật hình sự.
Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành quy định đồng phạm có tổ chức tại

khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015 với nội dung: “Phạm tội có tổ chức là hình
thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm”. Các BLHS năm 1985, 1999 cũng như các lần sửa đổi, bổ sung đều
quy định đồng phạm có tổ chức với là hình thức đồng phạm đặc biệt với nội

7


dung không đổi so với BLHS năm 2015. Nghiên cứu cho thấy, BLHS năm
1985, 1999 và 2015 cũng như các lần sửa đổi, bổ sung đều quy định và sử
dụng thuật ngữ pháp lý “phạm tội có tổ chức”, trong đó đều khẳng định
“phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm …”. Do vậy, có thể khẳng định
“phạm tội có tổ chức” và “đồng phạm có tổ chức” là một, đồng nhất với nhau
và là một hình thức cụ thể của đồng phạm.
Pháp luật hình sự các quốc gia trên thế giới cũng có những quy định và
tên gọi khác nhau về chế định đồng phạm có tổ chức. Có thể kể đến: BLHS
nước Cộng hòa Pháp gọi là băng có tổ chức, BLHS Liên bang Nga gọi là
nhóm có tổ chức… Nghiên cứu cho thấy, hiện nay ở Việt Nam có nhiều quan
điểm khác nhau về bản chất pháp lý của hình thức đồng phạm có tổ chức. Có
thể kể đến: [9, tr. 168 - 172]
Quan điểm thứ nhất, trong đồng phạm có tổ chức nhất thiết phải có sự
phân công vai trò, nhiệm vụ khác nhau giữa những người cùng thực hiện tội
phạm, trong đó bắt buộc phải có người cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm. Trước khi thực hiện tội phạm, những người đồng phạm có tổ chức phải
có sự bàn bạc thống nhất về kế hoạch phạm tội, phương thức thực hiện tội
phạm một cách kỹ càng, chu đáo. Như vậy, có thể hiểu quan điểm này đã
đồng nhất giữa khái niệm đồng phạm có tổ chức với hình thức đồng phạm
phức tạp theo Khoa học Luật hình sự Việt Nam.
Quan điểm thứ hai, đồng phạm có tổ chức và đồng phạm có thông mưu
trước là một. Quan điểm này đã đồng nhất đồng phạm có tổ chức và đồng

phạm có thông mưu trước.
Quan điểm thứ ba, trong đồng phạm có tổ chức, những người đồng
phạm phải cùng thực hiện tội phạm có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau
phạm nhiều tội hoặc phạm một tội nhưng nhiều lần.
Quá trình nghiên cứu, tác giả không đồng ý với các quan điểm nói trên.
Cụ thể:

8


Đối với quan điểm thứ nhất, tác giả cho rằng đã tuyệt đối hóa những
người trong đồng phạm, việc tuyệt đối hóa này đã thu hẹp việc xác định đồng
phạm có tổ chức. Thực tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
cho thấy, trong đồng phạm có tổ chức thường có sự phân công vai trò, vị trí
giữa những người cùng thực hiện tội phạm nhưng nó không phải là dấu hiệu
bắt buộc. Có những trường hợp, những người đồng phạm có tổ chức có sự câu
kết chặt chẽ với nhau khi thực hiện tội phạm nhưng đều giữ vai trò là người
thực hành mà không có người tổ chức, người xúi giục hoặc là người giúp sức.
Đối với quan điểm thứ hai, tác giả cho rằng chưa hợp lý, bởi quan điểm
đã đồng nhất giữa cái chung và cái cụ thể. Trong đó: đồng phạm có thông
mưu trước là cái chung, đồng phạm có tổ chức là cái cụ thể, không thể đồng
nhất cái chung với cái cụ thể. Xét về bản chất, đồng phạm có tổ chức và đồng
phạm có thông mưu trước là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng
nhất, đồng phạm có tổ chức đúng là hình thức đồng phạm có thông mưu
trước, nhưng đồng phạm có thông mưu trước không chỉ bao gồm đồng phạm
có tổ chức. Phạm vi của đồng phạm có thông mưu trước sẽ rộng hơn đồng
phạm có tổ chức và xét về mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, đồng phạm có
tổ chức có mức độ tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm có thông
mưu trước.
Đối với quan điểm thứ ba, tác giả cho rằng đã quá thu hẹp việc xác

định phạm vi của những vụ án đồng phạm có tổ chức, bởi chỉ những tội phạm
chủ yếu được quy định ở trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia có
mục đích chống chính quyền nhân dân mới thỏa mãn được những điều kiện
có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc phạm một tội
nhưng nhiều lần. Trong khi đó, BLHS ngoài quy định đồng phạm có tổ chức
là dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS còn quy định đồng phạm có tổ chức
là tình tiết tăng nặng TNHS. Nếu theo quan điểm trên thì dấu hiệu đồng phạm
có tổ chức không được quy định trong những tội phạm cụ thể và các tình tiết

9


tăng nặng TNHS, điều này không phù hợp trên thực tế đồng thời giảm nhẹ
hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm trên thực tiễn.
Như vậy, các quan điểm khác nhau xung quanh chế định đồng phạm có
tổ chức đều cho rằng đồng phạm có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc
biệt. Tuy nhiên do sự ghi nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự “câu
kết chặt chẽ” trong đồng phạm có tổ chức nên còn có nhận thức khác nhau về
hình thức đồng phạm này. Sự câu kết chặt chẽ của những người cùng thực
hiện tội phạm trong đồng phạm có tổ chức chính là đặc điểm chủ yếu thể hiện
bản chất của chế định đồng phạm có tổ chức, đồng thời cũng nói lên các dấu
hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan của chế định này. Vấn đề
đặt ra là sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm trong đồng phạm
có tổ chức được thể hiện như thế nào.
Sự câu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm trong đồng
phạm có tổ chức thể hiện mức độ liên kết về khách quan và chủ quan của
những người đồng phạm. Phần I, Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ ngày 16 tháng
11 năm 1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ
sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 đã xác định sự câu
kết chặt chẽ trong đồng phạm có tổ chức. Mặc dù Nghị quyết số

02/HĐTP/NQ ngày 16 tháng 11 năm 1988 và Nghị quyết số 02-HĐTP ngày
05 tháng 01 năm 1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm
1985. Tuy nhiên xét về bản chất, chế định đồng phạm có tổ chức trong BLHS
năm 1985, năm 1999, năm 2015 cũng như các lần sửa đổi, bổ sung không
thay đổi. Do vậy, căn cứ vào nội dung Nghị quyết, tác giả cho rằng đồng
phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt, trong hình thức đồng phạm
này có sự phân công vai trò giữa người trực tiếp thực hiện tội phạm với người
không trực tiếp thực hiện tội phạm (người tổ chức, người xúi giục và người
giúp sức). Trong đồng phạm có tổ chức, dấu hiệu phạm một tội nhiều lần hoặc

10


phạm nhiều tội cũng như sự câu kết lâu dài giữa những người đồng phạm
không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm này.
Căn cứ quy định của BLHS, cùng với sự phân tích trên, tác giả đưa ra
khái niệm về đồng phạm có tổ chức như sau:
Đồng phạm có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt,được thực
hiện dưới hình thức lỗi cố ý, trong đó những người cùng thực hiện tội phạm
có sự câu kết chặt chẽ thông qua chính cơ cấu tổ chức (băng, nhóm…) và sự
bàn bạc, tính toán, phân công, lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
1.1.2. Đặc điểm của đồng phạm có tổ chức
Đồng phạm có tổ chức là một hình thức thực hiện tội phạm đặc biệt mà
ở đó những người thực hiện tội phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong
việc thực hiện tội phạm. Đồng phạm có tổ chức có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đồng phạm có tổ chức là một hình thức đồng phạm
Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành đã ghi nhận đồng phạm có tổ chức
trước là một hình thức đồng phạm, do vậy đồng phạm có tổ chức có đầy đủ
những dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan của đồng phạm. Cụ thể:

Về khách quan, số lượng người trong đồng phạm có tổ chức phải có từ
hai người trở lên và những người trong đồng phạm có tổ chức phải thỏa mãn
điều kiện chủ thể của tội phạm. Cùng với đó, những người trong đồng phạm
có tổ chức phải cùng thực hiện tội phạm. Điều này có nghĩa những người
trong đồng phạm có tổ chức phải thực hiện một trong các hành vi trực tiếp
thực hiện tội phạm (thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành
tội phạm), hoặc hành vi không trực tiếp thực hiện tội phạm (không thực hiện
hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy; kích động, dụ dỗ thúc đẩy hoặc tạo điều kiện tinh thần, vật
chất để cho người khác trực tiếp thực hiện tội phạm). Bằng những hành vi cụ
thể của mình, những người trong đồng phạm có tổ chức đều có hành vi nguy

11


hiểm cho xã hội, những hành vi đó được thực hiện trong sự liên kết thống
nhất với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong quá trình thực hiện tội
phạm. Trong đồng phạm có tổ chức, có thể tất cả những người trong đồng
phạm đều trực tiếp thực hiện tội phạm, cũng có thể chỉ một hoặc một số người
trực tiếp thực hiện tội phạm còn những người khác mặc dù không trực tiếp
thực hiện tội phạm nhưng đã góp phần vào việc thực hiện tội phạm trong mối
liên kết thống nhất với người trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi của những
người trong đồng phạm có tổ chức dù trực tiếp hay không trực tiếp thực hiện
tội phạm đều có mối quan hệ nhân quả với hậu quả của tội phạm xảy ra, hậu
quả của tội phạm là kết quả chung do hành vi của những người đồng phạm có
tổ chức thực hiện.
Về chủ quan, những người trong đồng phạm có tổ chức phải thực hiện
tội phạm dưới lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Điều này
có nghĩa, về lý trí những người trong đồng phạm có tổ chức nhận thức được
hành vi của mình và hành vi của những người đồng phạm có tổ chức khác là

nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của tội phạm do việc cùng thực hiện
tội phạm sẽ xảy ra hoặc có thể xảy ra. Nếu chỉ nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng không nhận thức được hành vi của
những người khác cũng nguy hiểm cho xã hội cùng với mình thì không đồng
phạm nói cung, cũng như đồng phạm có tổ chức nói riêng. Về ý chí, những
người trong đồng phạm có tổ chức đều mong muốn cho hậu quả của tội phạm
xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả của
tội phạm xảy ra, nói cách khác những người trong đồng phạm cùng mong
muốn có sự liên kết hành vi thực hiện tội phạm. Nếu cùng thực hiện tội phạm
nhưng không có sự nhất trí, không có sự liên kết hành vi thì không phải là
đồng phạm. Đối với dấu hiệu mục đích phạm tội, đối với tội phạm mà mục
đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì những người trong
đồng phạm có tổ chức phải cùng chung mục đích, nếu không cùng chung mục

12


đích thì không đồng phạm. Đối với tội phạm mục đích không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì những người trong đồng phạm có tổ
chức có thể cùng hoặc không cùng chung mục đích phạm tội, điều này không
có ý nghĩa trong việc định tội.
Ngoài những dấu hiệu mang tính chất của đồng phạm đã nêu trên, đồng
phạm có tổ chức còn mang những đặc điểm riêng so với hình thức đồng phạm
nói chung. Cụ thể: đồng phạm có tổ chức không thể là hình thức đồng phạm
giản đơn, vì nếu không có sự phân công vai trò thì không thể hiện được “tính
có tổ chức” của loại đồng phạm đặc biệt này. Hơn nữa, đồng phạm có tổ chức
phải là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao vì những
người trong đồng phạm có sự câu kêt chặt chẽ trong việc thực hiện tội phạm,
tuy nhiên không được đồng nhất đồng phạm có tổ chức với hình thức đồng
phạm có thông mưu trước.

Đồng phạm có tổ chức được BLHS xác định là dấu hiệu định tội, dấu
hiệu định khung tăng nặng trong một số tội phạm nhất định. Cùng với đó,
đồng phạm có tổ chức được coi là tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều 52 BLHS
năm 2015.
Thứ hai, những người trong đồng phạm có tổ chức có sự câu kết chặt
chẽ với nhau trong việc thực hiện tội phạm
Với tính chất là hình thức thực hiện tội phạm đặc biệt, những người
trong đồng phạm có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ trong việc thực hiện tội
phạm. Sự câu kết chặt chẽ là đặc điểm quan trọng nhất thể hiện tính chất và
mức độ nguy hiểm cao hơn của đồng phạm có tổ chức so với các hình thức
đồng phạm khác. Đặc trưng “câu kết chặt chẽ” đã nói lên tính chất của đồng
phạm có tổ chức, thể hiện ở những đặc điểm khách quan và chủ quan, là căn
cứ để phân biệt đồng phạm có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tuy
nhiên, khoản 2 Điều 17 BLHS 2015 quy định những người trong đồng phạm

13


có tổ chức có sự “câu kết chặt chẽ” hoàn toàn mang tính chất định tính, dẫn
đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật.
Dưới góc độ Khoa học Luật hình sự, theo tác giả, có thể đánh giá sự
“câu kết chặt chẽ” trong đồng phạm có tổ chức như sau:
Về khách quan, tính câu kết chặt chẽ trong đồng phạm có tổ chức được
thể hiện thông qua tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất.
Tính tổ chức chặt chẽ được hiểu là trước khi thực hiện tội phạm, những
người trong đồng phạm có tổ chức thường có sự liên kết, tập hợp với nhau
thành các băng, nhóm tội phạm với quy mô khác nhau. Những băng, nhóm tội
phạm này có phương hướng hoạt động trong một thời gian dài, chặt chẽ.
Trong nhiều trường hợp chỉ tổ chức phạm tội trong một thời gian ngắn. Giữa
những người đồng phạm có sự phân công vai trò giữa người cầm đầu, chỉ huy,

người xúi giục, người giúp sức và người thực hành trong việc thực hiện tội
phạm, mỗi người đều chịu sự điều khiển chung thống nhất. Hay nói cách
khác, trong hình thức đồng phạm này tồn tại quan hệ giữa “người quản lý” và
“người bị quản lý” trong đó yếu tố chỉ huy - phục tùng được xác lập. Nói đến
quan hệ chỉ huy - phục tùng là nói đến quan hệ giữa nngười cầm đầu và
những người khác trong tổ chức, quan hệ giữa người ra lệnh và người thực thi
mệnh lệnh. Hơn nữa, tính tổ chức chặt chẽ này còn được biểu hiện ở tính ổn
định trong sự phân công vai trò chỉ huy, cầm đầu và vai trò người thực hành.
Nếu trong hình thức đồng phạm thông thường, vai trò chỉ huy, cầm đầu có thể
có sự thay đổi khi thực hiện các tội phạm khác nhau thì trong đồng phạm có tổ
chức, vai trò này thường do một hoặc một vài cá nhân đảm nhiệm một cách
chuyên nghiệp. Vì vậy, sự tập trung sức lực, trí tuệ, sự phối hợp, tương trợ
giữa những người đồng phạm có tổ chức không những cho phép họ thực hiện
tội phạm một cách thuận lợi, mà còn có thể thực hiện nhiều tội phạm, gây ra
hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời

14


dễ dàng che giấu tội phạm, tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo
vệ pháp luật. [20, tr. 49-50]
Việc nhận định phương hướng hoạt động lâu dài, chặt chẽ để cùng nhau
thực hiện tội phạm của những người đồng phạm có tổ chức là những nhận
định ý thức chủ quan chứ không nhất thiết phương hướng đó phải được hiện
thực hóa. Do vậy, khi những người cùng thực hiện tội phạm có ý thức câu kết
chặt chẽ thì nên coi là đồng phạm có tổ chức, mặc dù họ có thể chỉ thực hiện
một tội phạm cụ thể một lần thì bị phát hiện và bắt giữ. Do đó, số lần phạm
tội, loại tội phạm mà những người đồng phạm thực hiện không phải là dấu
hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm có tổ chức [20, tr.50].
Bên cạnh thuộc tính có tổ chức chặt chẽ, để được coi là đồng phạm có

tổ chức, về mặt khách quan đồng phạm có tổ chức đòi hỏi phải có kế hoạch
thống nhất. Trong đồng phạm có tổ chức, tội phạm được thực hiện bao giờ
cũng có kế hoạch từ trước, những người tham gia thực hiện tội phạm có sự
tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất, từ khâu chuẩn bị, thực hiện
tội phạm cho đến khi tội phạm kết thúc, thậm chí còn che giấu tội phạm. Điều
này cho thấy đồng phạm có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông
mưu trước. [20, tr.50]
Về mặt chủ quan, đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm
cóthông mưu trước ở mức độ cao. Sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức của
những người phạm tội có tổ chức khi bàn bạc kế hoạch và phân công vai trò
đã hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành động của họ.
Mối quan hệ này rất cặt chẽ và bền vững. Trong ý thức chủ quan của mỗi
người tham gia thực hiện tội phạm, mụa đích phạm tội được hằn sâu. Do vậy,
mỗi khi ý thức phạm tội được nêu ra thì mỗi thành viên đều chấp nhận tuyệt
đối, cùng bàn bạc, thỏa thuận phương pháp, cách thức thực hiện và che giấu
tội phạm tối ưu. Trên cơ sở đó, trong quá trình thực hiện tội phạm, mỗi người
tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm có tổ chức đều tìm cách hỗ trợ

15


những người đồng phạm khác và nỗ lực thực hiện hoạt động của mình nhằm
đạt được kết quả phạm tội đã đề ra. [20, tr.50-51]
1.2. Trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm có tổ chức
1.2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng
phạm có tổ chức
Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy,
cơ sở cần thiết và đầy đủ để truy cứu TNHS trong đồng phạm có tổ chức là
những người trong đồng phạm có tổ chức phải thực hiện tội phạm được quy

định trong BLHS.
Trong đồng phạm có tổ chức, những người thực hiện tội phạm ngoài
thỏa mãn những dấu hiệu pháp lý của tội phạm nói chung còn thỏa mãn
những điều kiện của đồng phạm có tổ chức nói riêng là sự câu kết chặt chẽ
trong việc thực hiện tội phạm. Cơ sở TNHS của đồng phạm có tổ chức là điều
luật cụ thể quy định tội phạm mà những người đồng phạm tham gia thực hiện
và điều luật quy định về chế định đồng phạm có tổ chức. Xác định TNHS của
những người trong đồng phạm có tổ chức ngoài tuân thủ những nguyên tắc
chung của Luật hình sự còn phải tuân thủ các nguyên tắc mang tính đặc thù,
cụ thể: Những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu TNHS chung về
việc câu kết chặt chẽ thực hiện tội phạm, chịu TNHS độc lập khi thực hiện tội
phạm; chịu TNHS tương xứng với tính chất, mức độ tham gia của họ khi câu
kết chặt chẽ thực hiện tội phạm.
1.2.2. Những nguyên tắc của việc giải quyết trách nhiệm hình sự
trong đồng phạm có tổ chức
Thứ nhất, những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách
nhiệm hình sự chung về việc câu kết chặt chẽ thực hiện tội phạm
Trong đồng phạm có tổ chức, nhiều người cùng chung ý chí, chung
hành động để hướng tới một kết quả chung, hành vi của mỗi người có mối

16


quan hệ nhân quả với hậu quả chung của tội phạm. Do vậy, hậu quả của tội
phạm là sự kết hợp không thể tách rời của tất cả hành vi cá nhân của những
người trong đồng phạm có tổ chức. Do vậy, không thể tách rời hành vi của cá
nhân với hậu quả của tội phạm để truy cứu TNHS riêng cho từng người. Do
vậy, khi xác định TNHS trong trường hợp đồng phạm có tổ chức phải tuân thủ
nguyên tắc tất cả những người đồng phạm có tổ chức phải chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện.

Những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách nhiệm chung
về toàn bộ tội phạm do họ gây ra được thể hiện ở những nội dung sau:
Tất cả những người đồng phạm có tổ chức đều bị truy tố, xét xử về
cùng một tội danh, theo cùng một điều luật quy định tội phạm và trong phạm
vi chế tài mà điều luật đó quy định. Điều này có nghĩa, những người trong
đồng phạm có tổ chức phải chịu TNHS chung về tội phạm mà họ đã thực hiện
cùng với dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS “có tổ chức” nếu điều luật quy
định tội phạm có quy định, hoặc phải cùng chịu TNHS chung về tình tiết tăng
nặng TNHS “phạm tội có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52
BLHS năm 2015.
Ngoài việc phải chịu TNHS chung về tội phạm thực hiện, những người
đồng phạm có tổ chức còn phải chịu TNHS chung về những dấu hiệu định
khung tăng nặng TNHS trong điều luật quy định tội phạm phải chịu TNHS.
Ngoài ra, những người đồng phạm có tổ chức còn phải chịu TNHS chung về
những tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Điều 52 BLHS nếu cùng câu kết
chặt chẽ để thực hiện tội phạm.
Ngoài ra, tất cả những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu
trách nhiệm chung về nguyên tắc truy cứu TNHS, nguyên tắc quyết định hình
phạt, thời hiệu truy cứu TNHS… đối với tội phạm mà họ đã câu kết chặt chẽ
cùng thực hiện.

17


Thứ hai, những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách
nhiệm hình sự độc lập khi thực hiện tội phạm.
Trong đồng phạm có tổ chức, những người đồng phạm phải cùng chịu
TNHS chung về tội phạm họ đã thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc
TNHS là trách nhiệm của cá nhân, người phạm tội chỉ phải chịu TNHS về
những gì do cá nhân mình đã thực hiện bằng hành động hoặc không hành

động. Do vậy, việc xác định TNHS cụ thể đối với từng người trong đồng
phạm có tổ chức cần căn cứ vào hành vi cụ thể của họ. Nguyên tắc này được
thể hiện trên những nội dung sau:
Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của riêng người đồng phạm
có tổ chức nào thì chỉ được áp dụng cho người đó, không được áp dụng cho
những người đồng phạm có tổ chức khác.
Những người trong đồng phạm có tổ chức không phải chịu TNHS về
hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác. Trong đồng phạm có tổ
chức, mặc dù những người đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong
khi thực hiện tội phạm, tuy nhiên có những người đồng phạm trong quá trình
thực hiện tội phạm đã thực hiện hành vi vượt quá ý định chung của những
người đồng phạm khác muốn thực hiện. Thông thường, người có hành vi vượt
quá là người thực hành, bởi người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội
phạm. Do vậy, nếu như người thực hành thực hiện hành vi vượt quá mức cần
thiết mà những người đồng phạm có tổ chức khác mong muốn thực hiện thì
chỉ riêng người thực hành phải chịu TNHS về hành vi vượt quá này, những
người đồng phạm không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá đó. Đây cũng
chính là nội dung được quy định tại khoản 4 Điều 17 BLHS: “Những người
đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực
hành”. Hành vi vượt quá của người thực hành trong đồng phạm có tổ chức có
thể cấu thành một tội phạm độc lập cùng tính chất hoặc không cùng tính chất
với tội phạm mà những người đồng phạm có tổ chức khác mong muốn thực

18


hiện. Khoa học Luật hình sự xác định có hai trường hợp vượt quá của người
thực hành trong vụ án đồng phạm nói chung, đồng phạm có tổ chức nói riêng.
Cụ thể: vượt quá về số lượng và vượt quá về chất lượng hành vi. Trong đó
vượt quá về số lượng hành vi được hiểu là hành vi vượt quá của người thực

hành cùng tính chất với hành vi phạm tội mà những người đồng phạm có ý
định thực hiện. Vượt quá về chất lượng hành vi được hiểu là hành vi vượt quá
không cùng tính chất với hành vi những người đồng phạm có tổ chức có ý
định thực hiện.
Việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình
phạt của người đồng phạm có tổ chức nào thì chỉ áp dụng đối với người đó mà
không áp dụng đối với những người đồng phạm khác.
Thứ ba, những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách
nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ tham gia của họ khi câu kết
chặt chẽ thực hiện tội phạm
Mặc dù những người đồng phạm có tổ chức tuy cùng phạm một tội
nhưng tính chất và mức độ tham gia là khác nhau, do đó tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của mỗi người cũng khác nhau. Cá thể hóa TNHS của
những người trong đồng phạm có tổ chức có cơ sở lý luận là nguyên tắc cá thể
hóa TNHS nói chung. Theo nguyên tắc này, việc xác định TNHS phải phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà những người
đồng phạm thực hiện trong vụ án đồng phạm có tổ chức.
Tính chất, mức độ tham gia thực hiện tội phạm của những người trong
đồng phạm có tổ chức được xác định bởi vai trò của từng người đồng phạm,
đặc thù về hoạt động của họ trong đồng phạm có tổ chức. Xét về tính chất
hành vi phạm tội trong đồng phạm có tổ chức, người tổ chức với hành vi chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy, phân công vai trò, vị trí cho từng người đồng phạm.
Người tổ chức giữa vai trò thống nhất nỗ lực phạm tội của những người đồng
phạm, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm nên hành vi của

19


×