Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Dân số và phát triển Tác động của di dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.53 KB, 8 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA DI DÂN
Quá trình di dân từ nông thôn ra đô thị đã tạo điều kiện cho người di dân có
cơ hội được tiếp xúc thường xuyên với xã hội đô thị và họ dần dần làm
quen với lối sống của người đô thị, học hỏi được những kiến thức cần
thiết phục vụ cho bản thân, cũng như sự phát triển của gia đình. Việc áp
dụng những kiến thức mới, những thành quả tiến bộ của khoa học kỹ
thuật vào phục vụ sản xuất không chỉ nâng cao năng suất lao động mà
còn nâng cao trình độ, kỹ năng cho người nông dân, giúp họ giảm bớt
thời gian lao động để có điều kiện nghỉ ngơi phục hồi sức khoẻ.
làm giầu vốn hiểu biết của bản thân mà còn được truyền tải về cho các
thành viên khác trong gia đình. Thông qua việc di chuyển đó người dân
được tiếp cận với môi trường mới và học hỏi được nhiều kiến thức để mở
rộng sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sinh
hoạt. Đây cũng là dấu hiệu bước đầu cho sự khơi dậy tính năng động, sáng
tạo của người nông dân, xoá dần sức ỳ tâm lý của người dân ở nông thôn.
Di dân từ nông thôn ra đô thị còn có những tác động quan trọng góp phần
thay đổi cuộc sống gia đình ở nông thôn. Người nông dân vốn dĩ gắn bó sớm
chiều với đồng ruộng, có người dường như cả đời không bước chân ra khỏi
luỹ tre làng, không có cơ hội tiếp cận với cuộc sống văn minh đô thị. Trong
khi đó, những người di dân hàng ngày tiếp xúc với cuộc sống sinh động ở đô
thị với mức sống cao, điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần đầy đủ, trình
độ dân trí cao… Do đó, lối sống đô thị ít nhiều ảnh hưởng tới người di dân
và chính họ sẽ là những người truyền tải những nét văn hoá: trong giao
tiếp, trong sinh hoạt hàng ngày của người đô thị về nông thôn. Xét ở một
khía cạnh nào đó, người di dân thông qua quá trình di chuyển đã và đang
gián tiếp chuyển về nông thôn lối sống đô thị có chiều hướng tích cực, làm
thay đổi diện mạo cuộc sống ở các vùng quê.


Di cư là một phần quan trọng và không thể tách rời trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội (KT-XH). Di cư được coi là một giải pháp tận dụng


những cơ hội để cải thiện cuộc sống. Quá trình toàn cầu hóa, chênh lệch về
mức sống, khác biệt trong thu nhập, cơ hội việc làm, nhu cầu dịch vụ xã hội
và sức ép sinh kế đang ngày trở thành những áp lực cơ bản đang tạo nên các
dòng di chuyển lao động trong và ngoài nước. Mặc dù có nhiều lý do, song
tất cả đều mong muốn có được cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình và bản
thân (Đặng Nguyên Anh, 2005). Nhìn nhận về tác động của di cư cần được
xem xét ở cả hai khía cạnh: tích cực và hạn chế, bởi tác động của di cư
không chỉ giới hạn ảnh hưởng trong gia đình mà còn ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của cộng đồng.
Những cơ hội đối với sự phát triển kinh tế tại địa bàn nơi đi
Thay đổi nghề nghiệp tại địa phương
Tình trạng nghề nghiệp của người lao động trước khi di cư cũng phần
nào phản ánh thực trạng phát triển kinh tế của những địa phương nơi có
người di cư lao động. Nghề nghiệp của lao động di cư ở mỗi địa phương thể
hiện khả năng đáp ứng nhu cầu việc làm. Sau khi di cư, người lao động có
sự thay đổi cơ bản về nghề nghiệp. Đa phần chuyển từ làm nông sang các
nghề phi nông (Lê Thị Kim Lan, 2010). Sự đa dạng về hình thức việc làm và
nghề nghiệp sẽ đem lại cho lao động di cư sự đa dạng về kinh nghiệm khác
nhau cả trong công việc và kỹ năng sống. Khi trở về quê hương, người di cư
sẽ đem theo những kinh nghiệm này để áp dụng tại địa phương họ. Điều này
có tác động không nhỏ tới sự phát triển KT-XH của địa phương. Hơn thế,
quá trình di cư nông thôn-đô thị giúp người lao động học hỏi thêm nhiều
kinh nghiệm trong làm ăn, buôn bán, giao thương, nâng cao khả năng nắm
bắt nhu cầu thị trường cũng như được tiếp cận với khoa học kỹ thuật cùng
với số vốn tích lũy được, để khi trở về quê họ có thể để mở các cơ sở sản
xuất nhỏ, cửa hàng kinh doanh dịch vụ, buôn bán nhỏ đáp ứng nhu cầu của
người dân địa phương. Điều này đã góp phần vào việc chuyển lao động nông
nghiệp thuần túy sang các lĩnh vực kinh tế khác nhau và đa dạng hóa các loại
hình sinh kế. Đồng thời sự nhạy bén trong việc tiếp nhận thông tin, kỹ năng
hay nghề mới giúp lao động di cư năng động và linh hoạt hơn trong tổ chức

hoạt động kinh tế cho hộ gia đình; cũng như khả năng phát triển, mở mang
ngành nghề mới, và truyền tải kinh nghiệm cho các thành viên khác trong
gia đình, góp phần thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của người nông dân.
Tác động trực tiếp đến người lao động, có thêm điều kiện và cơ hội
trong phát triển kinh tế


Quá trình di cư từ nông thôn ra đô thị đã tạo điều kiện cho người di cư
có thêm cơ hội được tiếp xúc với công nghiệp hóa-đô thị hóa hiện đại.
Người lao động tiếp thu nhiều kiến thức mới từ thực tiễn lao động, các thành
quả tiến bộ về khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất có ý nghĩa không chỉ
nâng cao năng suất lao động mà còn nâng cao trình độ kỹ năng cho người
nông dân, giúp họ giảm bớt thời gian lao động và có điều kiện nghỉ ngơi
phục hồi sức khỏe (Nguyễn Thị Phương Thảo, 2010). Mặt khác di cư nông
thôn-đô thị còn góp phần giảm sức ép về ruộng đất, lao động dư thừa, đồng
thời phát triển và hình thành các loại hình dịch vụ đa dạng, năng động đáp
ứng nhu cầu sức lao động của nền kinh tế thị trường. Ngoài việc nâng cao
thu nhập, cải thiện mức sống gia đình, học hỏi được nghề mới, những kinh
nghiệm trong sản xuất kinh doanh nó còn có vai trò truyền tải các thang giá
trị mới về nông thôn. Như vậy, di cư trên thực tế đã thúc đẩy quá trình luân
chuyển giữa nông thôn-đô thị tạo ra những nhu cầu và lối sông mới ở làng
quê, đồng thời góp phần tăng thu nhập, tạo nền tảng để phát triển kinh tế và
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới nông thôn. Đây được xem là một giải pháp hữu
hiệu trong việc giải quyết bài toán kinh tế cho gia đình ở nông thôn trong
giai đoạn hiện nay.
Góp phần cải thiện cuộc sống và tăng thu nhập cho bản thân và gia
đình
Phần lớn người dân di cư ra thành thị với mục tiêu kiếm tiền giúp đỡ gia
đình và bản thân. Khoản đóng góp của người di cư là không nhỏ so với mức
thu nhập từ ruộng đồng, là thu nhập quan trọng cho ngân sách gia đình.

Nguồn tiền gửi về cho gia đình được sử dụng cho nhiều mục đích: chăm lo
sức khỏe, học hành của con cái, xây dựng/sửa chữa nhà cửa, chi trả nợ…
Mặc dù chưa có thống kê về số lượng tiền và lưu lượng hàng luân chuyển do
người di cư gửi về nông thôn, di cư nông thôn-đô thị đang góp phần đáng kể
vào việc cải thiện thu nhập, nâng cao mức sống, tạo vốn phát triển kinh tế hộ
gia đình nông thôn hiện nay (Đặng Nguyên Anh, 1997). Nguồn vốn tích lũy
được từ quá trình di cư được người lao động sử dụng đầu tư vào sản xuất
như: đầu tư cho đồng ruộng để có năng suất cao, tổ chức chăn nuôi, trồng
trọt để có thêm thu nhập. Như vậy, di cư trở thành phương thức hữu hiệu để
tạo lập nguồn vốn nhằm thực hiện một sự đầu tư sinh lãi và phát triển ở nông
thôn. Nó tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh tế gia đình và cải thiện
cuộc sống.
Sự cải thiện về thu nhập phản ánh những đóng góp tích cực của di
cư lao động trong việc phát triển nông thôn, góp phần rút ngắn sự


chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn góp phần giải quyết
xóa đói giảm nghèo.).

Những thách thức đối với sự phát triển kinh tế-xã hội tại nơi đi
Tác động đối với con cái và mối quan hệ cha mẹ-con cái trong gia
đình
Tác động của di cư tới con cái của các gia đình có người di cư là một
vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Kết quả của Điều tra di
cư Việt Nam năm 2004 cho thấy khoản chi lớn thứ 3 của gia đình ở quê từ
tiền gửi là hoạt động giáo dục. Cứ 5 người được hỏi trong cuộc điều tra thì
có một người cho biết có sử dụng tiền gửi vào đầu tư giáo dục cho con cái.
Điều này phù hợp với kết luận cho rằng tác động lên giáo dục cho con cái
của gia đình có người di cư là một trong hai mối quan tâm lớn nhất của gia
đình ở quê. Đa phần tiền kiếm được ngoài mục đích phát triển kinh tế hộ gia

đình thì việc đầu tư cho con cái học hành là một trong số những mục tiêu
quan trọng của các hộ gia đình người di cư. Nghiên cứu năm 2009 của Viện
Xã hội học cho thấy việc thiếu cha hoặc mẹ trong gia đình, trẻ em đặc
biệt là trẻ em dưới 6 tuổi trở nên rất yếu thế với các rủi ro về sức khỏe,
giáo dục, hơn một nửa số gia đình được điều tra cho biết họ không hài
lòng với kết quả của con ở trường khi cha mẹ hoặc cả cha và mẹ cùng di
cư. Điều này đồng nghĩa với việc con cái thiếu hướng dẫn và hỗ trợ của
cha mẹ và các em phải mất nhiều thời gian cho công việc gia đình hơn.
Đối với trẻ em, gia đình là nơi nương tựa vững chắc nhất. Tuy nhiên,
nhiều trường hợp khi cha mẹ đi làm ăn xa, việc quan tâm đến con cái ở nhà
không được như trước khi di cư. Đa phần lao động di cư để lại con cho ông
bà chăm sóc, bảo ban học hành. Một số gia đình có bố mẹ đi làm ăn xa, con
cái thường bỏ học giữa chừng hoặc học hành sa sút. Do vậy, việc chăm sóc,
giáo dục con cái ở các gia đình có người di cư lao động là cũng là một
vấn đề trở đối với các gia đình có người thân đi làm ăn xa.
Nhiên cứu về “Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn - Thực
trạng và những tác động” cho thấy, di cư của phụ nữ có ảnh hưởng tiêu
cực đến trẻ em nhiều hơn là tích cực. Số người cho rằng con cái học “tốt
hơn” ở các cấp: cấp 1,2,3 đều thấp hơn rất nhiều so với số người cho rằng
“kém hơn”.


Bảng 2. Thay đổi lực học của con cái trong gia đình có phụ nữ di cư
Đơn vị tính: %
Cấp học

Thay đổi so với trước khi di cư
Tốt hơn

Như cũ


Kém hơn

Không biết

Cấp 1

6,3

28,2

25,5

39,4

Cấp 2

6,3

26,2

20,9

46,6

Cấp 3

5,0

15,9


8,6

70,5

Trên cấp 3

6,0

8,6

4,6

80,8

Nguồn: Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn - Thực trạng và những tác
động,
Trong Bảng 2, chỉ có 6,3% cho biết trẻ em cấp 1 học tốt hơn, trong khi
đó tỷ lệ cho rằng “kém hơn” chiếm đến 25,5% và tỷ lệ này cũng cao nhất
trong tất cả các cấp, 6,3% “tốt hơn” và 20,9% kém hơn đối với trẻ em cấp 2.
Sự chênh lệch giữa tốt và kém của học sinh cấp 3 nhỏ hơn: 5,0% so với
8,6%.
Tác động đến người cao tuổi
Đa phần những người di cư đều nằm trong độ tuổi lao động từ 18-60, do
vậy phần đông các hộ gia đình chỉ còn lại những người cao tuổi (NCT). Vào
các mùa vụ chính trong năm, các công việc nặng nhọc trong gia đình đa
phần đều phải thuê, mướn người ngoài làm. Vào những lúc ốm đau không
có người thân ở bên cạnh lo toan, chăm sóc. Mặc dù người di cư có gửi
tiền về để trang trải kinh tế gia đình, thuốc men, quà để khám chữa bệnh
cũng như động viên, chia sẻ qua điện thoại. Một số gia đình có điều kiện hơn

đã thuê người giúp việc chăm sóc người thân trong gia đình. Tuy nhiên, đa
phần NCT vẫn cảm thấy thiếu vắng tình cảm trong gia đình. Điều này tác
động không nhỏ đến tâm lý NCT nói riêng cũng như chăm sóc và nuôi
dưỡng người thân trong gia đình nói chung.
Ảnh hưởng tới sự phân công lao động và thay đổi vai trò giới trong
gia đình


Một số nghiên cứu đã tập trung phân tích vào việc phân công trách
nhiệm trong gia đình sau khi có một thành viên di cư. Nếu trong gia đình có
người di cư là nam giới, khối lượng công việc mà người phụ nữ ở lại phải
gánh vác thường nhiều hơn (Paris, Thelma và cộng sự, 2009). Đại đa số cư
dân tìm đến các thành phố thuộc nhóm tuổi dưới 40. Không ít người là thanh
niên chưa xây dựng gia đình và ở độ tuổi lao động sung sức nhất. Do sự hấp
dẫn của cuộc sống thành thị và tâm lý không muốn gắn bó với nghề nông thu
nhập thấp, nhóm người trẻ tuổi chiếm phổ biến trong nhóm cư dân nông
thôn di cư. Tính chọn lọc của di cư còn được phản ánh bằng sự khác biệt về
giới trong quá trình di chuyển. Một số nghiên cứu xã hội học cũng cho thấy,
trong các công việc liên quan đến sản xuất nông nghiệp - chăn nuôi, chỉ có
công việc nuôi cá là nam giới đảm nhận chính, còn các công việc khác phụ
nữ tham gia nhiều gấp 2-3 lần so với nam giới. Đối với các công việc làm
thuê, tỷ lệ nam giới nhiều gấp 3 lần phụ nữ. Khi nam giới rời gia đình đi
nơi khác kiếm sống, gánh nặng công việc gia đình, sản xuất do phụ nữ
đảm nhận. Di cư ảnh hưởng tới sự phân công lao động theo giới. Các điều
tra gần đây cho thấy xu hướng phụ nữ di cư đang gia tăng, chủ yếu làm thuê,
buôn bán… tại các thành phố hoặc làm công nhân tại các khu công nghiệp.
Nữ giới chiếm trên một nửa số dân di cư ở hầu hết các nhóm dân di cư
(TCTK, 2009).
Phân tích tác động theo nhập cư và xuất cư
1. Tác động của nhập cư:

Tích cực:
Cung cấp nguồn lao động lớn cho các ngành kinh tế góp phần thúc
đấy tăng trưởng kinh tế cho vùng.
-

Đối với công nghiệp: Là nguồn lao động chính cho các khu
công nghiệp. Góp phần tăng năng suất lao động và chuyển dịch cơ
cấu ngành trong công nghiệp.

-

Đối với nông nghiệp: giúp mở rộng diện tích, tạo ra nhiều
ngành nghề làm cho cơ cấu ngành đa dạng hơn. Góp phần tăng
năng suất và sản các loại cây công nghiệp và nuôi trồng thủy, hải
sản.


-

Đối với dịch vụ: Góp phần tăng tỉ trọng ngành dịch vụ qua
việc tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Trực tiếp tăng lực lượng lao động cho ngành dịch vụ.

-

Nhập cư đã ảnh hưởng đến sự phát triển dân số vùng: Nhập
cư làm cho vùng gia tăng dân số nhanh, nhất là lực lượng lao động.

-


Nhập cư góp phần phân bố lại dân cư và lao động: Các khu
vực nhập cư lớn mật độ dân số tăng nhanh, có nhiều thay dổi về
phân bố lao động theo lãnh thổ.

-

Nhập cư làm đa dạng nền văn hóa cho vùng

-

Nhập cư góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hóa.

Tác động tiêu cực
-

Gây sức ép lên cơ sở hạ tầng,
gây sức ép cho giáo dục, y tế.

-

Gây sức ép về việc làm, về an
ninh trật tự, môi trường

-

Làm mất cân bằng giới tính
trong dân cư.

-


Gây nhiều khó khăn trong việc
quản lý

2. Tác động của xuất cư
Tích cực:
-

Làm giảm bớt áp lực về giáo
dục, y tế, việc làm và cơ sở hạ tầng.

-

Tăng thêm vốn thông qua việc
gửi tiền về của người xuất cư.

-

Góp phần mở rộng thị trường
tiêu thụ.


Tiêu cực:
-

Làm mất lực lượng lao động

-

Góp phần làm chênh lệch giới
tính




×