Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM BÙN THẢI CÔNG NGHIỆP KHAI THÁC, CHẾ BIẾN QUẶNG THIẾC VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, TÁI SỬ DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Vũ Thị Hồng Nguyệt

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN
LƯU TRỮ NƯỚC CẤP ĐẾN HÀM LƯỢNG
CÁC
HỢP CHẤT
NIT ĐIỂM BÙN THẢI CÔNG NGHIỆP
NGHIÊN
CỨU ĐẶC
KHAI THÁC, CHẾ BIẾN QUẶNG THIẾC VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, TÁI SỬ DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2017
Hà Nội – 2017

1 – 2019
Hà Nội


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Vũ Thị Hồng Nguyệt



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM BÙN THẢI CÔNG NGHIỆP
KHAI THÁC, CHẾ BIẾN QUẶNG THIẾC VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, TÁI SỬ DỤNG
Chuyên ngành: Khoa học Môi trường
Mã số: 8440301.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Ngô Vân Anh
TS. Ngô Thị Lan Phương

2

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Vũ Thị Hồng Nguyệt

3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình

của PGS. TS Nguyễn Thị Hà, TS. Ngô Vân Anh và TS. Ngô Thị Lan Phương,
những người thầy đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ dẫn những định hướng nghiên cứu,
kiến thức chuyên môn và hơn hết là truyền cho tác giả lòng đam mê khoa học và
tinh thần tự giác trong học tập nghiên cứu. Tác giả xin chân thành bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này với các thầy, những người đã hết lòng
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Em xin cảm ơn để tài KC 08.18/16-20 “Nghiên cứu xây dựng mô hình công
nghệ khả thi quy mô pilot để xử lý bùn thải công nghiệp giàu kim loại nặng theo
hướng tận thu tài nguyên, tiết kiệm năng lượng” đã hỗ trợ trong quá trình thực hiện
khóa luận.
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy, cô và tập thể cán bộ Khoa
Môi trường trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội đã đóng góp những ý kiến
chân thành, bổ ích để giúp tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các học viên nơi tác giả học tập, đã
giúp đỡ và đóng góp ý kiến cho tác giả trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu
để hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu trong gia
đình, đã luôn ở bên cạnh và động viên tác giả cả về vật chất và tinh thần để tác giả
vững tâm hoàn thành luận văn của mình.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về tất cả sự giúp đỡ quý báu này!
Tác giả luận văn

4


MỤC LỤC

5



DANH MỤC CÁC BẢNG

6


DANH MỤC HÌNH VẼ

7


DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Giải thích
STT
1
2
3
4

Ký hiệu
BTNMT
BYT
COD
DO

5

MPN

6

7
8

NOB
QCVN
TCVN

Tiếng Việt

Tiếng Anh

Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ Y tế
Nhu cầu ôxy hoá học
Chemical oxigen demand
Oxi hòa tan
Dissolved Oxigen
Số lượng chắc chắn nhất có
Most probable number
thể
Vi khuẩn oxi hóa nitrit
Nitrite-oxidizing bacteria
Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia
Tiêu chuẩn Việt Nam

8


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp khai khoáng là một trong những ngành công nghiệp hàng đầu
góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta.
Nhưng song song với sự phát triển vượt bậc về kinh tế là những vấn đề tiêu cực về
môi trường phát sinh. Hậu quả từ việc khai thác, chế biến khoáng sản không tuân
theo quy định đó chính là ô nhiễm môi trường – là một trong những vấn nạn của
nước ta thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quá trình làm giàu khoáng kim loại nặng đã tạo ra một lượng lớn bùn thải có
chứa các hóa chất dùng trong tuyển quặng. Quá trình đổ thải trực tiếp bùn thải giàu
kim loại hại không xử lý hoặc xử lý không đạt yêu cầu vào môi trường là nguyên
nhân gây ô nhiễm kim loại nặng tại khu vực khai thác. Ngoài ra, sự tích tụ chất thải
rắn do tuyển rửa trong lòng hồ, suối khe có thể làm thay đổi dòng chảy, dung tích
nước, biến đổi chất lượng nước gây hại đổi với môi trường sống của con người và
sinh vật.
Bên cạnh đó, một trong những định hướng quan trọng đang được nước ta cũng
như các quốc gia trên thế giới quan tâm đó là vấn đề tận thu và sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên khoáng sản. Hiện nay, bùn thải hoặc các sản phẩm trung gian ở
Việt Nam chưa được xử lý tận thu triệt để, dẫn đến tình trạng mất mát đáng kể về
thiếc cũng như một số khoáng sản có ích khác vẫn còn phổ biến.
Hoạt động khai thác, chế biến thiếc tại Việt Nam chủ yếu là hoạt động sản
xuất, các biện pháp bảo vệ môi trường áp dụng còn hạn chế. Do vậy, Môi trường
xung quang khu vực này đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng.
Nhận thức được vấn đề này, tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm bùn thải
công nghiệp khai thác, chế biến quặng thiếc và đề xuất giải pháp quản lý, tái sử
dụng” nhằm xác định hiện trạng trạng thải, đặc tính bùn thải công nghiệp khai thác,
chế biến quặng thiếc chứa kim loại nặng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp
quản lý, tận dụng bùn thải công nghiệp phù hợp, tiết kiệm năng lượng cho các khu
công nghiệp khai khoáng, chế biến kim loại nặng.
9



2. Mục tiêu của đề tài
-

Đánh giá hiện trạng thải, đặc điểm bùn thải công nghiệp khai khoáng, chế biến

-

quặng thiếc.
Đề xuất một số giải pháp quản lý, công nghệ xử lý và tận dụng bùn thải công nghiệp
phù hợp, tiết kiệm năng lượng.

3. Nội dung nghiên cứu
-

Đánh giá hiện trạng bùn thải công nghiệp khái thác, chế biến quặng thiếc.
Phân tích các chỉ tiêu đặc trưng của bùn thải công nghiệp khai thác, chế biến quặng
thiếc: Độ ẩm, thành phần cấp hạt, Thành phần kim loại: Cu, Ni, Cr, Cd, Pb…Thành

-

phần hữu cơ, khoáng vật (nếu có) và nhiệt trị.
Đề xuất một số giải pháp quản lý, công nghệ xử lý và tận dụng bùn thải công nghiệp
phù hợp, tiết kiệm năng lượng.

10


Chương 1 - TỔNG QUAN


1.1

Tổng quan về địa hóa, khoáng vật thiếc và công nghệ tuyển quặng thiếc

1.1.1 Tính chất
Thiếc là kim loại mềm, có màu trắng bạc, dễ dát thành lát mỏng 0,005mm. Sn
được ưa chuộng trong kỹ thuật và đời sống do Sn có sức chống ăn mòn cao, muối
Sn không độc, Sn dễ nấu chảy và có thể luyện thành hợp kim cao cấp.

1.1.2 Đặc điểm khoáng vật
Thiếc tồn tại trong khoáng vật thuộc các nhóm oXt, sulfostanat, surful, silicat,
borat và niobat. Khoáng vật quan trọng nhất của thiếc là cassiterit (SnO 2) chứa 6978 % Sn, stannin (Cu2FeSnS4) chứa 19-24 % Sn, tilit (PbSnS 2) chứa 30,4 % Sn,
cylinđrit (Pb3Sn4Sb2S14) chứa khoảng 25,12 % Sn, franckeit (Pb3Sn4Sb2S14) chứa từ
9,5 - 17,1 % Sn. Tuy nhiên, chỉ có cassiterit và stannin là tạo thành tụ khoáng.
Cassiterit là khoáng vật bền vững trong điều kiện phong hóa, do vậy có thể tạo nên
những mỏ sa khoáng lớn, ngược lại stannin rất dễ bị phá hủy, cho nên chỉ tồn tại
trong quặng gốc.
Cassiterit (SnO2) với thành phần: Sn = 78,62%; O = 21,38%; tỷ trọng 6,8 –
7,1; độ cứng 6 – 7 . Trong thực tế luôn có Fe, Mn, Ta, Nb, In, Ge, Be, Zr, SiO 2 đôi
khi có cả V, Ni, Sb, Se… Tinh thể có dạng lăng trụ thường hình kim đôi khi có dạng
tháp đôi. Các mặt lăng trụ thường vết thẳng đứng, còn các mặt của hình tháp lại có
vết khía song song với các cạnh của chúng. Rất hay gặp các song tinh cassiterit.
Ngoài dạng kết tinh, còn có dạng khác của cassiterit, đó là dạng thiếc thớ gỗ. Thiếc
thớ gỗ thường có dạng nhũ hình quả lê, hình giọt nước với cấu tạo tỏa tia đồng tâm
do các gel SnO2 đông kết.
Stannin (Cu2FeSnS4) với thành phần lý thuyết: Cu = 29,6%, Fe = 13%, Sn =
27,6%, S = 29,8%; tỷ trọng 4,3 – 5,2; độ cứng 3 – 4. Hàm lượng thiếc thực tế biến
động từ 24,08 – 29,08%; thường có Zn (đến 8,71%), Cd (đến 0,83%), Bi (đến
0,2%), Sb (0,2%), đôi khi có Pb và Ag. Stannin thường rất ít gặp so với cassiterit;
nó thường chỉ có mặt trong các thành tạo quặng thiếc thuộc thành hệ cassiterit –

surful. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy gần 40 khoáng vật khác nhau có chứa thiếc,
11


tuy nhiên các khoáng vật này ít phổ biến, và nếu có thì cũng không đủ hàm lượng
để khai thác công nghiệp. Hàm lượng thiếc tùy thuộc vào thành phần hóa học của
khoáng vật.

Hình 1. 1. Tinh thể cassiterit

Hình 1. 2. Tinh thể stannin

Bảng 1. 1. Bảng thống kê các khoáng vật chứa thiếc
Tên khoáng vật
Cassiterite
Oulankaite
Canfieldite
Kuramite
Ferrokesterite
Stannite
Kesterite
Cernyite
Velikite
Hocassiteritrtite
Pirtquitasite
Sakuraiite
Petrukite
Rhodostannite
Toyohaite
Stannoidite

Volfsonite
Chatkalbitite
Mawsonite
Hemuscovitsite
Kiddcreekite
Vinciennite

Công thức khoáng vật
SnO2
(Pd,Pt)5(Cu,Fe)4SnTe2S2
Ag8SnS6
Cu3SnS4
Cu2(Fe,Zn)SnS4
Cu2FeSnS4
Cu2(Zn,Fe)SnS4
Cu2CdSnS4
Cu2HgSnS4
Ag2FeSnS4
Ag2ZnSnS4
(Cu,Zn,Fe,In,Sn)4S4
(Cu,Fe,Zn)2(Sn,In)S4
Cu2FeSn3S8
Ag2FeSn3S8
Cu8Fe3Sn2S12
Cu10Cu2+Fe2+Fe3+2Sn3S16
Cu6FeSn2S8
Cu6Fe2SnS8
Cu6SnMoS8
Cu6SnWS8
Cu10Fe4Sn(As,Sb)S16


Tỷ trọng

Độ cứng

6,4 – 7,1
10,27
6,28
4,56

6–7
3,5 – 4
2,5
5
4
3,5 – 4
4,5
4
4
4
4
4
4,5
4
4
4
4
4,5
3,5 – 4
4

4
4,5

4,3 – 4,5
4,54 – 4,59
4,776
5,45
4,77
4,822
4,61
4,94
4,29
5
4,66
4,47
4,29
12

Hàm lượng thiếc
(%)
78,77
8,94
10,11
27,13
27,46
27,61
32,65
24,40
20,66
22,89

22,48
2,8
25,00
41,83
40,28
18,29
20,52
25,50
13,67
13,93
12,62
7,47


Nekrasovite
Colusite
Stibiocolusite
Herzenbergite
Stistaite
Mohite
Tealbitlite
Surfulredaite
Potosiite
Levyclaudite
Franckeite
Cylindrite
Yuanjiangite
Ottemannite
Berndtite
Vurroite

Tên khoáng vật
Cassiterite
Oulankaite
Canfieldite
Kuramite
Ferrokesterite
Stannite
Kesterite
Cernyite
Velikite
Hocassiteritrtite
Pirtquitasite
Sakuraiite
Petrukite
Rhodostannite
Toyohaite
Stannoidite
Volfsonite
Chatkalbitite
Mawsonite
Hemuscovitsite
Kiddcreekite
Vinciennite
Nekrasovite
Colusite

Cu26V2(Sn,As,Sb)6S32
Cu12V(As,Sb,Sn,Ge)3S16
Cu13V(Sb,As,Sn)3S16
SnS

SnSb
Cu2SnS3
PbSnS2
PbSnS3
Pb6Sn2FeSb2S14
Pb8Sn7Cu3(Bi,Sb)3S28
(Pb,Sn)6FeSn2Sb2S14
Pb3Sn4FeSb2S14
AuSn
Sn2S3
SnS2
Pb21SnAs11Bi11S50Cl8Se

4,62
4,2

5,5 – 5,9
5,4 – 5,42
11,7 – 11,9
4,835
4,5

4,5 – 5
3–4
4 – 4,5
2
3
4
1,5 – 2
2,5 – 3

2,5
2,5 – 3
2,5
2,5
3,5 – 4
2
1–2

Công thức khoáng vật

Tỷ trọng

Độ cứng

SnO2
(Pd,Pt)5(Cu,Fe)4SnTe2S2
Ag8SnS6
Cu3SnS4
Cu2(Fe,Zn)SnS4
Cu2FeSnS4
Cu2(Zn,Fe)SnS4
Cu2CdSnS4
Cu2HgSnS4
Ag2FeSnS4
Ag2ZnSnS4
(Cu,Zn,Fe,In,Sn)4S4
(Cu,Fe,Zn)2(Sn,In)S4
Cu2FeSn3S8
Ag2FeSn3S8
Cu8Fe3Sn2S12

Cu10Cu2+Fe2+Fe3+2Sn3S16
Cu6FeSn2S8
Cu6Fe2SnS8
Cu6SnMoS8
Cu6SnWS8
Cu10Fe4Sn(As,Sb)S16
Cu26V2(Sn,As,Sb)6S32
Cu12V(As,Sb,Sn,Ge)3S16

6,4 – 7,1
10,27
6,28
4,56

6–7
3,5 – 4
2,5
5
4
3,5 – 4
4,5
4
4
4
4
4
4,5
4
4
4

4
4,5
3,5 – 4
4
4
4,5
4,5 – 5
3–4

5,197
6,91
4,86
6,4
5,54 – 5,88
6,2

4,3 – 4,5
4,54 – 4,59
4,776
5,45
4,77
4,822
4,61
4,94
4,29
5
4,66
4,47
4,29
4,62

4,2
13

10,39
4,26
2,20
78,73
49,37
34,71
30,44
30,41
10,65
19,97
13,68
25,74
37,60
71,17
64,92
1,24
Hàm lượng thiếc
(%)
78,77
8,94
10,11
27,13
27,46
27,61
32,65
24,40
20,66

22,89
22,48
2,8
25,00
41,83
40,28
18,29
20,52
25,50
13,67
13,93
12,62
7,47
10,39
4,26


Stibiocolusite
Herzenbergite
Stistaite
Mohite
Tealbitlite
Surfulredaite
Potosiite
Levyclaudite
Franckeite
Cylindrite
Yuanjiangite
Ottemannite
Berndtite

Vurroite

Cu13V(Sb,As,Sn)3S16
SnS
SnSb
Cu2SnS3
PbSnS2
PbSnS3
Pb6Sn2FeSb2S14
Pb8Sn7Cu3(Bi,Sb)3S28
(Pb,Sn)6FeSn2Sb2S14
Pb3Sn4FeSb2S14
AuSn
Sn2S3
SnS2
Pb21SnAs11Bi11S50Cl8Se

4 – 4,5
2
3
4
1,5 – 2
2,5 – 3
2,5
2,5 – 3
2,5
2,5
3,5 – 4
2
1–2


2,20
5,197
78,73
6,91
49,37
4,86
34,71
6,4
30,44
5,54 – 5,88
30,41
6,2
10,65
19,97
5,5 – 5,9
13,68
5,4 – 5,42
25,74
11,7 – 11,9
37,60
4,835
71,17
4,5
64,92
1,24
(Khoáng sản đại cương [24])

1.1.3 Đặc điểm địa hóa
Thiếc có tên Latinh là stannum, ký hiệu Sn, là nguyên tố hóa học nhóm IV

trong hệ thống tuần hoàn Mendeleev.
Thiếc kim loại có màu trắng bạc, kết tinh ở dạng tứ diện. Khối lượng nguyên tử
118,69. Trọng lượng riêng 7,3g/cm³. Nhiệt độ chảy 231,9ºC. Nhiệt độ sôi 2270ºC.
Thiếc thuộc kim loại khan hiếm.
Thiếc có hai dạng thụ hình là αSn và βSn. Ở nhiệt độ thường, thiếc tồn tại ở
dạng βSn, đó là một loại thiếc trắng mà mọi người đều biết. Ở nhiệt dộ dưới +13,2
ºC, αSn bền hơn, là một loại bột dạng tinh thể rất mịn có màu xám. Thiếc trắng
(βSn) biến thành thiếc xám (αSn) xảy ra rất nhanh ở nhiệt độ -33 ºC. Quá trình biến
hóa đó mang một cái tên hình tượng là “bệnh dịch hạch thiếc”.
Sn có trị số Clack 2,5.10-4%. Sn có 10 đồng vị với mức độ phổ biến %: Sn 112 0,96%; Sn114 - 0,66%; Sn115 - 0,35%; Sn116 - 14,3%; Sn117 - 7,61%; Sn118 - 24,04;
Sn119 - 8,58%; Sn120 - 32,85%; Sn122 - 4,72%; Sn124 - 5,94%.
Thiếc có tính bền hóa học cao, trong đá magma aXt cao hơn đá mafic. Ở nhiệt
độ dưới 100 ºC thiếc không bị oxy hóa, ở bề mặt bị phủ một lớp mỏng SnO 2. Thiếc
đẩy hydro rất chậm từ dung dịch pha loãng H 2SO4 và HCl, tan nhanh trong H2SO4
nóng đậm đặc và kiềm đậm đặc, tan trong HNO 3 ngay cả trong dung dịch nóng và
nguội. Trong các hợp chất, thiếc có hóa trị Sn 4+ và Sn2+. Trong điều kiện nội sinh,
thiếc di chuyển được nhờ có F và B liên quan với hoạt động magma aXt.
14


Thiếc là nguyên tố linh động, dễ di chuyển vì bản chất hai mặt, vừa là ion
dương trong muối đơn và phức, vừa là ion âm trong stanat và sulfostanat, nên dung
dịch chứa thiếc có thể di chuyển đi xa lên phần trên của vỏ Trái đất. Có lẽ vì thế mà
khoáng hoá thiếc liên quan với magma aXt có thể đi lên phần cao nhất của vỏ Trái
đất, tồn tại trong vỏ sial, hoặc đến phần nóc của thể magma liên quan với chúng. Ở
dưới sâu bên dưới vỏ sial, các đá magma nghèo hoặc không có thiếc.
Thiếc là nguyên tố lưỡng tính, vừa có tính ưa đá vừa có tính ưa đồng. Kích
thước bán kính ion Sn4+ (0,074µm) gần với kích thước bán kính ion Nb 5+, Ta5+, và
Ti4+ nên thường tạo thành những hỗn hợp đồng hình trong các titanat và tatalo –
niobat cũng như dưới dạng hỗn hợp đồng hình của thiếc trong quặng xám (đến

1,5%).
Tính ưa đá của thiếc thể hiện ở sự thường xuyên có mặt trong các khoáng vật
tạo đá như biotit, muscovit, felspat, sphen, hiếm hơn còn gặp trong amphibol,
pyroxen, granat.
Trong môi trường axit tính ưa đồng thể hiện ở sự tham gia của Sn 4+ trong các
phức anion thành tạo stanat và sulfostanat. Ngoài ra thiếc còn có mặt trong các hợp
phần của bor (gunsit, nordensendin…) và các khoáng vật skarn khác.

1.1.4 Kinh tế nguyên liệu khoáng
Các mỏ rất lớn có trữ lượng >100 ngàn tấn, lớn 25 - 100 ngàn tấn, trung bình 5
- 25 ngàn tấn, nhỏ <5 ngàn tấn. Quặng Sn giàu có ở các mỏ nguyên sinh chứa >1%
Sn, trung bình 1 - 0,4%, nghèo 0,1- 0,04%. Các mỏ sa khoáng được khai thác khi
hàm lượng Sn 100 - 200g/m3. Trữ lượng Sn cơ sở của thế giới: 10 triệu tấn. Sản
lượng khai thác năm 1993: 175 ngàn tấn. Giá thành: 4.900USD/tấn.
Nước sản xuất chủ yếu (%): Trung Quốc (24), Brazin (10), IndoneXa (14,3),
Bolivia (8,6), Thái Lan (8), Malaysia (8).

1.1.5 Công dụng
Từ năm 1820 do biết được cách chế tạo sắt tây nên Sn đã trở thành một trong
những nguyên liệu quan trọng bậc nhất. Khoảng 40% tổng lượng thiếc dung vào
mục đích này.
Hợp kim batit (Sn-Pb-Sb) dùng để đúc ổ trục máy móc, Sn là kim loại không
thể thiếu được của nhiều ngành kỹ thuật hiện đại. Muối Sn dùng để chế màu, chất
15


men, làm kính, clorua Sn dùng trong ngành sơn và công nghiệp thủy tinh, surfua Sn
dùng trong ngành đúc, sắt tây dùng làm đồ hộp. Sn dùng trong công nghiệp quốc
phòng, là kim loại chiến lược quan trọng.
Thiếc dùng để sản xuất đồng thanh, hợp kim hàn và babit. Đối với lĩnh vực

này yêu cầu hơn 50% tổng lượng thiếc, trong đó một nửa hàng để sản xuất hợp
kim hàn. Một số lượng thiếc dùng ở dạng lá mỏng để bao gói. Gần đây người ta
dùng thiếc trong hợp kim với nhôm và titian dùng trong kỹ thuật du hành vũ trụ.

1.2

Tổng quan về hiện trạng phát sinh bùn thải từ ngành công nghiệp khai

khoáng, chế biến quặng thiếc tại Việt Nam

1.2.1 Tình hình phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, chế biến quặng thiếc trên
thế giới
Thiếc (Sn) là một trong những kim loại đầu tiên mà loài người đã phát hiện
được. Việc sử dụng Sn làm hợp kim với đồng đã trải qua một thời kì lâu dài và quan
trọng trong thời đại đồ đồng. Đồng đen cổ nhất đã được tìm thấy ở Ơfrat
(Messopotania) vào 3500 – 3200 năm trước Công Nguyên. Vào khoảng 1800 – 1500
năm trước Công Nguyên, ở Trung Quốc đã sử dụng rộng rãi đồng đen. Trong thế kỷ
18, ở Anh (mỏ Coocmuon), nam Trung Quốc, Bolivin, Liên Xô đã khai thác thiếc
với quy mô lớn [9].
Thiếc không tồn tại ở dạng nguyên tố trong tự nhiên, vì vậy phải được chiết
tách từ nhiều loại quặng khác nhau. Cassiterit (SnO2) là nguồn thiếc thương mại duy
nhất. Các khoáng thiếc luôn đi cùng với đá granit, thường chiếm khoảng 1% hàm
lượng thiếc ôxít. Hầu hết thiếc trên thế giới được khai thác từ các mỏ sa khoáng,
chúng có thể chứa ít nhất 0,015% thiếc [30].
Các vùng có nhiều thiếc nhất là vùng đồi núi Đông Siberi và vùng Đông Nam
Á. Thiếc ở Đông Nam Á tập trung trong một dải kéo dài từ cao nguyên Vân Quý qua
bán đảo Trung Ấn đến các đảo Bangka và Biliton thuốc Indonesia [10].
Bảng 1. 2. Trữ lượng thiếc thế giới (tấn, 2011)
Quốc gia


Trữ lượng (tân)

Trung Quốc
Malaysia

1.500.000
250.000
16


Peru
Indonesia
Brazil
Bolivia
Nga
Thái Lan
Úc
Khác

310.000
800.000
590.000
400.000
350.000
170.000
180.000
180.000

Tổng


4.800.000

(Cook book (2002), Cookbook of Atomic Absorption Spectrometer,
Shimadzu Coporation [24])
Sản lượng thiếc khai thác trên thế giới từ năm 1940 đến năm 2006 được thể
hiện qua hình 1.3:
Hình 1. 3. Sản lượng khai thác thiếc trên thế giới theo thời gian (nghìn tấn)
Năm 1940, thế giới khai thác được 240.000 tấn (trừ Liên Xô). Năm 1957, thế
giới sản xuất được 200.000 tấn (không kể Liên Xô và Trung Quốc). Liên Xô đã phát
hiện được nhiều vùng quặng thiếc rất lớn (Zabaical, tiểu Khingan, Xkhote – Albitin
và đặc biệt là trên lãnh thổ rộng lớn miền đông bắc). Hiện nay, sản lượng khai thác
thiếc lớn nhất trên thế giới là Brasil, sau đó lần lượt là Trung Quốc, Indonesia và
Malaysia [11].
Công nghệ chế biến nhìn chung đã tạo ra được những sản phẩm đạt chất lượng
cao như ở Nga, Thái Lan, Malaysia, Đức, Trung Quốc... phục vụ cho nhiều ngành
công nghiệp khác nhau. Công nghệ chế biến hầu hết ở một số nước trên thế giới vẫn
theo công nghệ truyền thống đó là tuyển trọng lực đối với khâu tuyển thô, tuyển từ,
tuyển điện... Đối với cấp hạt mịn áp dụng phương pháp tuyển nổi, song hiệu quả
không cao.
Viện Nghiên cứu KOHVELL (Anh) đã nghiên cứu thu hồi thiếc mịn cấp hạt 0,04mm bằng băng tải và bàn đãi bùn, hàm lượng quặng đầu đưa tuyển là 0,4% Sn,
sau khi tuyển đã nhận được quặng tinh đạt hàm lượng 31% Sn, thực thu 53%.
17


Viện nghiên cứu thuộc Công ty Yunnan (Trung Quốc) đã nghiên cứu thu hồi
cấp hạt mịn - 0,04mm bằng thiết bị bàn đãi bùn, quặng cấp vào có hàm lượng 0,45
% Sn, sau tuyển thực thu đạt 56 - 58%, hệ số làm giàu khoảng 14 lần.

1.2.2 Tình hình phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, chế biến quặng thiếc tại
Việt Nam

1.2.2.1

Lịch sử tìm kiếm – khai thác thiếc Việt Nam
Việt Nam nằm trong vành đai sinh khoáng Châu Á - Thái Bình Dương, có

nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng. Đặc điểm chung của tài
nguyên khoáng sản nước ta là trữ lượng không lớn, phân bố rải rác, có điều kiện địa
chất và địa chất thuỷ văn phức tạp. Phần lớn các mỏ đều nằm ở vùng sâu, vùng xa,
cơ sở vật chất hạ tầng thấp, không thuận lợi về giao thông vận tải, xa bến cảng, xa
nơi tiêu thụ,…Kết quả điều tra địa chất, tìm kiếm và thăm dò khoáng sản, từ năm
1955 cho đến nay, đã xác định được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 70 loại
khoáng sản với các quy mô trữ lượng khác nhau. Các loại khoáng sản có giá trị
công nghiệp được khai thác chủ yếu như: than, sắt, đồng, nhôm, chì - kẽm, thiếc,
titan, bôxit, apatit, các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng, gốm sứ, thuỷ tinh và
nhiều loại khoáng sản khác.
Kim loại thiếc được sử dụng tại Việt Nam từ rất đời khoảng trên 3000 năm
trước công nguyên. Từ thời Hồng Bàng đến thời Pháp thuộc, thiếc được khai thác ở
Vụ Nông (nay là Tĩnh Túc) thuộc tỉnh Cao Bằng để luyện đồng thau.
Quặng thiếc được tìm kiếm thăm dò và đưa vào khai thác từ đầu những năm
60 của thế kỷ XX. Quặng thiếc Việt Nam tập trung chủ yếu ở 4 vùng: Pia Oắc (Cao
Bằng), Tam Đảo (Tuyên Quang, Thái Nguyên), Quỳ Hợp (Nghệ An) và Lâm Đồng.
a. Vùng Pia Oắc (Cao Bằng)
Vùng Pia Oắc có 9 mỏ lớn nhỏ, trong số các mỏ sa khoáng lớn nhất là mỏ Tĩnh
Túc. Mỏ được khai thác từ thời thực dân Pháp. Từ năm 1956 đến 1993, mỏ sản xuất
tập trung quy mô lớn theo công nghệ của Liên Xô. Trong thời gian này tổng cộng
mỏ đã khai thác và luyện được 11.000 tấn thiếc thỏi. Tổng trữ lượng thiếc còn lại

18



sau năm 2004 của mỏ dự kiến khoảng trên 1000 tấn. Ngoài ra, trong các bãi thải cũ
còn lại khoảng 2000 tấn [10].
Mỏ đang ở thời kỳ nạo vét nên hình thức khai thác chủ yếu là bằng ô tô máy
xúc quy mô nhỏ và thủ công. Năng lực tuyển tinh và luyện thiếc của Công ty hiện
nay là trên 300 tấn thiếc thỏi/năm.
b. Vùng Tam Đảo
Vùng Tam Đảo có trữ lượng thiếc khá lớn. Thiếc sa khoáng được các đơn vị
khai thác từ những năm 1960 ở mỏ Sơn Dương, sau đó ở các mỏ Bắc Lũng, Phục
Linh vào những năm 1980. Sản lượng bình quân từ 300 đến 500 tấn thiếc thỏi quy
đổi/năm. đến nay thiếc sa khoáng vùng Tam Đảo về cơ bản đã khai thác hết, số ít
còn lại ở các khu Khuôn Thê, Kỳ Lâm, Phục Linh… nằm dưới ruộng lúa và không
được cấp đất cho khai thác tiếp tục.
Trữ lượng thiếc gốc vùng Tam Đảo có triển vọng khá, phân bố trên diện rộng
nhưng mới được thăm dò, đánh giá sơ sài. Tuy nhiên, quặng thiếc gốc đã bị dân
khai thác, đào đãi trái phép từ năm 1988 đến nay, trữ lượng đã giảm sút nhiều.
Hiện có 3 đơn vị khai thác của Công ty Kim loại màu Thái Nguyên song gặp
khó khăn vì thiếu tài nguyên, mặc dù cơ sở hạ tầng được đầu tư khá tốt. Sản phẩm
tinh quặng thô của các đơn vị này được đưa về tuyển tinh và luyện thiếc thỏi tại
Công ty ở Lưu Xá (Thái Nguyên). Năng lực tuyển tinh và luyện thiếc trên 1000 tấn
thiếc thỏi/năm. Năm 2002, Công ty Kim loại màu Thái Nguyên đã đầu tư xong và
đưa vào sản xuất dây chuyền điện phân thiếc đạt chất lượng mức 01 (99,9% Sn) với
công suất ban đầu 500 Tấn/năm [9].
Trong vùng còn có một số đơn vị cũng luyện thiếc thỏi. Nguồn nguyên liệu
cho các cơ sở luyện này là quặng thiếc trôi nổi của lực lượng dân đào đãi trái phép.
Ước tính sản lượng của cơ sở này là (300 - 500) tấn thiếc thỏi/năm.
c. Vùng Quỳ Hợp
Tiềm năng thiếc vùng Quỳ Hợp còn khá phong phú. Với 14 mỏ sa khoáng, trữ
lượng có thể khai thác công nghiệp khoảng 35 ngàn tấn SnO 2. Thiếc gốc có 2 vùng

19



chính với tổng trữ lượng khoảng 24 ngàn tấn Sn. Thiếc sa khoáng hầu hết đã được
thăm dò, thiếc gốc mới được tìm kiếm, đánh giá nhưng có nhiều triển vọng.
Liên hợp thiếc Quỳ Hợp được Liên Xô giúp đỡ xây dựng từ đầu những năm
1980 đến đầu 1990 gồm: khai thác, tuyển khoáng và luyện thiếc, với công suất
tuyển 1.100.000 m3 đất quặng/năm tương đương 650 tấn thiếc/năm. Đơn vị sản xuất
thiếc chính ở vùng này hiện nay là Công ty Kim loại màu Nghệ Tĩnh thuộc Tổng
công ty Khoáng sản Việt Nam. Do tình hình giá thiếc giảm xuống thấp, sản xuất cơ
giới không hiệu quả nên năm 1993 nhà máy tuyển phải ngừng sản xuất, sau đó tháo
dỡ, thanh lý. Hiện tại Công ty Kim loại màu Nghệ Tĩnh chỉ còn sản xuất ở mỏ Bàn
Phoòng và khai trường Bản Hạt. Tuyển bằng hệ tuyển bán cơ giới và thủ công.
Quặng thiếc ≥ 10% Sn ở các xưởng tuyển thô được đưa về Xí nghiệp tuyển tinh luyện thiếc đặt tại thị trấn Quỳ Hợp để gia công nâng hàm lượng lên ≥ 65% Sn, Fe
≤ 2,5% đưa vào luyện ra thiếc thương phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Công suất
tuyển tinh 1.300 tấn Sn/năm, luyện 1.800 tấn thiếc thỏi/năm.
Ngoài Công ty Kim loại màu Nghệ Tĩnh, hiện tại một số doanh nghiệp và dân
tự do cũng khai thác thiếc sa khoáng và thiếc gốc tại các thung treo và các khu vực
khác nhau trong vùng mỏ. Sản lượng khai thác của dân ước (300 - 500) tấn thiếc
thỏi quy đổi/năm [10].
d. Vùng Lâm Đồng
Tài nguyên thiếc vùng Lâm Đồng phân bố trên nhiều khu vực như ở các huyện
Lạc Dương, Di Linh, Bảo Lộc, Lâm Hà và thành phố Đà Lạt. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu thăm dò tài nguyên thiếc cho đến nay còn khá sơ sài.
Những năm 1990, do buông lỏng quản lý đã dẫn đến việc dân tự do, đào đãi
trái phép. Theo báo cáo của Công ty Khoáng sản Lâm Đồng, từ 1992 đến 1999
Công ty đã thu mua quặng và sản xuất được 2.933 tấn thiếc thỏi. Ngoài ra, một
lượng lớn quặng thiếc cũng đã được vận chuyển về Di Linh và thành phố Hồ Chí
Minh để cung cấp cho lò luyện của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Theo ước tính,
tổng sản lượng thiếc thỏi của vùng Lâm Đồng trong thời gian này khoảng trên 1000


20


tấn/năm. Từ năm 2002, việc khai thác thiếc trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã bị cấm
do liên quan đến vấn đề du lịch, môi trường [10].

Hình 1. 4. Sản lượng khai thác thiếc qua các thời kỳ [9]
Từ 1910 đến 1914 thực dân Pháp đã khai thác ở Pia Oac đươc 32.473 tấn Sn
kèm theo 137 kg Au. Từ năm 1950 đến năm 1956 khai thác thủ công được 440 tấn
SnO2; 1957 – 1980 sản lượng khai thác ở vùng Pia Oac đạt 9.901 tấn SnO 2 với hàm
lượng trung bình 1305 g/m3. Ở Tam Đảo đạt 3.500 tấn SnO2 với hàm lượng 1348
g/m3. Trước năm 1988, sản lượng hàng năm chỉ đạt 600 tấn, năm cao nhất 1000 tấn.
Ở Sơn Dương khai thác từ 1965 đến 1984 được 4 nghìn tấn, trung bình 210
tấn/năm. Hàm lượng thiếc trung bình 2400 g/m 3. Ở Quỳ Hợp khai thác từ 1961 với
qui mô nhỏ [10].
1.2.2.2

Đặc điểm khai khoáng, chế biến quặng thiếc tại tỉnh Nghệ An
Nghệ An cách thủ đô Hà Nội khoảng 250 km về phía Nam – là tỉnh có sản

lượng khai thác, chế biến thiếc lớn. Các địa phương có khoáng hóa thiếc có giá trị
công nghiệp là vùng Quỳ Hợp, Bản Chiềng, Phú Lợi và Bãi Thượng. Cấu trúc địa
chất của vùng là một phần của đới Phú Hoạt phổ biến các đá biến chất trước Cambri
và Paleozoi hạ cũng như các trầm tích bở rời aluvi. Các thành tạo magma xâm nhập
liên quan với khoáng hóa thiếc, (wolfram) là granitoit phức hệ Bản Chiềng (Sông
Chu Bản Chiềng, Izox, 1965) tuồi Kreta muộn. Granitoit phức hệ Bản Chiềng (khối
Bản Chiềng, Phú Lợi) bị biến đổi sau magma mạnh mẽ, chủ yếu là felspat hóa
(microlin hóa, albit hóa). Quá trình greizen hóa thể hiện yếu ớt và không đều. Tại
Bản Chiềng (Nghệ An) granitoit phức hệ gây biến chất trao đổi với đá vôi vây
quanh thành tạo đới skarn giàu magnetit có chứa thiếc, nhưng hàm lương không cao

[9]. Quặng thiếc gốc biểu hiện rải rác dưới dạng các mạch nhỏ thạch anh – cassiterit
– tourmalin. Quặng sa khoáng cassiterit ở thung lũng Bản Chiềng với hàm lượng
cao, song quy mô không lớn.
Vùng Phú Lợi đã phát hiện nhiều mạch quặng gốc với tổ hợp khoáng vật
cassiterit – sulfur và cassiterit – thạch anh. Các khoáng vật sulfur phổ biến là
21


arsenopyrit, pyrit, pyrotin, galenit, sphalerit và ít tourmalin. Hàm lượng thiếc trong
các mạch thay đổi 0,5 – 5.4%. Trữ lượng quặng cassiterit sa khoáng của vùng Quỳ
Hợp, Bản Chiềng khoảng 36.000 tấn [Lê Thạc Xnh, Phạm Tuấn Thịnh, 1990].
Trong số nhiều điểm sa khoáng đã được thăm dò, khai thác cho đến nay đã
phát hiện được 194 điểm thiếc sa khoáng. Chúng là đối tượng khai thác chính, trong
số đó có nhiều điểm đã bị khai thác cạn kiệt như Tĩnh Túc (Cao Bằng), Phục Linh,
Khuôn Thi, Làng Cá, Kỳ Lâm, Ngòi Chò, Ngòi Trí Trầm (Sơn Dương, Đại Từ), và
các sa khoáng nhỏ khác. Sa khoáng thiếc có nguồn gốc chủ yếu là aluvi và deluvi.
Sa khoáng aluvi phân phố rộng rãi ở các vùng Cao Bằng, Sơn Dương – Đại Từ
và Quỳ Hợp. Các thung lũng chứa sa khoáng thường có dạng phức tạp, phần lớn là
thung lũng karst (ngoại trừ vùng Đơn Dương), có bề dày lớp cát chứa quặng thay
đổi phức tạp đến 40 m.
Hầu hết các tụ khoáng sa khoáng có điều kiện khai thác thuận lợi. Tuy nhiên
một số tụ khoáng như Bản Poòng, Bản Cò (Quỳ Hợp) nằm dưới cánh đồng lúa, nên
việc khai thác gặp nhiều khó khăn.
Sa khoáng thiếc có hàm lượng cassiterit thay đổi từ 200 – 400 g/m 3 chủ yếu
lớn hơn 273 g/cm3. Trữ lượng và tài nguyên dự báo khoảng 87.000 tấn SnO2.
1.3. Hiện trạng quản lý và các công nghệ xử lý bùn thải khai khoáng
1.3.1. Các hình thức khai thác, chế biến khoáng sản
- Khai thác chế biến, khoáng sản quy mô công nghiệp:
Khai thác chế biến, khoáng sản quy mô công nghiệp đang từng bước nâng
cao về năng lực công nghệ, thiết bị, quản lý. Hoạt động sản xuất, kinh doanh đã

có sự gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu lợi nhuận, kinh tế với trách nhiệm bảo vệ
môi trường, bảo vệ tài nguyên khoáng sản. Do khả năng đầu tư còn hạn chế nên
mỏ khai thác khoáng sản quy mô công nghiệp ở nước ta hiệ chưa đồng đều về
hiệu quả kinh tế, về việc chấp hành các quy định pháp luật về khoáng sản và vấn
đề bảo vệ môi trường.
- Khai thác, chế biến khoáng sản quy mô nhỏ, tận thu:

22


Hình thức khai thác này đang diễn ra phổ biến ở các địa phương trong cả
nước và tập trung chủ yếu vào loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Ngoài ra
nhiều tỉnh còn khai thác than, quặng sắt, antimon, thiếc, chì, kẽm, boxit dọc theo
bờ biển để xuất khẩu. Do vốn đầu tư ít, khai thác bằng phương pháp thủ công hoặc
bán cơ giới là chính, nên trong quá trình khai thác đã làm ảnh hưởng đến môi
trường, cảnh quan.
- Khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản
Việc khai thác trái phép tài nguyên khoáng sản, kéo theo các hậu quả nghiêm
trọng như tàn phá môi trường, làm thất thoát lãng phí tài nguyên. Nạn khai thác
vàng bằng cyanua, hóa chất độc hại để thu hồi vàng diễn ra ở Quảng Nam, Lâm
Đồng, Đà Nẵng; Khai thác chì, kẽm, thiếc, than ở các tỉnh miền núi phía bắc, Nghệ
An…Việc khai thác trái phép tài nguyên này gây hậu quả môi trường nghiêm trọng,
chặt phá rừng mất rừng phòng hộ; khai thác cát gây xói mòn, lở bờ đê, lòng sông
gây ảnh hưởng các công trình giao thông, gây ô nhiễm nguồn nước, phá hoại cảnh
quan, gây ô nhiễm môi trường không khí.
1.3.2. Công nghệ khai thác và tuyển khoáng
Hầu hết ở các mỏ kim loại, về thông số kỹ thuật chưa được chú ý, đa số áp
dụng công nghệ khai thác lộ thiên với công nghệ ô tô, máy xúc. Đây là loại hình
công nghệ cổ điển, giá thành cao. Khi có chủ trương khai thác các mỏ, khai thác tạn
thu, hang loạt các công trường khai thác thủ công mọc lên như khai thác vàng, thiếc,

mangan, sắt… Một số xí nghiệp khai thác cơ giới cũng chuyển sang khai thác thủ
công như mỏ thiếc Tĩnh Túc, Sơn Dương, Bắc Lũng, Cromit Cổ Định, do cạn kiệt
tài nguyên hoặc do quy mô khai thác giảm, chi phí của cơ giới quá cao. Phương
pháp thủ công và bán cơ giới đã tác động xấu đến môi trường sinh thái và gây lãng
phí tài nguyên [5].
Về tuyển khoáng cũng được thay thế công nghệ tuyển cơ giới tập trung bằng
những xưởng tuyển nhỏ thủ công hoặc bán cơ giới. Hình thức này phổ biến ở hầu
hết các ngành khai thác thiếc, vàng, cromit, mangan…

23


Một số cơ sở áp dụng tuyển nổi như đồng Sinh Quyền, tuyển quặng sunphua
kẽm chì, apatit, graphit… với thiết bị đơn giản, hệ số thu hồi thấp, giá thành cao và
chưa thu hồi được khoáng sản có ích đi kèm.
Công nghệ tuyển quặng thiếc sa khoáng ở nước ta hiện đang áp dụng gồm:
- Công nghệ tuyển bán cơ khí:
Đất quặng được đánh tơi bằng sức nước áp lực trên bun ke, loại đá +16mm
bằng sang tĩnh, sản phẩm dưới sang tuyển trên máng cạn, tinh quặng máng cạn cho
qua sang có a = 8mm, loại bỏ đá trên sang còn cấp + 8mm vào bàn đãi. Tinh quặng
thu được có hàm lượng < 35%Sn, thực thu tuyển đạt 70%.
- Công nghệ tuyển thủ công di động:
Đất quặng được đánh tơi bằng sức nước áp lực trên bun ke, loại đá +16mm
bằng sàng tĩnh, sản phẩm dưới sàng tuyển trên máng cạn. Tinh quặng thu được có
hàm lượng khoảng <35%Sn, thực thu tuyển đạt 65%.
- Công nghệ tuyển sa khoáng của Thái Lan:
Đất quặng được đánh tơi ngay tại công trường bằng súng bắn nước. Vữa quặng
bơm lên đổ vào sàng quay để loại đá một lần nữa. Sản phẩm dưới sàng tuyển qua
hai cấp máy lắng để thu được quặng có hàm lượng khoảng 15%Sn. Tinh quặng 15%
tiếp tục được tuyển trên thùng phân loại kiểu “Wlought” và máng thu hẹp để lấy

tinh quặng có hàm lượng 35-45%Sn. Thực thu tuyển đạt trên 70%.
Nhìn chung, công nghệ luyện chung và chế biến sâu chưa phát triển, thiết bị
lạc hậu, năng suất và hệ số thu hồi thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. Phần lớn
sản phẩm chỉ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ở mức trung bình, trừ thiếc điện phân loại 1
(99,95%Sn)
Ngành khai thác và chế biến khoáng sản kim loại trong nhiều thập kỷ qua chưa
phát triển đúng với tiềm năng, đúng với vị trí, vai trò quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.3.3. Hiện trạng quản lý khai thác và chế biến khoáng sản
1.3.3.1. Tại Việt Nam

24


Ngành khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam tuy ra đời cách đây đã
khá lâu, nhưng nhìn chung chưa thực sự phát triển, ngành sở hữu công nghệ và thiết
bị khá lạc hậu, ngoại trừ những mỏ mới được xây dựng trong những năm gần đây,
vì vậy tổn thất tài nguyên trong khai thác và chế biến khoáng sản là khá lớn. Kết
quả điều tra khảo sát tại các khu vực khai thác và chế biến khoáng sản cho thấy sự
tổn thất tài nguyên trong quá trình khai khoáng là rất lớn; Báo cáo Chương trình
Nghị sự Việt Nam 21 cũng cho biết rằng trong quá trình khai thác khoáng sản không
những gây ô nhiễm môi trường mà còn để tổn thất rất nhiều tài nguyên, như tổn thất
trong khai thác quặng kim loại là 16-30%.
Tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và chế biến khoáng sản có thể do:
-

Công nghệ khai thác quá cũ, lạc hậu dẫn đến sự mất mát quặng trong quá trình khai
thác (chưa khai thác được quặng nghèo, hiệu suất khai thác chưa cao,…) và chế
biến (tỷ lệ mất mát các khoáng vật có ích còn cao, chưa thu hồi được các khoáng vật

-


có ích đi kèm);
Công tác quản lý chưa tốt dẫn đến tình trạng khai thác tự do phổ biến tại một số mỏ.
Phần lớn việc khai thác tự do diễn ra tại các khu vực quặng giàu, các khu vực quặng
nghèo hầu như đều bỏ lại, vì vậy khai thác tự do làm cho các thân quặng bị nham

-

nhở, tổn thất tài nguyên rất lớn.
Mặt khác việc quản lý tại các công ty được cấp mỏ chưa chặt chẽ, điều này cũng
dẫn đến sự mất mát lượng tài nguyên đáng kể. Do đó, việc thu hồi các khoáng vật
có ích bị tổn thất trong đất đá thải và quặng đuôi là một việc làm cần thiết, nhằm
nâng cao hiệu quả khai thác và chế biến cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác hoàn thổ phục hồi môi trường về sau.
Đối với khai thác và chế biến thiếc:

-

Tạo được lượng sản phẩm hàng hoá (thiếc xuất khẩu) tương đối lớn đóng góp cho
nền kinh tế quốc dân. Từ sau khi có chính sách mở cửa, sản lượng thiếc sản xuất
tăng lên nhanh chóng: từ (400-500)T/năm trước đó lên >2000 tấn, thậm chí
>3000T/năm. Tạo giá trị hàng hoá xuất khẩu mỗi năm (8-12) triệu USD.

25


×