Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Thực hành quyền công tố đối với các tội giết người từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.15 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LAM THỊ DUNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC
TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LAM THỊ DUNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC
TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI........................................................... 5
1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người........................................................................................................................ 5
1.2. Nội dung thực hành quyền công tố đối với các tội giết người..................8
1.3. Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội giết người........................ 19
1.4. Các yếu tố tác động chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người..................................................................................................................... 20
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH TẠI QUẢNG NINH.......................................................................... 24
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành
quyền công tố đối với các tội giết người.................................................................... 24
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố đối với các tội giết người tại
tỉnh Quảng Ninh...................................................................................................................... 31
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI

GIẾT NGƯỜI.................................................................................................................................. 58
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người..................................................................................................................... 58
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố về
các tội giết người..................................................................................................................... 60
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
ĐTV : Điều tra viên
KSV : Kiểm sát viên
THQCT: Thực hành quyền công tố
KSĐT : Kiểm sát điều tra
QCT: Quyền công tố
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội
giết người cho thấy rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xử lí kịp thời,
nghiêm minh, nhiều bị cáo đã bị xử phạt với khung hình phạt cao nhất là tử
hình, thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần giữ vững ổn
định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn

còn những vụ án về các tội giết người bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử oan
sai, phải đình chỉ điều tra do không phạm tội hoặc tòa án tuyên không phạm
tội. Còn có sự nhầm lẫn giữa tội giết người với tội giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, đe dọa giết người hoặc với một số tội phạm khác có hậu quả chết người
như tội vô ý làm chết người, tội cố ý gây thương tích, tội xâm phạm tính mạng
người khác trong khi thi hành công vụ; thậm chí còn có sự nhầm lẫn cả với tội
gây rối trật tự công cộng gây hậu quả chết người… Việc điều tra thu thập tài
liệu, chứng cứ không đầy đủ, không đảm bảo tính khách quan, hợp pháp,
thậm chí vi phạm nghiêm trọng các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự dẫn
đến hậu quả là nhiều vụ án không đảm bảo căn cứ để truy tố hoặc bị cấp phúc
thẩm cải sửa, hủy án để điều tra lại… làm ảnh hưởng đến việc xử lí tội phạm
và người phạm tội.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, ngành Kiểm sát nói chung và Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã có nhiều cố gắng thực hiện
tốt chức năng nhiệm vụ được giao và đã đạt được những kết quả quan trọng,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản của công dân.
Tuy nhiên, với yêu cầu của cải cách tư pháp, công tác thực hành quyền
công tố đối với các tội giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh của Viện kiểm
sát nhân dân vẫn còn bộc lộ một số hạn chế; một số vụ án phải trả lại hồ sơ để

1


điều tra bổ sung hoặc điều tra lại giữa các cơ quan tiến hành tố tụng vì thiếu
chứng cứ hoặc còn có đồng phạm khác; một số Kiểm sát viên còn lúng túng
trong thao tác nghiệp vụ, yêu cầu điều tra chưa sát thực, không bám sát tiến
độ điều tra, trình độ đánh giá chứng cứ còn hạn chế và thiếu toàn diện, khách
quan, nên đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu
là do nhận thức về công tác THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp; Về vị trí, vai
trò của VKSND trong hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm
chưa toàn diện; Một số Kiểm sát viên được phân công thực hiện nhiệm vụ còn
biểu hiện sự chủ quan, thiếu thận trọng trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án,
không cập nhật kịp thời các qui định của pháp luật hoặc thiếu kiên quyết trong
quan hệ với Cơ quan điều tra, Tòa án… Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện
nay, trước đòi hỏi của công dân, tổ chức và xã hội đối với các cơ quan tư pháp
ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người; đồng thời phải là công cụ hữu
hiệu bảo vệ pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và
vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành kiểm sát nói
chung, của VKSND tỉnh Quảng Ninh nói riêng, nhất là hoạt động THQCT đối
với các tội giết người.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Thực hành
quyền công tố đối với các tội giết người từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh" để
nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về THQCT đối với các tội giết
người của VKSND như: "Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật"
của Trường Đại học Luật Hà Nội ; "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm
2


1945 đến năm 1999" của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; "Giáo trình kỹ năng
thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự" của Học viện Tư pháp; "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp" của Viện kiểm sát nhân

dân tối cao; "Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát
hình sự" của Ngô Văn Dọn; "Sổ tay kiểm sát viên hình sự" của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; "Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm" của Dương Thanh Biểu;
"Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" của Lê Hữu Thể; "Áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự
về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm ; "Một số kinh nghiệm trong công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án giết người" của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngoài ra, còn có các công trình khoa học liên quan đến hoạt động
KSĐT, kiểm sát xét xử án hình sự về trật tự xã hội đề cập đến những khía
cạnh khác nhau của vấn đề THQCT có nhiều giá trị tham khảo. Song chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về mặt lý luận và
thực tiễn về hoạt động THQCT đối với các tội giết người của VKSND tỉnh
Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích, làm rõ hoạt động THQCT đối với các tội giết
người của VKSND; phân tích đánh giá thực trạng, xây dựng các quan điểm và
đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hành quyền công tố đối với các tội
giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận về THQCT đối với các tội giết người của
VKSND. Trong đó làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi cũng như phân tích
3


đặc điểm, vai trò, nội dung THQCT đối với các tội giết người của VKSND
tỉnh Quảng Ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động THQCT đối với các tội giết

người của VKSND tỉnh Quảng Ninh và rút ra các nguyên nhân khách quan,
chủ quan của những sai lầm thiếu sót còn để xảy ra.
- Luận văn xây dựng các yếu tố tác động, các yêu cầu và giải pháp cụ
thể có tính khả thi nhằm đảm bảo THQCT đối với các tội giết người của
VKSND tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về THQCT đối với các tội giết
người của VKSND tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam nói chung và tổ
chức hoạt động của VKS trên lĩnh vực hình sự nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể và
đặc thù của khoa học luật hình sự bao gồm: Phân tích, tổng hợp, so sánh và
thống kê.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu THQCT về các tội giết người nói chung và thực tiễn tại
tỉnh Quảng Ninh nói riêng có thể vận dụng trong thực tiễn công tác (cho các
Điều tra viên, Kiểm sát viên) để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của
hoạt động này. Ngoài ra còn hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế nghiệp
vụ có liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI

CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI

1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người
1.1.1 Khái niệm thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì
“Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”
[35, tr.8].
Tuy nhiên thực tế hoạt động THQCT của VKS không chỉ là từ giai
đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà còn phải từ
khi tiếp nhận người ra tự thú, bắt quả tang người phạm tội…Điều này phù hợp
với Điều 159 BLTTHS 2015: VKS THQCT từ khi cơ quan có thẩm quyền giải
quyết nguồn tin về tội phạm.
Qua phân tích trên cũng như nghiên cứu các quan điểm của pháp luật
hiện hành, có thể đưa ra khái nhiệm THQCT như sau: THQCT là hoạt động
của VKS trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi cơ quan có thẩm quyền điều tra giải
quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự.
Từ trước đến nay, con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối
tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung của
Nhà nước ta bảo vệ. Tính mạng của con người là giá trị cao nhất; con người
có quyền được sống, được tôn trọng và bảo vệ. Hiến pháp Việt Nam quy định
5


mọi người có quyền sống, tính mạng của con người được pháp luật bảo hộ,

không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật ( Điều 19 Hiến pháp 2013).
Các tội giết người theo Bộ luật hình sự năm 2015 quy định gồm các tội:
Tội giết người (Điều 123); Tội giết con mới đẻ (Điều 124); Tội giết người
trong trạng thái tinh thần kích động mạnh (Điều 125); Tội giết người do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội (Điều 126). Các tội phạm giết người xâm phạm trực tiếp đến
quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Hành vi khách quan
được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại về tính mạng. Hậu quả của hành vi các tội giết người là
gây ra cái chết, nếu hành vi tước đoạt tính mạng của người khác thực hiện
nhưng vì nguyên nhân khách quan khác nhau mà hậu quả chết người không
xảy ra thì hành vi đó là giết người chưa đạt. Những người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định thực hiện, tuy nhiên có
loại tội chủ thể đặc biệt như trong tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi
bắt giữ người phạm tội (Điều 126) thì phải là người đang thi hành công vụ.
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián
tiếp, với động cơ và mục đích khác nhau nhưng không phải là dấu hiệu bắt
buộc của các loại tội phạm này.
Qua đó, có thể hiểu các tội phạm về giết người là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi theo quy định thực
hiện cố ý xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người
khác được Hiến pháp và pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận, bảo vệ.
Như vậy, “THQCT đối với các tội giết người là chức năng của VKS
được bắt đầu từ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà khi thực hiện chức năng đó,
VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, nhằm buộc tội

6



người xâm phạm tính mạng con người mà pháp luật hình sự quy định là một
trong các tội giết người”.
1.1.2. Đối tượng thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
Đối tượng THQCT nói chung là tội phạm và người phạm tội. Trách
nhiệm chứng minh trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự các loại tội
phạm nói những người tiến hành tố tụng. Những vấn đề cần phải chứng
minhtrong vụ án hình sự như: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực
hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về
nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan
đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt (Điều 85 BLTTHS năm 2015).
Qua đó hiểu rằng đối tượng THQCT đối với các tội giết người là yếu
tố mà THQCT tác động tới nhằm thực hiện mục đích truy cứu TNHS đối với
những người có hành vi xâm hại tính mạng con người nhằm tước đoạt mạng
sống của người khác.
1.1.3. Phạm vi thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
Phạm vi THQCT vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm
cho rằng THQCT bắt đầu từ khi có quyết định định khởi tố vụ án đến khi
người phạm tội chấp hành xong bản án; lại có quan điểm cho rằng THQCT
bắt đầu từ khi có quyết định truy tố và kết thúc tại phiên tòa sơ thẩm. Các
quan điểm trên có quan điểm hiểu phạm vi THQCT quá rộng hoặc ngược lại
phạm vi THQCT quá hẹp.
Theo nguyên tắc chung thì khi có các loại tội phạm về giết người xảy
ra và các cơ quan chức năng tiếp nhận nguồn tin về tội phạm thì xuất hiện
7



quyền công tố. Một số hoạt động như phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phê chuẩn quyết định gia hạn tạm
giữ hoặc hủy bỏ quyết định tạm giữ, hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án,
yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án…là hoạt động THQCT của VKS thực
hiện trước khi khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, thời điểm bắt đầu của hoạt
động THQCT xuất hiện từ trước khi khởi tố vụ án hình sự rồi đến giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù vậy có
những trường hợp THQCT không kéo dài đến giai đoạn xét xử, bởi có những
trường hợp vụ án đang giải quyết theo trình tự tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc đang điều tra nhưng xác định được có một trong những căn cứ không
khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015 hoặc căn cứ
đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 230 BLHS năm 2015… dẫn
đến kết thúc THQCT ở giai đoạn tố tụng sớm hơn.
Trên cơ sở đó, thấy rằng phạm vi THQCT đối với các tội giết người là
các nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng trong việc giải quyết nguồn tin về các tội
giết người, khởi tố vụ án về các tội giết người và điều tra, truy tố, xét xử vụ
án về các tội giết người.
1.2. Nội dung thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
1.2.1 Chủ thể thực hành quyền công tố về các tội giết người
THQCT đối với các tội giết người ở Việt Nam chỉ do VKS tiến hành,
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không có nhiệm vụ chức
năng này.
Căn cứ các hành vi quy định ở các tội giết người mà VKS nhân dân
cấp tỉnh hoặc VKS nhân dân cấp huyện tiến hành THQCT giải quyết.
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố về các tội giết người
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các tội giết người: Theo quy định của
BLTTHS năm 2003 và Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC8



BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ công an, Bộ Quốc phong, Bộ
Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, VKSND Tối cao thì chỉ quy
định chung về chức năng của VKS trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố mà chưa quy định rõ quyền hạn của VKS cũng như
cơ chế pháp lý để đảm bảo cho VKS thực hiện tốt quyền hạn đó.

Đến Điều 12 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014, BLTTHS năm
2015 và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNTVKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ công an, Bộ Quốc phong, Bộ Tài chính,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, VKSND Tối cao đã có nhiều sửa đổi
quan trọng và phù hợp với nhau, ghi nhận hoạt động THQCT trong giai đoạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cụ thể như sau:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác: Theo quy định VKS chỉ phê
chuẩn việc giữ, bắt người bị giữ trong trong trường hợp khẩn cấp khi có một
trong các căn cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm được
quy định tại Điều 14 BLHS 2015; khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện
tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; khi thấy có dấu
vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm.
Nếu VKS thấy không đủ một trong các căn cứ thì không phê chuẩn việc bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đồng thời phải bảo đảm người bị bắt
được trả tự do ngay.
- Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp
luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố: Theo quy định tại Điều 117 BLTTHS năm 2015,
VKS xét thấy quyết định tạm giữ không có căn cứ pháp lý hoặc trái pháp luật
hình sự, VKS có quyền hủy bỏ quyết định tạm giữ và quyết định trả tự do

9



ngay cho người bị tạm giữ. Đây là quyền năng quan trọng của VKS nhằm bảo
vệ quyền công dân, quyền con người theo Hiến pháp năm 2013.
Theo Điều 159 BLTTHS năm 2015 thì trong giai đoạn THQCT giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố còn có một số quyền
hạn như: Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm liên quan đến những tội
phạm giết người thực hiện nhiều lần, nhiều đối tượng, chứng cứ chưa rõ ràng,
thủ đoạn phạm tội tinh vi thì VKS phải chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác
minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết thực hiện; Hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
trong trường hợp không có căn cứ; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu nhưng
không khắc phục. Thực hiện tốt chức năng THQCT trong giai đoạn tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội.
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Ra quyết định khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại khoản 1 Điều

14 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và tại Điều 153 BLTTHS năm 2015,
VKS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong những trường
hợp: Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra; Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu
khởi tố của Hội đồng xét xử.
- Thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự: Điều 156
BLTTHS năm 2015 quy định: Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác chưa được
khởi tố thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố

10


vụ án hình sự. Đây là một trong những quyền năng thuộc phạm vi quyền công tố
của VKS, nhằm bảo đảm cho việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và phù hợp
với các tình tiết tài liệu chứng cứ khác thu thập được một cách khách quan.

- Hủy quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự:
Điểm b, c khoản 1 Điều 161 BLTTHS năm 2015 quy định VKS có
quyền hủy quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định vụ
án hình sự trong trường hợp các quyết định đó không có căn cứ và trái pháp
luật hình sự. Đây là hoạt động pháp lý thuộc chức năng THQCT của VKS
nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
- Khởi tố bị can là hành vi pháp lý của cơ quan có thẩm quyền xác
định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội và cần phải tiến hành
điều tra theo quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người đó. Theo quy định tại khoản 3 Điều 179 BLTTHS năm 2015 và Quy
chế tạm thời THQCT và KSĐT thì trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày
nhận được quyết định khởi tố bị can, bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu
thấy có căn cứ và hợp pháp thì VKS ra quyết định phê chuẩn các quyết định
đó; nếu mà thấy các căn cứ để xác định bị can phạm tội chưa đầy đủ, chưa rõ
thì VKS yêu ca àu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu chứng cứ làm rõ căn cứ
khởi tố.
Cũng theo quy định tại khoản 4 Điều 179 BLTTHS năm 2015 thì trong
quá trình điều tra nếu thấy ngoài bị can đã bị khởi tố còn có người khác đã
thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS ra văn bản
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó.
Nếu VKS đã có yêu cầu mà cơ quan có thẩm quyền không khởi tố bị can thì
VKS sẽ trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can.

- Đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
trực tiếp tiến hành điều tra khi cần thiết: Khoản 6 Điều 165 BLTTHS năm
11


2015 quy định VKS có quyền hạn đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến
hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội.
Việc đưa ra yêu cầu điều tra được thực hiện trong suốt quá trình điều
tra. Hình thức đề ra yêu cầu điều tra của VKS có thể bằng lời nói trực tiếp
hoặc bằng văn bản.
Bên cạnh việc đề ra yêu cầu điều tra, khi cần thiết VKS có thể tiến
hành một số hoạt động điều tra có thể trong giai đoạn điều tra hoặc trong giai
đoạn truy tố, theo quy định tại các Điều 183, 186, 188, 189 của BLTTHS năm
2015 như: Hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm
chứng; tiến hành đối chất, nhận dạng để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn:
Các biện pháp ngăn chặn gồm có: giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, tạm hoãn xuất cảnh quy định tại các Điều 113, 118, 119, 121, 122, 123
và 124 của BLTTHS năm 2015. Trong đó các biện pháp ngăn chặn gia hạn
tạm giữ, tạm giam, bắt tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của Cơ quan
điều tra cùng cấp phải có sự phê chuẩn của VKS. Các biện pháp ngăn chặn là
những biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, việc áp dụng một
trong các biện pháp đó phải xem xét toàn diện về nhân thân, tính chất, mức
độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác có liên quan.
BLTTHS năm 2015 cũng quy định rõ những trường hợp không áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn khác là đối với
bị can là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già

yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng; trừ các trường
hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội; có hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
12


sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài
sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc bị
can về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không
tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn:
Theo Điều 125 BLTTHS quy định trong quá trình điều tra, nếu thấy bị
can có căn cứ để thay thế biện pháp tạm giam như bị can có nơi cư trú rõ ràng,
thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền
án, tiền sự, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi không nghiêm trọng thì
cơ quan điều tra có công văn đề nghị thay thế biện pháp ngăn chặn để VKS ra
quyết định thay thế hoặc VKS trực tiếp ra quyết định thay thế biện pháp ngăn
chặn đối với bị can sang áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh hoặc đặt
tiền để bảo đảm và chuyển cho cơ quan điều tra thi hành. Còn đối với các biện
pháp ngăn chặn khác, VKS chỉ ra quyết định thay thế khi đã có yêu cầu nhưng
cơ quan điều tra không thực hiện. Khi thấy không cần thiết hoặc khi vụ án
đình chỉ điều tra thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ hoặc
trực tiếp ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Còn đối với những biện
pháp ngăn chặn do VKS áp dụng hoặc phê chuẩn thì việc hủy bỏ phải do VKS
quyết định.
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Sau khi việc điều tra kết thúc, Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố và chuyển hồ sơ đến VKS thì giai đoạn truy tố được bắt đầu và
VKS kết thúc giai đoạn này bằng một trong các quyết định được quy định tại

khoản 1 Điều 240 BLTTHS năm 2015, cụ thể: Truy tố bị can ra trước Tòa án;
Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.

13


Hoạt động THQCT trong giai đoạn truy tố của VKS theo Điều 236
BLTTHS năm 2015 quy định gồm: Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị
can; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án
trong trường hợp cần thiết; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra (như:
Hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người tham gia tố tung, đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra…) nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để
quyết định việc truy tố mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan
điều tra; Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội,
người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra; Quyết định trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung; Quyết định tách, nhập
vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Quyết định gia hạn, không gia hạn thời
hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế…
Trong đó, quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung để nhằm bảo đảm việc
giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đúng quy định pháp luật. Việc ra
quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung phải đảm bảo căn cứ quy định tại Điều
245 BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKNDTCTANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao,
Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về trả hồ sơ điều tra bổ sung. VKS chỉ
trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung trong một số các trường hợp

theo luật định.
VKS có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can khi có một
trong các căn cứ quy định tại Điều 248 BLTTHS năm 2015: Không có sự việc
phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy
14


hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà thực hiện
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ có hiệu lực
pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được
đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp
cần tái thẩm đối với người khác; Tội phạm thuộc trường hợp khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố;
Người thực hiện hành vi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
Quan trọng nhất trong giai đoạn truy tố là Quyết định truy tố bị can ra
trước Tòa án để xét xử về hành vi phạm tội. Quyết định truy tố của VKS được
thể hiện bằng bản cáo trạng hoặc bằng quyết định truy tố (trong trường hợp vụ
án được giải quyết theo thủ tục rút gọn). Bản cáo trạng là cơ sở pháp lý để
Tòa án xét xử, là căn cứ để giới hạn xét xử của Tòa án, bị cáo hoặc người đại
diện cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa và Kiểm sát viên thực hiện quyền
buộc tội tại phiên tòa.
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
- Rút quyết định truy tố: Theo Luật quy định trước khi mở phiên tòa,
nếu xét thấy có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố thì Kiểm
sát viên được phân công THQCT và kiểm sát xét xử vụ án phải báo cáo đề
xuất Lãnh đạo Viện xem xét và quyết định. Việc rút quyết định truy tố phải
bằng văn bản và có nêu rõ lý do. Trong trường hợp rút toàn bộ quyết định truy
tố thì đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Trong quá trình xét xử, sau quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nếu có căn
cứ rõ ràng để rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về

một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng
hơn trong cùng điều luật làm thay đổi quyết định truy tố hoặc đường lối xử lý
đã được lãnh đạo Viện kiểm sát cho ý kiến thì Kiểm sát viên quyết định và
phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Điều này được quy định rõ tại
Điều 319 BLTTHS năm 2015 và ở khoản 2 Điều 21 Quy chế Công tác thực
15


hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết
định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao).
- Công bố Cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn Theo
Điều 306 BLTTHS năm 2015 thì trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên
công bố bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và quyết
định khác về việc buộc tội đối với bị cáo, bổ sung làm rõ thêm nội dung bản
cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn. Ý kiến bổ sung không
được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
- Tham gia xét hỏi tại phiên tòa: Khi thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên bắt buộc phải tham gia xét hỏi. Trước
khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải chuẩn bị đề cương xét hỏi, dự kiến
các vấn đề cần làm sáng tỏ, những vấn đề mà người bào chữa quan tâm, dự
kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên tòa để tham gia xét hỏi
nhằm xác định sự thật của vụ án và các tình tiết khác có liên quan đến việc
định tội và đề nghị mức hình phạt. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên theo dõi, ghi
chép đầy đủ nội dung xét hỏi của Hội đồng xét xử, người bào chữa, những
người tham gia tố tụng khác và ý kiến trả lời của người được xét hỏi, chủ
động tham gia xét hỏi theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa để xác định sự
thật khách quan của vụ án, làm sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trò, vị
trí của từng bị cáo, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng... Khi xét hỏi Kiểm
sát viên phải đặt câu hỏi hết sức rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu; tránh trường

hợp giải thích, kết luận luôn vấn đề đang làm rõ.
- Trình bày luận tội tại phiên tòa:
Điều 321 BLTTHS năm 2015 quy định: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên
phải ghi chép đầy đủ việc kiểm tra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật tại phiên
tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự và những người tham gia tố tụng khác để hoàn
16


chỉnh dự thảo bản luận tội. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình
bày bản luận tội và kết luận vụ án theo hướng sau: đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ
tục rút gọn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn với khoản mà
Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật; kết luận về một tội danh
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố nếu có căn cứ và
các nội dung khác. Luận tội của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những chứng
cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa.
- Tranh luận tại phiên tòa:
Tranh luận của KSV đối với bị cáo, người bào chữa, những người tham
gia tố tụng khác được quy định cụ thể tại Điều 322 BLTTHS năm 2015. Tại
phiên tòa, Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ ý kiến của những người tham
gia tố tụng để chuẩn bị tranh luận. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật và lập luận để đối đáp đến cùng đối với từng ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Nếu vụ án có nhiều người bào
chữa cho bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác có cùng ý kiến về
một nội dung thì Kiểm sát viên tổng hợp lại để đối đáp chung cho các ý kiến
đó. Trường hợp chủ tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến
có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác chưa được tranh luận thì Kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ
tọa phiên tòa, nếu đã tranh luận một phần thì Kiểm sát viên tranh luận bổ sung

cho đầy đủ, không lặp lại những nội dung đã tranh luận trước. Trường hợp cần
xem xét thêm chứng cứ, Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi thì sau
khi xét hỏi xong Kiểm sát viên phải tiếp tục tranh luận. Khi tranh luận, Kiểm
sát viên luôn bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham
gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị không
có căn cứ pháp luật.

17


- Kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án:
Kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Điều 336 BLTTHS
cũng như tại Điều 18 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 với nội dung: VKS
cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật khi có một trong những căn cứ sau
đây: Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến đánh
giá không đúng tính chất của vụ án; Kết luận, quyết định trong bản án, quyết
định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; Có sai
lầm trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và
các văn bản pháp luật khác; Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng
luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
1.2.3. Vai trò của thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
THQCT nói chung và đối với các tội giết người nói riêng trong tố tụng
hình sự của VKS là chức năng cơ bản của ngành, bao gồm rất nhiều hoạt động
pháp lý khác nhau, để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội. Thực hiện tốt hoạt động THQCT trong thực tiễn sẽ góp phần làm
sáng tỏ, bản chất, nội dung vụ án, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
THQCT của VKS đối với các vụ án giết người còn có vai trò quan

trọng là hướng các chủ thể của các quan hệ pháp luật thực hiện những hành
vi phù hợp với các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng, đầy đủ chức trách
của mình được giao khi tiến hành tố tụng; ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi
phạm mới trong quá trình điều tra các vụ án hình sự của những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Ngoài ra còn có vai trò nổi bật nữa là thông qua công tác THQCT này
VKS có những biện pháp, cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, không
những đối với các đối tượng vi phạm, tội phạm mà còn có tác động rộng lớn
18


trong xã hội; đề xuất các giải pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật nói chung
và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
1.3. Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội giết người
Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức VKSND năm
2014 đều quy định rất rõ: VKSND có hai chức năng đó là THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Qua đó thấy rằng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong quá trình giải quyết đối với các tội giết người là hai chức năng độc lập
của VKS. Chúng có sự khác nhau nhất định từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 159 và Điều 160 BLTTHS năm
2015); giai đoạn khởi tố (Điều 161 BLTTHS năm 2015); giai đoạn điều tra vụ
án hình sự (Điều 165, 166 BLTTHS năm 2015); giai đoạn truy tố (Điều 236,
237 BLTTHS năm 2015) và giai đoạn xét xử (Điều 266, 267 BLTTHS năm
2015). Nhưng tựu chung lại có thể thấy hai chức năng THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp đối với các tội giết người có điểm khác nhau cơ bản như
sau:
Về mục đích: của THQCT là bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người
phạm tội thực hiện hành vi giết người đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời.
Còn mục đích của của kiểm sát hoạt động tư pháp là kịp thời phát hiện mọi vi

phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các tội giết người, có biện pháp xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Về nội dung: THQCT đối với các tội giết người gồm các hoạt động
phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng của các cơ quan
có thẩm quyền trong tố tụng hình sự; Yêu cầu hoặc trực tiếp tiến hành một số
hoạt động tố tụng; Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Trong khi đó, hoạt động kiểm sát
tư pháp lại là yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm loại trừ hành vi vi phạm
pháp luật.
19


Tuy THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức năng riêng biệt
của VKS nhưng chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại và hỗ trợ cho
nhau. Nhìn dưới góc độ chung nhất thì THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp
đều có chung mục đích bao quát đó là nhằm đảm bảo cho hành vi phạm vào
các tội giết người được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
được đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội cũng như không
làm oan người vô tội.
Trong thực tiễn, hoạt động THQCT dựa trên kết quả hoạt động của
kiểm sát hoạt động tư pháp, điều đó có nghĩa là quá trình kiểm tra tính có căn
cứ và hợp pháp trong các tình tiết của vụ án để từ đó thực hiện các quyền
năng thuộc phạm vi quyền công tố và ngược lại.
1.4. Các yếu tố tác động chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người
1.4.1. Quy định của pháp luật
Những quy định của hệ thống pháp luật hình sự - tố tụng hình sự của
nước ta đến nay phải nói là hoàn thiện hơn các hệ thống pháp luật dân sự, tố
tụng hành chính…Quy định của pháp luật về hoạt động THQCT đối với các
tội giết người đã có và càng ngày càng được hoàn thiện, chặt chẽ hơn tạo điều

kiện thuận lợi cho những nhà làm luật áp dụng được chính xác, khách quan.
Tuy nhiên cũng không có nghĩa là việc thực thi pháp luật luôn được tốt mà nó
còn phụ thuộc và nhiều yếu tố khác như: hướng dẫn áp dụng pháp luật thiếu
thống nhất, chưa kịp thời, nhận thức áp dụng pháp luật của những người thi
hành pháp luật đối với các tội giết người có những quan điểm khác nhau; ảnh
hưởng của tập tục của địa phương, của vùng miền; sự tác động của gia đình bị
can, người thân của gia đình người tiến hành tố tụng, rồi mặt trái của kinh tế
thị trường …đây là những yếu tố tác động không nhỏ đến kết quả của hoạt
động THQCT đối với các tội giết người.

20


×