VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN HOÀN
KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN HOÀN
KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8. 38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MẠNH CƯỜNG
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ: “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” là do chính
tôi thực hiện.
Toàn bộ các tài liệu, cơ sở pháp lý, các dẫn chứng số liệu được tôi sử dụng để
phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn đều đảm bảo chính xác, trung thực theo yêu
cầu của một luận văn khoa học.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 8 năm 2019
Tác giả
Lê Văn Hoàn
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập, nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội, bản thân tôi
đã lĩnh hội được rất nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu của các thế hệ Thầy, Cô
giáo, của các anh, chị, bạn bè cùng lớp, cùng khóa, cùng trường; các kiến thức, kinh
nghiệm là hành trang để tôi công tác, vận dụng vào cuộc sống ngày càng tốt hơn.
Trong thời gian học tập tại trường, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
của quý Thầy, Cô, gia đình và bạn bè. Trước tiên, tôi xin gửi biết ơn sâu sắc nhất đến
quý Thầy, Cô ở Học viện Khoa học Xã hội với tri thức và tâm huyết của mình đã
truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho chúng tôi trong suốt thời gian
học tập tại trường.
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của quý Thầy,
Cô ở Học viện Khoa học Xã hội và Thầy hướng dẫn. Với tình cảm chân thành và sâu
sắc nhất, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn đến quý Thầy, Cô đã tạo điều kiện
giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh”.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy giáo – TS.
Nguyễn Mạnh Cường đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, chu đáo để
tôi hoàn thành luận văn này với kết quả tốt nhất.
Tuy nhiên, với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, luận
văn này không thể tránh được những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô để tôi có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến
thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 8 năm 2019
Tác giả
Lê Văn Hoàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................................. 7
1.1. Kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự ...........................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự ...........................................7
1.1.2. Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự .................................................9
1.1.3. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục kê biên tài sản ...................10
1.2. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự................199
1.2.1. Bán đấu giá tài sản ...............................................................................199
1.2.2. Bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .............................................22
1.2.3. Nội dung pháp luật về bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .........23
1.2.4. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự .............28
Chương 2: THỰC TIỄN KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................................ 30
2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Quận 10, thành phố Hồ Chí
Minh ......................................................................................................................30
2.2. Thực tiễn kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ
Chí Minh ...............................................................................................................31
2.2.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại
Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................311
2.2.2. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc kê biên
tài sản để thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh .............411
2.3. Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10, thành phố
Hồ Chí Minh .......................................................................................................444
2.3.1. Thẩm định giá tài sản kê biên...............................................................444
2.3.2. Thực tiễn bán đấu giá tài sản tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10,
thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................................455
2.3.3. Một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong bán đấu giá tài sản
để thi hành án dân sự .......................................................................................59
Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GÓP
PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................................................... 612
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả kê biên,
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự .......................................................612
3.1.1. Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Thi hành án dân sự
liên quan đến kê biên, bán đấu giá tài sản .....................................................612
3.1.2. Kiến nghị sửa đổi bổ sung một số quy định của Luật Đấu giá tài sản
......................................................................................................................6464
3.1.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định 62/1015/NĐCP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự liên quan đến kê biên, bán đấu giá tài
sản .....................................................................................................................65
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc kê biên, bán đấu giá tài
sản trong thi hành án dân sự tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố
Hồ Chí Minh .........................................................................................................69
3.2.1. Nâng cao năng lực cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành
án dân sự trong thực hiện kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án ...........69
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các nội dung phối hợp và thực hiện tốt cơ chế phối
hợp liên ngành trong thi hành án dân sự .........................................................69
3.2.3. Tranh thủ sự chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa
phương trong kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án ...............................70
3.2.4. Giám sát chặt chẽ việc bán đấu giá tài sản kê biên của các tổ chức bán
đấu giá ..............................................................................................................70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phán quyết của Tòa án được chấp hành phần lớn thông qua hoạt động thi hành
án, đã tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân dân đối với tính nghiêm minh của
pháp luật. Do vậy, hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa hết sức quan trọng,
trực tiếp góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Đảng, Nhà nước, các tổ chức và công dân.
Kê biên tài sản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2018 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2014), theo đó Chấp hành viên tiến hành các trình tự, thủ tục theo quy định
tiến hành kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành để thi hành các nghĩa vụ của
người phải thi hành án bằng tiền trong các bản án, quyết định của Tòa án [32, Tr.24].
Bán đấu giá là một trong những hình thức mua bán tài sản, hàng hóa phổ biến
trong nền kinh tế thị trường. Thông qua bán đấu giá, người mua và người bán có thể
mua và bán được tài sản, hàng hóa. Đấu giá tài sản là một hoạt động mang tính dịch
vụ của tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp hoặc của Hội đồng bán đấu giá tài sản Nhà
nước theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau
nhằm thu về khoản tiền nhất định nào đó cho mục đích nhất định hoặc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các cá nhân, tổ chức có liên quan. Đối với hoạt động
thi hành án dân sự, việc bán đấu giá tài sản được thực hiện trong hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất là việc Chấp hành viên thực hiện ký hợp đồng bán đấu giá với
tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp hoặc các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản
thuộc Sở Tư pháp; trường hợp thứ hai là Chấp hành viên tự mình thực hiện việc bán
đấu giá tài sản nhằm mục đích thu tiền để tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Việc cải cách thủ tục hành chính, quy định các trình tự, thủ tục kê biên, bán
đấu giá tài sản để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án phù hợp và đạt hiệu quả
cao đang là một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra cho các cơ quan thi hành án
1
dân sự nói chung và tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng.
Thực tiễn kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Quận 10,
thành phố Hồ Chí Minh đã và đang đạt được những kết quả quan trọng, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn tại địa phương; tạo điều kiện cho việc phát triển
kinh tế, xã hội; góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, đường
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đảm bảo các mục tiêu hội nhập và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự nói chung
và công tác kê biên, bán đấu giá trong thi hành án dân sự trên địa bàn Quận 10, thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng dự báo tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn, thách thức trong
thời gian tới, như: khó khăn về thể chế, mặc dù pháp luật về thi hành án dân sự đã
quy định tương đối đầy đủ, chi tiết, cơ bản điều chỉnh được các quan hệ phát sinh
trong đời sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức thi hành án vẫn còn
bộc lộ các khó khăn, vướng mắc, chồng chéo giữa các văn bản quy pháp luật, các
ngành luật cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung hoàn thiện. Khó khăn về các vụ việc thi
hành án phát sinh ngày càng tăng về số vụ việc và giá trị thi hành, người phải thi hành
án luôn tìm cách trì hoãn, thậm chí chống đối thi hành án ngày càng diễn biến phức
tạp; đòi hỏi của xã hội và người dân đối với công tác thi hành án ngày càng cao; người
phải thi hành án lợi dụng các quyền khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đối với tài sản để
trốn tránh, kéo dài thi hành án gây bức xúc cho người được thi hành án ngày càng
phổ biến và đa dạng; ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân
và doanh nghiệp chưa cao, có tâm lý chạy theo đám đông, gây khó khăn cho cơ quan
thi hành án và Chấp hành viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; một số cơ quan,
tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong phối hợp, hỗ trợ
thi hành án; một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án còn hạn chế về năng lực, kỹ
năng tác nghiệp, lơ là, chủ quan trong quá trình tổ chức thi hành án nên hiệu quả chưa
cao. Do đó, đòi hỏi khách quan phải tiếp tục có các đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn
thiện thể chế; đề xuất các giải pháp để khắc phục các hạn chế, tồn tại, nâng cao hiệu
2
quả của công tác thi hành án dân sự nói chung và thủ tục kê biên, bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự nói riêng.
Vì những lý do trên tôi chọn đề tài: “Kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” làm luận
văn tốt nghiệp. Việc nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về kê biên, bán đấu giá
tài sản trong thi hành án dân sự để nâng cao năng lực, kỹ năng trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể và khả thi
góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, đồng thời khắc phục những khó
khăn, hạn chế, bất cập trong hoạt động kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự đã có một số
tác giả nghiên cứu:
Luận văn Thạc sỹ: “Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay Ngân hàng trong thi
hành hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố
Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Ngọc Thanh (Bảo vệ năm 2017 tại Học Viện Khoa
học Xã hội). Mục đích của luận văn này đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và
quy định của pháp luật liên quan đến tài sản bảo đảm, kê biên tài sản bảo đảm tiền
vay của ngân hàng trong thi hành án dân sự. Luận văn đã nêu lên thực trạng kết quả
đạt được, cũng như những vướng mắc, khó khăn, bất cập trong việc kê biên tài sản
bảo đảm tiền vay của ngân hàng trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả cũng nêu ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật để góp phần nâng
cao hiệu quả của việc kê biên, xử lý tài sản bảo đảm để thi hành cho các ngân hàng,
tổ chức tín dụng.
Luận văn Thạc sỹ: “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn
Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Triệu Thị Diễm Thúy (Bảo vệ năm 2018 tại Học Viện khoa học xã hội). Mục đích
của luận văn này đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật
về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Luận văn đã nêu lên thực trạng kết
3
quả đạt được, cũng như những vướng mắc, khó khăn, bất cập trong việc bán đấu giá
tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiến quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí
Minh. Tác giả cũng nêu ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật để góp phần
nâng cao hiệu quả của việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Các nghiên cứu khoa học trên đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về kê biên, bán đấu giá trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về thực trạng kê biên, bán
đấu giá tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự tại địa phương cụ thể Quận 10, thành
phố Hồ Chí Minh. Do đó, sau khi nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa các quan điểm của
các công trình khoa học trên, tác giả nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về thực trạng
kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, trên cơ sở đó đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên, bán đấu giá tài sản để thi
hành án dân sự tại Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
cơ sở lý luận nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về kê
biên, bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Luận văn
cũng luận giải những cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
liên quan đến việc kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu: trên cơ sở phân tích và đánh giá những vấn đề lý luận,
pháp lý về kê biên, bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật thi hành án dân
sự. Từ đó nhận diện, đánh giá những thuận lợi, khó khăn, những hạn chế, bất cập của
các quy định pháp luật từ thực tiễn vận dụng, áp dụng tại Chi cục Thi hành án dân sự
Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị để
góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng, đảm bảo đúng quy định của pháp luật trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ kê biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự; kiến
nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến kê biên, bán đấu giá
tài sản trong thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân
sự và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là hoạt động kê biên, bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố
Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: về nội dung: nghiên cứu phần lý luận chung về kê biên,
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự; phần thực tiễn áp dụng pháp luật về kê
biên, bán đấu giá tài sản để thi hành án và kiến nghị hoàn thiện, nâng cao hiệu quả;
về chủ thể, địa phương áp dụng: Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ
Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và hệ thống
pháp luật hiện hành.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tác giả nghiên cứu làm sáng tỏ các quy định pháp luật về kê biên, bán đấu giá
tài sản trong thi hành án dân sự. Từ thực tiễn tại địa phương, đã phân tích, đánh giá,
nhận diện tương đối toàn diện những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong
vận dụng, áp dụng và thực thi trên thực tế công tác về kê biên, bán đấu giá tài sản để
thi hành án dân sự trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đưa
ra các đề xuất, kiến nghị, giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật
về thi hành án dân sự và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả công tác của bản thân và đơn vị.
Các nội dung thể hiện trong đề tài sẽ là tài liệu để tham khảo, nghiên cứu cho
các đối tượng muốn quan tâm, tìm hiểu về kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự. Đồng thời, kết quả nghiên cứu đề tài là tài liệu góp phần phục vụ cho việc
5
nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và kinh nghiệm công tác cho các
cán bộ, công chức công tác trong ngành thi hành án dân sự. Là cơ sở để các cơ quan
nhà nước, địa phương hoạch định, xây dựng các chính sách liên quan đến thi hành án
dân sự phù hợp, đạt hiệu quả cao.
7. Kết cấu của luận văn
Bao gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kê biên, bán đấu giá tài sản theo pháp
luật thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại
Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao
hiệu quả kê biên, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự tại Chi Cục Thi hành
án dân sự Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KÊ BIÊN, BÁN ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm về thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động của hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự,
có chức năng tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án, theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, nhằm khôi phục các quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ chức và người dân. Theo quy định của luật thi
hành án dân sự, thì các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được cơ quan thi
hành án dân sự tổ chức thi hành bao gồm:
“- Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
- Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
- Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
- Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành,
không khởi kiện tại Tòa án;
- Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
- Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản” [32, tr.10].
1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [27, tr.26]. Các bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực của Toà án phải được đảm bảo thi hành theo
trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
7
Theo nguyên tắc Hiến định nêu trên thì hoạt động thi hành án dân sự là nhằm
đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật. Tuy nhiên, việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề còn nhiều
tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác nhau, có
quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp; hoạt động hành chính
hay hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp. Xuất phát từ các quy định pháp
luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đồng
tình với quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất
của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt động tư pháp. Điều này thể hiện
ở một số điểm sau đây:
Thi hành án dân sự và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Đối với các bản án hình sự hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan
tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn
như kê biên, thu giữ, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi
hành án dân sự sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự đã cố tình tẩu tán tài sản, dẫn
đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định
được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, cụ thể, rõ ràng, được dư
luận đồng tình, ủng hộ thì đến giai đoạn thi hành án việc thi hành sẽ được dễ dàng,
nhanh chóng. Trái lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không công
bằng, toàn diện, khách quan, thiếu tính khả thi sẽ gây khó khăn, cản trở cho việc thi
hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Nếu việc thi
hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét
xử, góp phần củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với các cơ quan nhà nước.
Quá trình thi hành án dân sự là nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về tài
sản, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó các trình tự, thủ tục về quá trình thi
hành án dân sự cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục
tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền và lợi ích của con người, của công dân.
8
1.1.2. Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Kê biên tài sản là một trong những biện pháp cưỡng chế bắt buộc của cơ quan
Thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc đương sự
phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo Bản án, quyết định của
Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành
án mà không tự nguyện thi hành.
1.1.2.1. Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản
Để áp dụng được biện pháp kê biên tài sản, cần phải căn cứ các quy định của
Luật Thi hành án dân sự, gồm:
- Bản án, quyết định của Tòa án: Bản án, quyết định của Tòa án là một trong
những căn cứ bắt buộc, không thể thiếu để thực hiện biện pháp kê biên tài sản. Điều
này được quy định tại khoản 1, điều 70 của Luật Thi hành án dân sự về căn cứ cưỡng
chế: “bản án, quyết định”. Chấp hành viên phải dựa trên cơ sở bản án, quyết định
của Tòa án để áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản.
- Quyết định thi hành án: Quyết định thi hành án là văn bản do Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định để thi
hành một hoặc nhiều khoản của bản án, quyết định dân sự theo thủ tục thi hành án
dân sự, làm căn cứ cho việc tổ chức cưỡng chế thi hành án, bảo đảm lợi ích nhà nước,
tổ chức và công dân.
- Người phải thi hành án có tài sản, đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án
nhưng không tự nguyện thi hành, sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
1.1.2.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp kê biên tài sản
Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành
án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án và
tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án phù hợp, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của
người phải thi hành án và các chi phí cần thiết.
9
Sau khi ra quyết định kê biên, Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục thông
báo cho các đương sự và những cơ quan, tổ chức có liên quan biết được nội dung
cưỡng chế. Thông báo cưỡng chế là thủ tục bắt buộc mà cơ quan thi hành án gửi, tống
đạt cho các đương sự và những cơ quan, tổ chức hữu quan để các đương sự và cơ
quan đó thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Theo quy định thì việc thông báo
được thực hiện dưới nhiều hình thức như: thông báo trực tiếp, niêm yết công khai,
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, ngoài ra còn có một số hình thức
thông báo khác như: thư tín, điện tín, fax, email hoặc các hình thức khác. Người đảm
nhận việc thông báo quyết định kê biên là Chấp hành viên, thư ký thi hành án giao
văn bản cần thông báo cho người được thông báo, do bưu tá, người được cơ quan thi
hành án ủy quyền, tổ chức tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum,
sóc, Ủy ban nhân dân, Công an cấp xã; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, Giám thị trại
giam, trại tạm giam nơi người được thông báo có địa chỉ, cư trú, công tác.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản phải căn cứ vào bản án,
quyết định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về
mặt chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành viên.
1.1.2.3. Căn cứ áp dụng biện pháp kê biên tài sản
Khi tổ chức thi hành một bản án liên quan đến kê biên tài sản của người phải
thi hành án, thì căn cứ để tổ chức cưỡng chế thi hành án phải theo quy định chung,
trong đó hồ sơ thi hành án phải có: Bản án quyết định, đơn yêu cầu thi hành án, Quyết
định thi hành án, các văn bản tài liệu xác minh quá trình tổ chức thi hành án và cuối
cùng là Quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên
kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
1.1.3. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục kê biên tài sản
1.1.3.1. Ra quyết định kê biên tài sản của người phải thi hành án
Thứ nhất, thẩm quyền ra quyết định kê biên tài sản
Theo quy định tại khoản 5 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, thì thẩm quyền
này thuộc về Chấp hành viên được phân công tổ chức vụ việc.
10
Thứ hai, về thời điểm ra quyết định kê biên tài sản
Theo quy định tại Điều 46 Luật Thi hành án dân sự thì hết thời gian tự nguyện
thi hành án (hoặc chưa hết thời hạn tự nguyện nhưng thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Đều 45 Luật Thi hành án dân sự) và xác định người phải thi hành án có tài
sản thuộc diện được kê biên để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tự nguyện thi hành án
là 10 ngày kể từ ngày nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong thời hạn tự nguyện thi hành án thì Chấp
hành viên phải chứng minh người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài
sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Thứ ba, điều kiện để ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản
Người phải thi hành án được xác định là có điều kiện thi hành án khi người đó
có tài sản để thi hành án. Để xác định thế nào là có tài sản để thi hành án, Chấp hành
viên phải căn cứ vào quy định tại Bộ Luật dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật
khác có liên quan, cụ thể: Về tài sản, theo quy định tại Điều 105 Bộ Luật dân sự, thì
tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và
động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai:
- Bất động sản bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định
của pháp luật.
- Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
- Quyền tài sản: Theo quy định tại Điều 115 Bộ Luật dân sự năm 2015 thì,
quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
là quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
- Giấy tờ có giá: Theo quy định tại khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010; khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và khảo 1 Điều
2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN, thì: Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ
trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sử dụng giấy tờ có giá trong
một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác . Như vậy, giấy tờ có
11
giá là loại giấy tờ trên đó thể hiện một giá trị thanh toán hoặc quy đổi được thành tiền
và được phép giao dịch trên thị trường theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, lựa chọn tài sản để ra quyết định kê biên
Để có cơ sở ban hành quyết định kê biên tài sản, Chấp hành viên phải lựa chọn
tài sản để kê biên (trừ trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên kê biên tài
sản cụ thể). Khi lựa chọn tài sản để thực hiện kê biên, Chấp hành viên cần tuân thủ
các nguyên tắc sau:
- Chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án hoặc tài sản của người phải
thi hành án đang do người thứ ba giữ.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 71 Luật Thi hành án dân sự, khi ra quyết
định kê biên tài sản của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải có căn cứ pháp
lý để xác định đấy là tài sản thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Ví dụ:
đối với tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản như quyền sử dụng đất, ô tô, mô tô, tàu thuyền…thì căn cứ pháp lý là
giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho
người phải thi hành án [32, Tr.15].
- Phải lựa chọn tài sản kê biên tương ứng với nghĩa vụ thi hành án.
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày
18/07/2015 của Chính phủ thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nói chung, biện pháp
kê biên tài sản của người phải thi hành án nói riêng cần đảm bảo tài sản bị kê biên
phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Do
đó, Chấp hành viên phải lựa chọn tài sản kê biên ít nhất là lớn hơn hoặc bằng nghĩa
vụ thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một
tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó
không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản
thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp kê biên toàn bộ tài sản đó để đảm
bảo thi hành án [14, Tr.6].
- Về thứ tự lựa chọn tài sản kê biên
Trường hợp kê biên tài sản chung của người phải thi hành án với người khác:
12
Theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 24 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015
của Chính phủ, thì: “Cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê biên, xử lý đối với tài sản
chung là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi các tài sản
khác không đủ để thi hành án hoặc khi có đề nghị của đương sự” [14, tr.21]. Như
vậy, Chấp hành viên chỉ lựa chọn việc kê biên tài sản chung của người phải thi hành
án với người khác là quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có
căn cứ pháp lý chứng minh người phải thi hành án không có tài sản khác đủ để thi
hành án.
Trường hợp người phải thi hành án tự nguyện giao tài sản để kê biên: Theo
quy định tại khoản 4 Đều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP 18/07/2015 của Chính
phủ, thì trường hợp người phải thi hành án tự nguyện đề nghị kê biên tài sản cụ thể
trong số nhiều tài sản mà không gây trở ngại cho việc tổ chức thi hành án và tài sản
đó đủ để thi hành án và các chi phí liên quan thì Chấp hành viên lập biên bản giải
thích cho họ về việc phải chịu mọi chi phí liên quan đến việc xử lý tài sản đó và tiến
hành kê biên tài sản để thi hành án. Người phải thi hành án bị hạn chế quyền thực
hiện giao dịch đối với tài sản khác cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thi hành á
[14, Tr.22]. Do đó, khi nhận được đề nghị của người phải thi hành án về việc kê biên
một tài sản cụ thể, Chấp hành viên cần phải tuân thủ các yếu tố sau khi chấp nhận kê
biên tài sản đó: tính pháp lý của tài sản, giá trị của tài sản, tính thanh khoản của tài
sản, khả năng thuận lợi hay khó khăn của việc giao tài sản cho người trúng đấu giá
để quyết định có lựa chọn kê biên tài sản đó hay không.
Trường hợp kê biên tài sản của doanh nghiệp: Theo quy định tại khoản 5 Điều
24 Nghị định 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ, quy định: Cơ quan thi hành
án dân sự chỉ kê biên tài sản khác của doanh nghiệp phải thi hành án, nếu sau khi đã
khấu trừ tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ có giá của
doanh nghiệp đang do người thứ ba giữ mà vẫn không đủ để thi hành án, trừ trường
hợp bản án, quyết định có quyết định khác hoặc đương sự có thỏa thận khác. Như
vậy, đối với nghĩa vụ của người phải thi hành án là doanh nghiệp thì Chấp hành viên
phải lựa chọn xử lý tiền và các loại tài sản có giá trị như tiền trước khi xử lý các tài
13
sản khác (nhà xưởng, máy móc, thiết bị…) của doanh nghiệp [14, Tr.22].
- Một số lưu ý khi lựa chọn tài sản kê biên:
Không lựa chọn những tài sản mà pháp luật quy định không được kê biên: Khi
thực hiện việc kê biên tài sản, phải tuân thủ quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án
dân sự, quy định những tài sản sau không được kê biên:
“1. Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc
phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan,
tổ chức.
2. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là cá nhân:
a) Số lương thực đáp ứng yêu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia
đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;
b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia
đình;
c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm;
d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán địa phương;
đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương
tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;
e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
3. Tài sản sau đây của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:
a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực,
thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;
b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc
các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;
c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng,
chống cháy, nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường” [32, tr.77].
Việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp. Theo quy định tại Điều 90 Luật
Thi hành án dân sự; khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của
Chính phủ; Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
14
thì cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên tài sản đã cầm cố, thế chấp trong một
số trường hợp như: người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản
nhưng không đủ để thi hành án thì Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ
bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án; kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật, nếu người phải thi hành án thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà
không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản nào khác hoặc
tài sản khác không đủ để đảm bảo thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên để thi hành
án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [14, tr.21].
Theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của
Quốc hội, về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng thì: “Các tải sản bảo
đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ
tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu
không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành
án dân sự, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu” [33, tr.13].
Như vậy, quyền kê biên của Chấp hành viên đối với tài sản của người phải thi
hành án đã cầm cố, thế chấp cho tổ chức tín dụng để đảm bảo cho khoản nợ xấu đã
bị hạn chế. Do đó, trong trường hợp kết quả xác minh cho thấy người phải thi hành
án có tài sản nhưng đang cầm cố, thế chấp cho các tổ chức tín dụng, thì Chấp hành
viên yêu cầu tổ chức tín dụng xác định bằng văn bản khoản nợ xấu đó có phải là nợ
xấu hay không theo quy định tại Điều 4 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 để làm cơ
sở cho việc thi hành án.
Thứ năm, thực hiện báo cáo kết quả xác minh và đề xuất việc kê biên tài sản
cho Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên là người quyết
định việc tổ chức thi hành án nói chung và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
tài sản nói riêng. Tuy nhiên, theo quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ quan
15
thi hành án, trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản. Chấp hành viên
đề xuất cả nội dung cưỡng chế kê biên tài sản trong trường hợp cần huy động lực
lượng cưỡng chế để Thủ trưởng cơ quan thi hành án trao đổi, đề nghị các cơ quan liên
quan cử người tham gia phối hợp, hỗ trợ việc cưỡng chế.
Quyết định kê biên tài sản là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong
trường hợp người phải thi hành án có nhiều nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản
không đủ để thi hành án. Mặt khác, việc chậm ra quyết định cưỡng chế có thể dẫn
đến trường hợp người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản gây khó khăn cho việc
thi hành án. Do đó, ngay sau khi có kết quả xác minh cho thấy người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên phải
báo cáo, đề xuất hướng xử lý tài sản cho Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, đồng
thời ban hành quyết định kê biên, xử lý tài sản.
Thứ sáu, về nội dung quyết định kê biên tài sản.
Nội dung quyết định kê biên, xử lý tài sản được thực hiện theo Mẫu số B26 và
C26-THA được ban hành theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của
Bộ Tư pháp.
1.1.3.2. Tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch cưỡng chế kê biên tài sản
Khi cưỡng chế kê biên tài sản, thành phần tham gia ngoài cơ quan thi hành án,
còn có các cơ quan liên quan như: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức kê biên, các
cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhà ở, công an, cứu thương, cứu hỏa…tham gia
để đảm bảo việc cưỡng chế được thành công, an toàn và hiệu quả.
Thứ hai, thông báo về việc kê biên tài sản
Chấp hành viên phải tiến hành thủ tục thông báo về việc kê biên tài sản cho
người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan, biên bản thông báo được thực hiện theo mẫu số D19 Thông tư số
01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 [4, Tr.7]. Theo quy định tại Điều 39 Luật Thi hành
án dân sự về thông báo thi hành án thì thông báo việc kê biên tài sản phải được gửi
đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc kê biên theo quy định trong thời
16
hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự
tẩu tán tài sản, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Ngoài ra, Chấp hành viên
phải thông báo trước ít nhất là 03 ngày làm việc về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên
cho đại diện chính quyền cấp xã, tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế.
Việc thực hiện thông báo trước khi kê biên tài sản là nhằm để các cơ quan có
liên quan và các đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan sắp xếp, chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ của mình theo luật định.
Tương tự như việc thông báo cưỡng chế nói chung, thông báo kê biên tài sản
có thể được thực hiện bằng các hình thức như: Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác; thông báo qua đường bưu điện; niêm yết công khai; thông báo
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc thông báo phải được thực hiện trong
thời hạn là 03 ngày làm việc kể từ ngày ra văn bản. Chi phí thông báo do người phải
thi hành án chịu. Trong trường hợp đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có
thay đổi về địa chỉ liên lạc thì phải kịp thời thông báo cho cơ quan thi hành án có
thẩm quyền tổ chức thi hành án biết để thực hiện việc thông báo theo địa chỉ mới.
Nếu không thông báo địa chỉ mới thì việc thông báo theo địa chỉ được xác định trước
đó cũng được xem là thông báo hợp lệ.
Thứ ba, chuẩn bị cho việc kê biên tài sản.
Để việc cưỡng chế kê biên tài được chủ động, đat hiệu quả cao thì công tác
chuẩn bị việc kê biên cũng rất quan trọng; công tác chuẩn bị càng kỹ lưỡng, chi tiết
thì hiệu quả càng cao, các nội dung cần thiết cho hoạt động cưỡng chế kê biên tài sản
gồm: Lập danh sách những người tham dự, gửi giấy mời và thông báo rõ thời gian,
địa điểm để họ tham gia buổi kê biên. Chuẩn bị các biểu mẫu nghiệp vụ như: biên
bản kê biên, biên bản giao bảo quản tài sản, biên bản mở khóa, phá khóa, biên bản
liệt kê, niêm phong tài sản. Chuẩn bị các công cụ, phương tiện cưỡng chế như: phương
tiện vận tải, bao bì, loa, giấy niêm phong...
Thứ tư, tiến hành việc kê biên tài sản.
Trong quá trình tổ chức kê biên có nhiều người và nhiều cơ quan hỗ trợ, phối
hợp, tuy nhiên Chấp hành viên là người chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện
17
kê biên tài sản, khi kê biên tài sản Chấp hành viên phải thực hiện kiểm tra danh sách,
lực lượng tham gia theo kế hoạch; kiểm tra các đương sự; công bố quyết định cưỡng
chế kê biên tài sản, chủ trì yêu cầu các thành phần tham gia cưỡng chế vào vị trí thực
hiện nhiệm vụ đã được phân công
Thứ năm, lập biên bản kê biên tài sản.
Khi kê biên tài sản phải lập biên bản kê biên. Việc lập biên bản có thể do Chấp
hành viên hoặc cán bộ thi hành án lập. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê
biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên
bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc kê biên;
mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng.
Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được uỷ quyền, người làm
chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế,
Chấp hành viên và người lập biên bản. Đối với biên bản kê biên quyền sử dụng đất,
tài sản gắn liền với đất thì biên bản phải ghi rõ vị trí, diện tích, ranh giới thửa đất
được kê biên và có chữ ký của những người tham gia. Trong trường hợp người phải
thi hành án không chịu ký vào biên bản kê biên thì phải ghi rõ lý do trong biên bản
và mời người làm chứng ký tên vào biên bản.
Thứ sáu, giao người bảo quản tài sản kê biên.
Trên cơ sở kết quả kê biên, Chấp hành viên lựa chọn các hình thức giao bảo
quản tài sản kê biên theo quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án dân sự. Khi giao tài
sản cho người phải thi hành án hoặc người thân thích của họ bảo quản, Chấp hành
cần phải thông báo cho người nhận bảo quản biết trách nhiệm của họ trong việc bảo
quản tài sản và họ phải có trách nhiệm để tổ chức thẩm định giá, người đăng ký mua
tài sản được xem tài sản. Việc giao tài sản cho cá nhân hay tổ chức nào bảo quản chờ
xử lý có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bán đấu giá và giao tài sản cho người mua
trúng đấu giá sau này, vì thế Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự phải cân
nhắc hiệu quả của công việc mới quyết định giao cho cá nhân hay tổ chức nào bảo
quản tài sản kê biên, việc giao bảo quản tài sản phải được lập biên bản ghi rõ loại tài
sản; tình trạng tài sản; giờ, ngày, tháng, năm giao; họ, tên Chấp hành viên, đương sự,
18
người được giao bảo quản, người làm chứng (nếu có); quyền, nghĩa vụ của người
được giao bảo quản tài sản và có chữ ký của các bên, trường hợp có người từ chối ký
thì phải ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
1.2. Khái quát chung về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
1.2.1. Bán đấu giá tài sản
1.2.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản
Đấu giá là một trong những hình thức mua bán tài sản phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Trong lý thuyết kinh tế, đấu giá là phương pháp xác định giá trị của một
tài sản có mức giá không thể xác định. Thông qua đấu giá, người mua và người bán
có thể mua và bán được tài sản với giá gần đúng với giá trị của tài sản đó.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thì đấu giá là bán theo phương thức để cho
những người mua trả giá công khai, ai trả giá cao nhất thì bán.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp “Đấu giá tài
sản thông qua thủ tục trả giá công khai giữa nhiều người muốn mua và người trả giá
cao nhất là người được quyền mua tài sản” [6, tr.19] . Đấu giá tài sản có thể là bắt
buộc (theo quyết định của tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền) hoặc tự
nguyện (theo nhu cầu của chủ sở hữu tài sản). Người bán tài sản có thể tự tổ chức đấu
giá hoặc thông qua người bán đấu giá chuyên nghiệp, kinh doanh đấu giá.
Theo khoản 2, Điều 5 Luật đấu giá tài sản “Đấu giá tài sản là hình thức bán
tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục
được quy định tại Luật này” [28, tr.7].
Trên thực tế, các hoạt động mua bán đấu giá đã tồn tại và phát triển một cách
khách quan cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Bộ luật Dân sự, Luật thương mại và
các văn bản pháp luật khác ra đời đã điều chỉnh các quan hệ này. Vì vậy, theo nghĩa
rộng thì đấu giá tài sản được hiểu là phương thức tổ chức mua bán tài sản công khai
có nhiều người cùng tham gia trả giá và người nào trả giá cao nhất là người mua được
tài sản đó. Với cách hiểu này, bán đấu giá tài sản đã được hiểu là một chế định pháp
luật dân sự - thương mại bao gồm các quy phạm pháp luật về đấu giá. Các quy phạm
19