Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 3 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG ANH DŨNG

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG ANH DŨNG

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.Các số liệu phân
tích trong luận văn là trung thực.Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa từng
được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.Luận văn đã thừa kế các kết quả
nghiên cứu của một số nghiên cứu khác dưới hình thức trích dẫn.Các nguồn
trích dẫn đã được liệt kê trong mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Người thực hiện

Trần Hoàng Anh Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ
HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC ............................................................ 10
1.1.

Khái niệm giám sát và phản biện ........................................... 10

1.2. Khái niệm giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. ........................................... 18
1.3. Phân biệt giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với giám sát, phản biện xã hội của một số cơ quan, tổ chức khác
đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước ......................................... 22
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động giám sát và phản biện
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam .................................................................. 27
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT, PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................. 31

2.1. Vài nét về đặc điểm kinh tế, xã hội và Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Quận 3,Thành phố Hồ Chí Minh........................................................ 31
2.2. Hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh ............................................................... 32
2.3. Phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận
3, Thành Phố Hồ Chí Minh ......................................................................... 40
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................ 46
3.1. Phương hướng tăng cường giám sát và phản biện của Mặt trận
Tổ quốc quận 3, thành phố Hồ Chí Minh ................................................... 46


3.2. Các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát và
phản biện của Mặt trận Tổ quốc quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh ............ 49
KẾT LUẬN .......................................................................................... 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

: Hội đồng nhân dân

MTTQVN

: Mặt trận tổ quốc Việt Nam

PBXH


: Phản biện xã hội

UBMTTQ

: Ủy ban mặt trận tổ quốc

UBND

: Ủy ban nhân dân

NVQS

: Nghĩa vụ quân sự

CT- XH

: chính trị - xã hội

UBKT

: Ủy ban kiểm tra


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Mặt trận tổ quốc có chức năng quan trọng hàng đầu, đó là giám sát và
phản biện xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định vai trò quan trọng của Mặt trận tổ quốc, Giám sát và phản biện xã
hội đã trở thành một chủ trương lớn của Đảng từ Đại hội X, đại hội XI tiếp

tục kế thừa quan điểm đó.Chủ trương này đã được thể chế trong Hiến pháp.
Điều 9 Hiến pháp 2013 .Đến nay, chức năng phản biện xã hội đã đựợc cụ thể
hóa thành quy chế trong Quy chế giám sát và phản biện xã hội năm 2013.
Thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện sẽ góp phần củng cố chính quyền
nhân dân, bảo vệ nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Như vậy, chức năng
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được khẳng định
nhất quán trong văn kiện cao nhất của Đảng và trở thành mục tiêu, phong
trào, hành động thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Qua 5 năm triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban
hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội, Quyết định số 218-QĐ/TW ban hành quy định về việc
MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị, xã hội và nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhiều kiến nghị sau giám sát, sau
phản biện xã hội của Mặt trận có chất lượng tốt được các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm tiếp thu, phản hồi. Quan trọng hơn, việc thực hiện đã góp
phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, giúp cơ quan
có thẩm quyền hoạch định, thực thi có hiệu quả hơn các chính sách, pháp luật
cũng như trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.Giám sát và phản
biện xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; qua đó Mặt trận Tổ quốc
1


Việt Nam thực hiện tốt hơn chức năng đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Cùng với Quyết định 217 và Quyết định 218, các văn bản của Nhà
nước đã góp phần quan trọng tạo cơ sở pháp lý để chủ trương của Đảng đi
vào cuộc sống thực chất hơn. Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, hoạt động giám sát, phản biện của MTTQ, các tổ chức chính trị
- xã hội đã có nhiều khởi sắc, hiệu quả và thiết thực hơn, ngày càng đóng vai

trò quan trọng trong đời sống xã hội, cuộc sống của các tầng lớp nhân dân,
góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, đồng thời, góp phần
nâng cao vai trò, vị thế, hình ảnh của MTTQ, đoàn thể chính trị - xã hội đối
với nhân dân, đối với Đảng.
Qua các hoạt động giám sát của MTTQ và các đoàn thể đã góp phần
xây dựng và thực hiện đúng hơn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, các kế hoạch chương trình dự thảo kinh tế,
môi trường, văn hóa, xã hội qua đó phát hiện những thiếu sót , kiến nghị sửa
đổi , bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế, phát hiện những nhân tố mới,
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch và vững mạnh.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều năm qua cho thấy hiệu quả giám
sát còn chưa cao, Mặt trận chưa phát huy triệt để vai trò trong việc nâng cao
quyền làm chủ của nhân dân.Phản biện xã hội thậm chí phải đến Hiến pháp
2013 mới được hiến định. Trong tình hình dân chủ hóa, xuất phát từ nguyên
tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận tổ quốc là đòi hỏi cấp bách và tất yếu.Trên cơ sở đó xây dựng nền
hành chính trong sạch, tinh gọn và thuận tiện, tránh thực trạng mất dân chủ,
cửa quyền, lạm quyền, quan liêu.
2


Qua các báo cáo và đánh giá hoạt động giám sát và phản biện xã hội
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh còn
tồn tại những bất cập và hạn chế. Chẳng hạn, một số cơ quan chưa thực sự
quan tâm ,đội ngũ cán bộ làm công tác Mặt trận ở 14 phường tuy có nhiều cố
gắng, nhưng nhìn chung chưa có nhiều kinh nghiệm trong giám sát và phản
biện xã hội, dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Trong thời gian qua công tác giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh đã đạt được một
số ưu điểm, nhưng vẫn còn bất cập trong công tác giám sát và phản biện xã
hội đang đặt ra những câu hỏi và cần câu trả lời. Với những lý do trên và
mong muốn có thêm một góc nhìn khoa học đối với việc giám sát và phản
biện xã hội nên học viên chọn đề tài nghiên cứu “Giám sát, phản biện xã hội
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn Quận 3, Thành phố Hồ
Chí Minh”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, tác giả đã tìm hiểu một số bài nghiên cứu, sách,
công trình nghiên cứu, tác phẩm của một số cơ quan, cá nhân, tổ chức ở Trung
ương cũng như địa phương có liên quan đến phản biện xã hội và vai trò của
Mặt trận Tổ quốc trong việc phản biện xã hội như một thiết chế để nâng cao
dân chủ và thể hiện quyền của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc tham gia
xây dựng chính quyền, đất nước, cụ thể như:
Sách “Phản biện xã hội” của tác giả Trần Đăng Tuấn (Nxb Đà Nẵng
năm 2006); tập sách gồm những bài viết về những vấn đề chung, phương
pháp thực hiện phản biện xã hội và tập hợp các bài viết khác bàn về các vấn
đề thực tiễn từ cuộc sống mà theo tác giả là có liên quan đến phản biện xã hội
trên phương diện xã hội học.
3


Đề tài luận văn thạc sĩ “Báo chí với vấn đề kiểm soát quyền lực và
phản biện xã hội” của tác giả Mai Thị Thúy Hường năm (năm 2009): Đề tài
nghiên cứu lý luận chung về giám sát quyền lực và phản biện xã hội, vai trò
của báo chí trong việc thực hiện chức năng giám sát quyền lực và phản biện
xã hội. Tác giá đã phân tích và đánh giá được vai trò của báo chí trong việc
thực hiện chức năng giám sát quyền lực và phản biện xã hội về nội dung phản
ánh và hình thức phản ánh, từ đó đã đề xuất một số nhóm giải pháp nâng cao
chất lượng hoạt động báo chí, nội dung và hình thức của các tác phẩm báo chí

nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng nói trên.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Điều chỉnh pháp luật đối với phản biện xã hội”
của tác giả Lê Phương Mai (năm 2010): Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận
về phản biện xã hội: khái niệm, đặc điểm, vai trò, các hình thức của phản biện
xã hội; Thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối với phản biện xã hội và một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả về điều chỉnh của pháp luật đối với phản biện
xã hội: nhu cầu cần đổi mới sự điều chỉnh của pháp luật đối với phản biện xã
hội, nguyên tắc đối mới điều chỉnh của pháp luật đối với phản biện xã hội
cuối cùng là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật
đối với phản biện xã hội.
Luận văn Thạc sĩ về “Hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang” của Trần Văn
Thi (năm 2018), Học viện khoa học xã hội.
Một số tác phẩm, báo cáo, bài viết khác có liên quan đến phản biện xã
hội và vai trò của Mặt trận tổ quốc như: Nguyễn Trọng Bình (2010), Suy nghĩ
về phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Mặt trận (05), tr.
3-4; Nguyễn Minh Đoan (năm 2011), Bàn thêm về phản biện xã hội ở Việt
Nam, Tạp chí Luật học (03), tr 3-9; Nguyễn Văn Động (năm 2011), Phản biện
xã hội – Nhìn từ góc độ luật học, Tạp chí Luật học (05), tr 3-7; Trần Ngọc
4


Nhẫn (năm 2006), Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (82), tr. 32-34; Vũ Văn Nhiêm (năm 2007), Một
số vấn đề về Phản biện xã hội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (114), tr 11-12.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã nêu được những nội dung liên
quan đến các phương diện khác nhau của phản biện xã hội như lý luận, vai
trò, vị trí, sự cần thiết phải có phản biện xã hội và nghiêng về đánh giá tổ
chức, hoạt động của Mặt trận tổ quốc trong việc phát huy tính dân chủ, cũng
có một số bài báo, tạp chí có đề cập đến vai trò phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc nhưng ở dưới góc độ bài viết; một số văn bản quy phạm pháp luật,
một số chủ trương của Đảng và Nhà nước ban hành có liên quan đến Mặt trận
tổ quốc như: thực hiện quy chế dân chủ, đại đoàn kết dân tộc và tăng cường
Mặt trận dân tộc thống nhất, chức năng giám sát, giám sát cán bộ…, thì chưa
có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về những vấn đề thực tiễn đang đặt
ra cũng như những giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý góp phần nâng
cao vai trò và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc trong việc bảo đảm
thực hiện chức năng phản biện xã hội như tác giả đã chọn.Giám sát, phản biện
xã hội ở cơ sở là một vấn đề quan trọng trong đời sống chính trị ở nước ta
hiện nay, bởi thông qua hoạt động giám sát, phản biện sẽ cho thấy sự tham gia
của người dân và các tổ chức đoàn thể trong việc giám sát, kiểm tra các kế
hoạch thực hiện phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, tính dân chủ,
minh bạch và công khai trong đời sống xã hội.
Các bài viết về nghiên cứu hoạt động giám sát, phản biện xã hội của
nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
trước đây đều ở các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, từ
năm 2015 đến nay chưa có luận văn nghiên cứu nào đề cập chuyên sâu, về
hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
từ thực tiễn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định của Hiến pháp
5


2013, Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa
XI) , chưa có đề tài nào nghiên cứu đề cập chuyên sâu, về hoạt động giám sát,
phản biện xã hội tại một thành phố trung tâm nơi có nhiều biến đổi xã hội
khác với nông thôn và ở các địa phương khác. Luận văn nghiên cứu về hoạt
động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ
thực tiễn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ thực trạng hoạt
động giám sát, phản biện xã hội, qua đó thấy được những khó khăn và hạn
chế cũng như chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát,

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Quận và 14 phường
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài:
- Qua nghiên cứu hiểu rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận trong hệ thống chính trị trong việc thực
hiện chức năng phản biện xã hội ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
- Nghiên cứu qua đó thấy được và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Ủy ban
Mặt trận tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Qua tìm hiểu về thực trạng từ đó đề xuất khoa học, giải pháp nhằm
xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh,
qua đó góp phần phát huy thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Quận 3 trong
thực tế hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu để làm rõ các cơ sở lý luật về giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
6


Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và công tác giám
sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3, Thành
Phố Hồ Chí Minh và đặc biệt công tác giám sát, phản biện xã hội tác động
trong công tác quản lý nhà nước.
Ngoài ra luận văn phân tích các yếu tố ảnh hưởng và tác động đến hoạt
động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận
3, Thành phố Hồ Chí Minh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các cơ sở lý luận về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội từ thực tiễn
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh
- Nhóm cán bộ công chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận và Phường
trên địa bàn Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Luận văn tìm hiểu các văn bản liên quan đến chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước về giám sát,
phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3 ,Thành Phố
Hồ Chí Minh; tìm hiểu thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3 ,Thành Phố Hồ Chí Minh;Yếu tố
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3,Thành Phố Hồ Chí Minh; bao gồm nhóm
yếu tố cá nhân, tổ chức, văn bản pháp quy và các ảnh hưởng của công tác
giám sát và phản biện trong công tác quản lý hành chính
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu này thực hiện tại 14 phường trên địa
bàn Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh; trong đó tập trung khảo sát ý kiến đánh
7


giá của nhóm cán bộ đang công tác tại 14 Phường của Quận và 63 ban công
tác mặt trận tại khu phố
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu các hoạt động giám sát, phản
biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3 từ giai đoạn đầu
năm 2015 đến tháng 12 năm 2018
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng các quan điểm chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đoàn thể chính trị- xã hội trong việc giám sát và phản biện xã hội,về nhà nước
và pháp luật, sức mạnh của nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa,
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu, đánh giá tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp
như: tổng hợp, thống kê, phân tích, nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực
tiễn của đề tài, làm cơ sở đề xuất kiến nghị, giải pháp để giải quyết những vấn
đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Tổng quan tình hình đóng góp về mặt lý thuyết của luận văn là sự vận
dụng lý thuyết trong thực tiễn cụ thể một cách linh hoạt và phù hợp.Bên cạnh
đó, nghiên cứu cũng góp phần bổ sung những ý tưởng mới làm cơ sở lý luận
cho việc nghiên cứu về giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam Quận 3 nói riêng, Thành Phố Hồ Chí Minh nói chung.
Luận văn sẽ đánh giá khách quan hơn về hiệu quả hoạt động của hoạt
động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận
3, Thành Phố Hồ Chí Minh
8


Qua nghiên cứu của đề tài giúp cho Mặt trận Thành Phố, Quận ủy, Ủy
ban nhân dân và chính quyền các cấp có một cái nhìn khách quan hơn, thực tế
hơn về hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh. Các kết quả nghiên cứu có thể
được sử dụng để điều chỉnh và xây dựng các chính sách phù hợp nhằm nâng
cao giải pháp chất lượng và hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3 nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói
chung.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm : các nội dung như phần mở đầu, nội dung; kết luận;
Danh mục tài liệu tham khảo; Phụ lục. Trong đó, phần nội dung chính gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
tổ quốc
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát, phản biện của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3, Thành Phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường giám sát và phản
biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận 3, Thành Phố Hồ
Chí Minh

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
1.1.

Khái niệm giám sát và phản biện

1.1.1 Khái niệm giám sát
Theo từ điển Tiếng Việt năm 1995 của Viện ngôn ngữ học đã nêu
khái niệm giám sát “là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những
điều quy định không”
Từ điển Quản lý xã hội “Giám sát là kiểm tra; theo dõi nhằm mục đích
kiểm tra chấp hành pháp luật, nghị quyết, quyết định quản lý…”
Từ điển Luật học định nghĩa rằng “Giám sát là sự theo dõi, quan sát
hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động
bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu

sự trách nhiệm đi đúng quỹ đạo, qui chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã
xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh”
Mặc dù các định nghĩa trên là không đồng nhất, tuy nhiên có thể nhận
thấy một điểm chung đó là, các tác giả đều cho rằng giám sát là theo dõi,
kiểm tra việc thực hiện một công việc nào đó trong cuộc sống hoặc một
nhiệm vụ nào đó của cơ quan Nhà nước và thông qua giám sát chủ thể có
quyền kiểm tra tới các đối tượng khi thực hiện hoạt động. Trong lĩnh vực luật
pháp thì giám sát là hoạt động của một chủ thể có thẩm quyền tác động đến
các đối tượng chịu sự giám sát để đảm bảo cho hoạt động của những đối
tượng đó phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Thông qua các quan niệm trên, có thể thấy giám sát
có những đặc trưng sau:
Thứ nhất: giám sát là hành vi của chủ thể có thẩm quyền thông các hoạt
động theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá hành vi của đối tượng giám sát.
10


Thứ hai, mục đích của giám sát là xem xét, đánh giá việc làm, hoạt
động của đối tượng giám sát có thực hiện đúng những quy định đã đặt ra hay
không, đồng thời qua đó phát hiện kịp thời những hành vi không đúng quy
định của đối tượng giám sát,để kịp thời có những biện pháp xử lý nhằm khắc
phục sai sót đó.
Thứ ba sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tuợng bị giám
sát có mối quan hệ hữu cơ với nhau và gắn quyền và trách nhiệm của mỗi
bên. Trong lĩnh vực quản lý hành chính quan hệ giám sát là quan hệ pháp lý vì
được pháp luật quy định. Mục đích của chủ thể giám sát đối với đối tƣợng
giám sát cùng huớng tới là trạng thái hoạt động bình thường, thông suốt, đúng
pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ thể giám sát phải khách
quan độc lập với đối tượng giám sát.
Giám sát của MTTQ Việt Nam

“ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân;
tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ,
tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội;tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” (Điều 9 Hiến pháp 2013)
Hoạt động giám sát là một hoạt động quan trọng của MTTQ Việt nam,
được ghi nhận trong Hiến Pháp 2013
MTTQ Việt Nam cùng với Đảng, Nhà nước là 3 yếu tố cấu thành hệ
thống chính trị, có vai trò nòng cốt của xã hội dân sự, đại diện cho lợi ích của
nhân dân sẽ tao ra yếu tố “kiềm chế” thay cho cơ chế “đối trọng” trong hệ
thống chính trị .Thực hiện vai trò của yếu tố “ kiềm chế” nhằm kiểm soát
quyền lực, tránh xu hướng lạm quyền, vi phạm nền dân chủ, đòi hỏi MTTQ
phải thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình.
11


Từ những đánh giá trên ta có thể rút ra định nghĩa về giám sát của
MTTQ như sau : “ Giám sát của MTTQ Việt Nam là hoạt động của Mặt trận
theo dõi, quan sát, xem xét tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động của cơ quan
nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước đồng thời kiến nghị, yêu cầu, đề xuất
cách giải quyết, xứ lý những vấn đề phát sinh với cơ quan Nhà nước hoặc
những vấn đề có liên quan”
Giám sát của MTTQ Việt Nam được hiểu là "giám sát xã hội", không
mang tính quyền lực Nhà nước, là giám sát mang tính nhân dân, giám sát này
chỉ dừng lại ở mức "theo dõi, phát hiện, kiến nghị".Như vậy, khi nói đến giám
sát của Mặt trận tức là đã bao gồm quyền, trách nhiệm giám sát của các tổ
chức thành viên. MTTQ Việt Nam hiện có 46 tổ chức thành viên, trong đó
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là hạt nhân lãnh đạo. Khi
thực hiện vai trò giám sát của mình, MTTQ nói chung và các tổ chức thành

viên nói riêng tuân theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia
của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất phát từ yêu
cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không
chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc
giám sát.(Điều 25 Luật MTTQ 2015).
Giám sát của MTTQ Việt Nam nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Ngoài ra, chức năng giám sát của
Mặt trận còn hỗ trợ cho công tác giám sát, thanh tra của Nhà nước, kiểm tra
của Đảng.
Giám sát việc tuân thủ và tổ chức thực hiện các văn bản của cơ quan
quyền lực nhà nuớc cùng cấp, cấp trên cũng như của cơ quan hành chính có
thẩm quyền; giám sát đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tự do và lợi
ích chính đáng của công dân được pháp luật bảo vệ; giám sát đội ngũ cán bộ,
công chức thực thi trách nhiệm công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước;
12


giám sát hiệu quả thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, việc sử
dụng các nguồn lực vật chất, tài chính, lao động và các nguồn lực khác trong
tổ chức lao động, sử dụng các thành tựu công nghệ mới…
Trong hoạt động thường ngày, MTTQ động viên nhân dân thực hiện
quyền giám sát, tổng hợp ý kiến của nhân dân thông qua việc tiếp xúc thường
xuyên để từ đó kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.2. Khái niệm phản biện
Theo cách hiểu thông thường, phản biện là sự tranh luận với người đã
có quan điểm, ý tưởng nào đó để làm rõ các vấn đề phải trái, đúng sai. Trong
cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, “phản biện” được hiểu là việc “ đánh giá chất
lượng….”
Về phương diện ngữ nghĩa, phản là phê phán cái đã có, biện là có lập
luận và phản biện và tranh luận ngược lại. Như vậy, phản biện là tranh luận

với những ý kiến có trước bằng lập luận theo chiều ngược lại. Do đó phản
biện có giá trị phát hiện sai trái và phê phán những sai trái đó một cách có lập
luận
Phản biện là một hoạt động không chỉ diễn ra trong nghiên cứu khoa
học mà còn là một trong các hoạt động không thể thiếu của đời sống xã
hội.Chính vì vậy, trong bất cứ lĩnh vực nào mà con người tham gia hoạt động
đều có thể thấy sự xuất hiện của hoạt động này.Tuy nhiên, đối với từng lĩnh
vực khác nhau, hoạt động phản biện cũng có những sự khác biệt nhất định cả
về mặt nội dung, hình thức và chủ thể phản biện. Đối với những vấn đề mang
tính chất chung, liên quan đến lợi ích của toàn xã hội thì phản biện lại được
thực hiện trên một phạm vi rộng với mức độ cao hơn, sâu sắc và quan trọng
hơn.
Theo quan điểm của các nhà luật học phản biện xã hội là chính kiến của
một chủ thể cụ thể thông qua nhận xét, đánh giá góp ý xác đáng đối với chính
13


sách, pháp luật của Nhà nước. Phản biện xã hội về mặt nguyên tắc là sự phản
sự phê phán, phê bình của xã hội dựa trên những căn cứ khoa học đối với
chính sách, pháp luật của nhà nước để Nhà nước xem xét, nghiên cứu, tiếp thu
có chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong các phản biện đó rồi sửa đổi hay bổ
sung, thậm chí hủy bỏ dự thảo chính sách, pháp luật hoặc chính sách, pháp
luật đang thi hành.
Khi nghiên cứu về “phản biện xã hội”, có thể thấy khái niệm này có
một nội hàm tương đối rộng, vì vậy phải tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau.Nghiên cứu về phản biện của MTTQVN có thể thấy đây cũng là một
dạng phản biện xã hội, cụ thể là phương diện hoạt động phản biện dặc thù
khác với các dạng phản biện xã hội khác. Những vấn đề cụ thể được đưa ra
phản biện
Ta có thể thấy những chủ trương, chính sách của Đảng, những chương

trình, dự án, pháp luật của Nhà nước đang trong quá trình xây dựng dự thảo.
Những ý kiến phản biện này được đưa ra dựa trên những cơ sở thực tế, lý luận
nhất định, mang tính xây dựng, xuất phát từ cách nhìn nhận thực tế khách
quan chứ không đơn thuần chỉ là những phản biện mang tính chủ quan.Đây
cũng chính là một trong những điểm để chúng ta phân biệt khái niệm PBXH
với một số khái niệm khác mà trong nội hàm của nó có một số điểm tương
đồng với khái niệm PBXH như phản biện khoa học, phản đối, dư luận xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu PBXH theo nghĩa rộng là sự phản
biện của xã hội (sự phản biện mang tính xã hội, do nhiều chủ thể thực hiện)
Phản biện xã hội là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội
đối với những chủ trương, chính sách, đề án, dự án xã hội liên quan đến
quyền, lợi ích của thành viên trong xã hội.
Từ những đánh giá trên ta có thể hiểu “Phản biện xã hội là sự phản ánh
chính kiến của xã hội đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật do cơ
14


quan có thẫm quyền đề ra, thể hiện qua những nhận xét, đánh giá phân tích có
căn cứ và có sức thuyết phục, được thực hiện bới các chủ thể phản biện nhằm
truyền tải nguyện vọng của xã hội đến cơ quan có thẫm quyền, có tác dụng
thúc đẩy nền dân chủ xã hội và cũng cố thể chế xã hội theo một trình tự nhất
định” phù hợp, tính đúng đắn.
Đảng, Nhà nước cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh luôn xác định dân là
gốc. Vì vậy các chủ trương, chính sách trong khi xây dựng trước đây đều hỏi
ý kiến của nhân dân đây là hình thức nắm bắt thông tin và phản hồi từ nhân
dân qua đó xây dựng chủ trương chính sách cho phù hợp hơn. Ngày nay phản
biện tranh luận là một cách khoa học để đi đến chân lý khách quan và khác
với trưng cầu dân ý , trưng cầu dân ý là phải hỏi dân, phản biện xã hội hoàn
toàn khác về bản chất. Phản biện xã hội không phải là nhân dân trả lời mà
nhân dân nói lên tiếng nói của mình, tiếng nói ấy được chuẩn bị bằng trí tuệ

của nhân dân và dự đoán tác động khi tiến hành chính sách nào đó vào xã hội
Theo tác giả Phan Hòa thì “PBXH là sự nhận xét, đánh giá, nêu chính
kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án... đang kỳ dự thảo”
Theo tác giả Phạm Quang Tú, Đặng Hoàng Giang “PBXH: Khái niệm, chức
năng và điều kiện hình thành” viết trên Tạp chí Tia Sáng của Bộ khoa học và
Công nghệ đăng ngày 20/3/2012 thì: “PBXH là sự phản tư của các lực lượng
xã hội đối với những kiến tạo chính sách, thể chế... trực tiếp liên quan đến
quyền lợi của các thành viên trong cộng đồng, PBXH đã trở thành một cơ chế
động năng cho quá trình vận động, đổi mới của xã hội” [9]. Đánh giá cao vai
trò của PBXH, văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng ghi rõ: “Đảng tôn trọng
tính tự chủ, ủng hộ hoạt động tự nguyện, tích cực sáng tạo và chân thành lắng
nghe ý kiến của mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính
sách, tạo điều kiện để mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu
15


quả, thực hiện vai trò giám sát và PBXH” [4, tr. 87]. Quy chế giám sát, PBXH
của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội của Bộ Chính trị
(Khóa XI) nêu rõ: PBXH là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị
đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước [2, tr. 2].
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là sự phản biện có tổ
chức mang tính xã hội, có quy mô và lực lượng rộng rãi, mà đại diện là Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thông qua việc nhận
xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị của lực lượng xã hội đối với dự thảo,
chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, đề án, dự án xã hội liên
quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền công dân, quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt
trận, an sinh, phúc lợi xã hội.

Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bảo đảm
sự tham gia của Nhân dân, của các thành viên Mặt trận, là tiếng nói phản biện
của Nhân dân, của xã hội thông qua vai trò đại diện của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; trong đó tôn trọng các ý kiến khác nhau nhưng không trái với quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc. Việc
phát huy sự tham gia của Nhân dân chú trọng vận động được sự tham gia của
những người có uy tín, có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng ở địa phương
Phản biện xã hội là việc Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đánh giá, kiến
nghị đối với dự thảo chính sách, pháp luật của Nhà nước
Tuy nhiên, nội dung phản biện chỉ là những vấn đề trọng điểm được đề
cập trong các văn bản, dự án thuộc đối tượng phản biện không có nghĩa là
phản biện trên tất cả các vấn đề, các lĩnh vực, quyết sách của Nhà nước, hay
nói cách khác không phải mọi nội dung của đối tượng phản biện đều phải
được phản biện.
16


- Khách thể của phản biện xã hội:
Khách thể của phản biện xã hội là các cấp lãnh đạo, quản lý của Đảng
và Nhà nước ở trung ương và địa phương, là những cá nhân hoặc tổ chức có
thẩm quyền đưa ra đối tượng phản biện, khách thể phản biện có trách nhiệm
đề nghị các tổ chức, cá nhân thực hiện phản biện
- Mục đích và giá trị của phản biện xã hội:
Hoạt động phản biện xã hội nhằm cung cấp cho các cơ quan Đảng, Nhà
nước những căn cứ khách quan, khoa học để xây dựng đường lối, nghị quyết,
chính sách, pháp luật phù hợp.Phản biện xã hội góp phần phát huy dân chủ
trong hoạt động của hệ thống chính trị, huy động tối đa nguồn lực trí tuệ của
đất nước.
- Hiệu quả của phản biện xã hội:
Nhằm giúp Đảng và Nhà nước tiếp thu ý kiến của quần chúng nhân

dân, thông qua tổ chức đó là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội để Đảng và Nhà nước điều chỉnh, sửa đổi hoặc bãi bỏ những chương
trình, đề án, chính sách, chủ trương hay nghị quyết để phù hợp với những
thay đổi mới, điều kiện mới.Nói cách khác, điều quan trọng nhất mà phản
biện xã hội hướng tới là đề xuất, tư vấn cho cơ quan có thẩm quyền quyết
định lựa chọn một chủ trương chính sách một cách hợp pháp và hợp lý tối đa.
Mở rộng hoạt động PBXH là một chủ trương đúng đắn, trong quá trình
tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
cũng như triển khai các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án của Nhà
nước, MTTQ Việt Nam vẫn tiếp tục giám sát, phản biện qua đó nhằm kịp thời
phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ
sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới,
những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
17


Những chính sách dù đúng đắn nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện
do bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, dẫn tới sự sai lệch so với mục tiêu
ban đầu, như thiếu thống nhất giữa luật pháp và luật tục, giữa lợi ích toàn thể
với lợi ích cục bộ…Chính trong quá trình tổ chức thực hiện mới bộc lộ hết
chỗ mạnh, chỗ yếu của chủ trương, chính sách, pháp luật; chỗ mạnh, chỗ yếu
của những người lãnh đạo và quản lí.Vì vậy, phản biện với Nhà nước trong
khâu thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoàn thiện chủ trương,
chính sách và pháp luật.
Phản biện xã hội được thực hiện với nhiều cấp độ khác nhau: kiến nghị,
đưa ra ý kiến, góp ý kiến.nhận xét, bình luận.
1.2. Khái niệm giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
1.2.1. Khái niệm giám sát của MTTQ Việt Nam trong hoạt động quản lý

hành chính nhà nước.
Pháp luật quy định phạm vi giám sát của MTTQ tương đối rộng, Theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật, phạm vi đối tượng chịu sự giám sát là
toàn thể “Các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở; Cán bộ, đảng viên,
đại biểu dân cử, công chức,viên chức nhà nước”, trong đó có cơ quan hành
chính nhà nước và cán bộ, công chức hoạt động trong cơ quan đó. Ở đây
trọng tâm chỉ nghiên cứu tới giám sát của MT đối với cơ quan hành chính nhà
nước. Giám sát của MTTQ là hoạt động giám sát toàn diện. Đối tượng giám
sát là các cơ quan hành chính và hoạt động thực hiện nhiệm vụ, công vụ của
cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính. Nhà nước phải tạo điều kiện để
MTTQ giám sát hoạt động của mình.
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với hoạt động quản lý
hành chính nhà nước là hoạt động của Mặt trận Tổ quốc theo dõi, quan sát,
xem xét tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà
18


nƣớc, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước trong việc chấp hành, thực
hiện pháp luật trong quản lý xã hội đồng thời kiến nghị giải quyết xử lý
những vấn đề nảy sinh có liên quan
Từ định nghĩa trên, có thể hiểu giám sát của MTTQ Việt Nam trong
quản lý hành chính nhà nước có những đặc trưng sau:
Tuy nhiên, mỗi tổ chức thành viên của Mặt trận đều là những tổ chức
độc lập được tổ chức và hoạt động độc lập theo điều lệ của tổ chức mình, do
đó các tổ chức thành viên của Mặt trận ngoài việc thực hiện quyền giám sát
chung của mình thông qua Mặt trận. Ngoài ra các tổ chức thành viên của
Theo quy định tại Điều 26 Luật MTTQ Việt Nam 2015 thì đối tượng
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan hành chính nhà nước, cán
bộ, công chức, trong cơ quan hành chính.
 Cơ quan hành chính nhà nước

Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà
nước.Có nghĩa là các cơ quan này thông qua hoạt động của mình đƣa pháp
luật đến cơ quan, tổ chức, cá nhân và giải quyết các công việc thuộc thẩm
quyền.Nhờ đó mà pháp luật được triển khai thực hiện trong thực tế.Để các
hoạt động đó thực sự có hiệu quả cao thì ngoài việc tự kiểm soát hoạt động
của mình cần có sự giám sát từ bên ngoài của MTTQ Việt Nam. Sự giám sát
đó là giám sát trên các mảng hoạt động về ban hành các văn bản pháp quy, tổ
chức thực hiện pháp luật, phát hiện xử lý vi phạm hành chính
 Công chức trong cơ quan quản lý nhà nước
Trong các cơ quan hành chính nhà nước là đội ngũ chủ yếu thực hiện
công vụ, nhiệm vụ và nhờ các hoạt động này mà chức năng quản lý hành
chính nhà nước được triển khai trên thực tế. Trong quá trình tổ chức thực hiện
pháp luật không tránh khỏi có những hành vi vi phạm pháp luật ảnh hƣởng
đến quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. do vậy, giám sát thƣờng
19


×