Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Luận văn kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo luật tố tụng hành chính 2015 ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.84 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TÂM

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 2015 Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội – 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TÂM

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 2015 Ở VIỆT NAM

Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ MINH HÀ

Hà Nội – 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội Việt Nam
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Đức Tâm


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH ........................ 6
1.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hành chính ....................................................................................... 6
1.2.Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính ......................................................................................... 14
1.3.Đối tượng và phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính ......................................................................................... 19
1.4.Những yêu cầu đặt ra đối với hoạt động kiểm việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hành chính ........................................................................... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT THEO LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH NĂM 2015 Ở VIỆT
NAM ............................................................................................................... 28

2.1.Thực trạng quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo Luật tố
tụng hành chính năm 2015 ở Việt Nam .................................................... 28
2.2.Thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hành
chính của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam ........................................ 49
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI .. 66
3.1.Quan điểm bảo đảm hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hành chính ở Việt Nam ................................................ 66
3.2.Giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hành chính ở Việt Nam........................................ 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

1

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

2


KSND

Kiểm sát nhân dân

3

KSV

Kiểm sát viên

4

LTTHC

Luật tố tụng hành chính

5

TAND

Tòa án nhân dân

6

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

7


TTHC

Tố tụng hành chính

8

VAHC

VAHC

9

VKS

Viện kiểm sát

10

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

11

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Kết quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính hàng năm
(từ 01/12/2015 – 30/11/2018)…………………………………………...…………50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là một trong những nội dung
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đã được quy định tại
Điều 107 Hiến pháp 2013 và được xác định là một trong những nguyên tắc của
TTHC nhằm đảm bảo việc giải quyết VAHC nghiêm minh, kịp thời, đúng căn cứ
pháp luật.
Để thực hiện hiệu quả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHC, yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến chất lượng của công tác này là cần
có cơ chế pháp lý với những quy định khoa học, đầy đủ, rõ ràng nhằm đảm bảo
pháp luật được áp dụng thống nhất trong quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHC. LTTHC năm 2015 là đạo luật tiến bộ và hoàn thiện so với các văn bản
pháp luật TTHC trước đây; trong đó sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới trong đó
có quy định về thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC
của VKSND, góp phần đảm bảo chất lượng giải quyết VAHC nói chung, kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết VAHC nói riêng. Tuy nhiên, ngoài
những điểm tiến bộ đó, trong những năm qua, việc áp dụng quy định của LTTHC
2015 vào hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC của VKSND
cũng phát sinh những khó khăn, vướng mắc nhất định, ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng công tác của VKSND, một trong những nguyên nhân của thực trạng đó xuất
phát từ quy định của LTTHC năm 2015 chưa đầy đủ, rõ ràng, dẫn đến nhận thức
không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và giữa những người tiến hành
tố tụng. Vì vậy, nhằm làm rõ nội dung của pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTHC, đánh giá thực trạng hoạt động của VKSND khi kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong giải quyết VAHC, từ đó đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm
góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng LTTHC năm 2015 trong việc

thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC của VKSND, thì
việc nghiên cứu nội dung “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo Luật tố tụng hành
chính năm 2015 ở Việt Nam” là rất cấp thiết và ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là một khâu công tác thực
hiện chức năng của VKSND và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp cũng như
các văn bản pháp luật TTHC của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Sự tham gia
của VKSND trong TTHC có vai trò quan trọng đối với việc đảm bảo hiệu quả,
chất lượng giải quyết VAHC nói chung, từ đó góp phần bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Vì vậy, cho đến nay đã có nhiều học giả, nhà nghiên
cứu và những người quan tâm khác đang công tác trong và ngoài ngành KSND
nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp về hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHC. Đã có một số công trình nghiên cứu và các bài viết phân tích về hoạt
động của VKSND trong TTHC như: Nguyễn Hoàng Anh (2010), “Vai trò của
VKS trong VAHC và vấn đề độc lập xét xử”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn
phòng Quốc hội; Trần Đình Khánh (2010), Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong hoạt động giải quyết các VAHC của TAND, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ; Nguyễn Thị Thế (2016), Hoạt động kiểm
sát việc giải quyết VAHC liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, Đề
tài khoa học cấp trường; Trần Đình Khánh, Vũ Thị Hồng Vân (2010), “Cần quy
định rõ vị trí, vai trò của VKSND trong dự thảo Luật Tố tụng hành chính”, Tạp chí
kiểm sát, số 07; Lê Song Lê (2013), “Đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
công tác kiểm sát việc giải quyết VAHC”, Tạp chí kiểm sát, số 16; Vương Văn
Bép (2015), “Kiến nghị hoàn thiện một số quy định của pháp luật tố tụng hành

chính đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí kiểm sát, số tân xuân; Nguyễn
Thị Thủy Khiêm (2015), “Nhiệm vụ của công tác kiểm sát việc giải quyết VAHC
và kiểm sát thi hành án hành chính trong thời gian tới”, Tạp chí kiểm sát, số 02; Lê
Thị Phương Thanh (2016), Hoạt động kiểm sát giải quyết VAHC của KSV - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp trường; Lê Việt Sơn (2017),
“Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKS, KSV và Kiểm tra viên theo LTTHC
2015”, Tạp chí kiểm sát, số 05… mỗi công trình trên đã đưa ra những luận điểm,

2


đánh giá và phân tích trên cơ sở tiếp cận từng khía cạnh cụ thể của hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC, có giá trị tham khảo quan trọng trong quá
trình thực hiện việc nghiên cứu luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách bao quát, tổng thể nội hàm các nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND khi thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC
theo LTTHC năm 2015 cũng như đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng quy
định đó trong quá trình kiểm sát việc giải quyết VAHC. Vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo Luật tố tụng hành chính năm 2015
ở Việt Nam” là vấn đề có tính mới và thiết thực trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ nhất về kiểm sát
việc giải quyết VAHC; nghiên cứu và đánh giá thực trạng vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC theo pháp luật TTHC
hiện hành; luận văn có mục đích là đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng những quy định về kiểm sát tuân theo pháp luật trong LTTHC năm
2015, cũng như những giải pháp bảo đảm chất lượng hoạt động của VKSND khi
kiểm sát giải quyết các VAHC.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, luận văn cần thực hiện một số
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nêu và làm rõ các khái niệm liên quan đến hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHC.
Thứ hai, làm rõ vai trò của VKSND trong TTHC.
Thứ ba, phân tích làm rõ nội dung của hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHC của VKSND theo quy định của LTTHC năm 2015 và các văn
bản pháp luật liên quan.
Thứ tư, khảo sát và đánh giá thực trạng của hoạt động kiểm sát việc giải quyết
VAHC của VKSND, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng hoạt
động của VKSND khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC, góp phần bảo

3


vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong quan hệ TTHC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm sát việc giải quyết
VAHC của VKSND.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những quy định của
pháp luật và của ngành KSND về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết
VAHC của VKSND trong 03 giai đoạn tố tụng: sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Những số liệu thực tế về hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHC được luận văn sử dụng để minh chứng và đánh giá được khảo sát trong phạm
vi cả nước, từ khi LTTHC năm 2015 có hiệu lực đến tháng 12/2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và nhà nước về nhà nước
và pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền
và cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê để làm rõ các nội dung được
nghiên cứu trong đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần xây dựng những kiến thức về mặt lý
luận, lập pháp và thực tiễn về kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHC.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp vào hoạt động lập pháp
những kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện LTTHC năm 2015 cũng như ban

4


hành các văn bản hướng dẫn thi hành để việc áp dụng trên thực tế được hiệu quả
và thống nhất.
Đặc biệt, kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với cán bộ, công
chức công tác trong ngành KSND nói chung, KSV, Kiểm tra viên thực hiện hoạt
động kiểm sát việc giải quyết VAHC nói riêng; đồng thời, kết quả nghiên cứu của
đề tài cũng là nguồn tài liệu bổ ích cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu
trong hoạt động giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo của ngành kiểm sát.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hành chính;

Chương 2. Thực trạng kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo Luật tố tụng
hành chính năm 2015 ở Việt Nam;
Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính ở Việt Nam trong thời gian tới.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hành chính
1.1.1. Cơ sở lý luận
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực
nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước
thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và
phát triển của xã hội. Khác với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực lập
pháp, tư pháp, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành
pháp, tức là hoạt động chấp hành và điều hành. Chủ thể quản lý hành chính nhà
nước là các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính nhà nước trong hệ thống hành
chính từ Trung ương đến cơ sở. Như vậy, quản lý hành chính nhà nước có thể hiểu
là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân do
các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở thực
hiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội,
duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân. Dó đó, hoạt
động quản lý hành chính nhà nước tác động trực tiếp đến mọi hoạt động của đời
sống con người, là khâu có tính chất quyết định trong toàn bộ quá trình tác động

của pháp luật vào đời sống xã hội; trong quá trình “tác động” đó, không thể tránh
khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên (chủ thể quản lý và chủ thể bị
quản lý) trong quan hệ quản lý đó. Khi có tranh chấp, chủ thể bị quản lý có thể lựa
chọn các biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình, trường hợp
chủ thể đó thực hiện quyền khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, khi đó sẽ
phát sinh quy trình tố tụng mà trong đó, Tòa án là cơ quan nhà nước có trách
nhiệm giải quyết vụ án hay nói cách khác là phát sinh thủ tục TTHC để giải quyết
một vụ án cụ thể với đương sự và những người tham gia tố tụng… Đối với Việt

6


Nam, sự tham gia của VKSND trong TTHC được pháp luật ghi nhận và tồn tại
song song với hoạt động xét xử của Tòa án.
1.1.1.1. Vị trí của VKSND trong bộ máy nhà nước
Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước dân chủ nhân dân
Việt Nam tại Điều 105 quy định VKSND là cơ quan nhà nước độc lập chịu trách
nhiệm trước Quốc hội, tổ chức và hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo
Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND năm 1960. VKSND là cơ quan trong cơ cấu
tổ chức tư pháp nhà nước, thực hiện một chức năng mới của nhà nước là chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Sự ra đời của VKSND xuất phát từ bản
chất của nhà nước và nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước Việt Nam – quyền lực nhà nước là thống nhất, tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ
nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp của nhân
dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và
sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất đất nước được tiến hành thuận lợi.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, tuy có những thay đổi về nhiệm vụ,
quyền hạn qua các thời kỳ lịch sử, nhưng cho đến nay, vị trí, chức năng của
VKSND cơ bản không thay đổi, luôn được khẳng định là một cơ quan độc lập

trong bộ máy nhà nước, có vị trí Hiến định, thực hiện chức năng công tố và chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn vị trí, chức năng của
VKSND trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cùng với việc tiếp
tục khẳng định VKSND là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung các quy định mới về VKSND: một thiết chế bảo
vệ Hiến pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ nền dân chủ trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
Cùng với việc bổ sung làm rõ hơn vị trí của VKSND trong bộ máy nhà
nước (đặc biệt tiếp tục khẳng định nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong

7


ngành”), Hiến pháp năm 2013 cũng có những quy định mới bổ sung về nguyên tắc
“khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, KSV tuân theo pháp
luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND” [19, tr.27] nhằm nâng cao tính
độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định, hành vi của KSV
khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Ngoài ra, Hiến pháp
năm 2013 còn bổ sung quy định về tổ chức hệ thống VKSND và chế định Ủy ban
kiểm sát trong Hiến pháp.
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 điều chỉnh quy định về cơ chế giám sát của
cơ quan quyền lực nhà nước đối với VKSND. Bên cạnh việc ghi nhận VKSND là
một thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc khẳng định chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp, Hiến pháp năm 2013 quy định tổ chức và hoạt động
của VKSND phải chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước, Hội đồng nhân dân… Hiến pháp năm 2013 giao Quốc hội giám sát
hoạt động của VKSND tối cao và chế độ giám sát của Hội đồng nhân dân đối với

các VKSND cấp dưới.
Với những ghi nhận trên, VKSND được khẳng định là cơ quan độc lập
trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.1.1.2. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính
Ngày 15/7/1960, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã thông qua Luật Tổ chức VKSND quy định cụ thể chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND, trong đó một trong những nội dung thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của VKSND: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử
của TAND và trong việc chấp hành các bản án [18, tr. 3]. Thời kỳ này, VKSND
chưa kiểm sát việc xét xử VAHC, hoạt động của VKSND tập trung vào một số lĩnh
vực như: công tác kiểm sát chung, công tác kiểm sát hình sự, công tác kiểm sát giam
giữ, công tác kiểm sát dân sự và công tác khiếu tố; trong công tác kiểm sát xét xử dân

8


sự, VKS đã tham gia các phiên tòa giải quyết vụ án dân sự, thực hiện quyền kháng
nghị và khởi tố 21 vụ án dân sự trong năm 1962 và 18 vụ án dân sự trong năm 1963
[39, tr. 162]. Có thể thấy, công tác kiểm sát xét xử dân sự, đặc biệt là hoạt động tham
gia các phiên tòa, VKS đã hỗ trợ tốt cho Tòa án trong việc xét xử, đảm bảo việc giải
quyết vụ án dân sự hiệu quả, tránh những sai lầm trong hoạt động tố tụng.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, VKSND ngày càng được kiện toàn
tổ chức và hoạt động. Hiến pháp năm 1980 quy định chức năng, nhiệm vụ, nguyên
tắc tổ chức hoạt động của VKSND: kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các Bộ,
các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương,
tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nước và công dân…

Luật Tổ chức VKSND năm 1981 cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1980,
quy định cụ thể nội dung công tác của ngành KSND, trong đó “kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc xét xử của TAND” là một trong những nội dung công tác
quan trọng của ngành KSND. Đối với công tác kiểm sát xét xử, Luật Tổ chức
VKSND năm 1981 bổ sung một số quyền cho VKS: tham gia các cuộc họp trù bị
phiên tòa của TAND cùng cấp; yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án để thực hiện
công tác kiểm sát xét xử; yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang khởi tố những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của nhà
nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của công dân [39, tr. 322].
Trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước, của ngành KSND, vấn
đề đổi mới, tổ chức và hoạt động của VKSND luôn được chú trọng nhằm đáp ứng
với yêu cầu của công cuộc đổi mới. Luật Tổ chức VKSND năm 1992 cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp năm 1992 về VKSND, trong đó tiếp tục khẳng định chức
năng của VKS như Hiến pháp năm 1992, đồng thời quy định nhiệm vụ cụ thể của
VKS khi thực hiện chức năng của mình và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của TAND là một trong những nhiệm vụ quan trọng khi thực
hiện chức năng của VKS.
Nhằm tiếp tục đổi mới chính trị, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 nhấn mạnh: cần phải đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động tư pháp. Quan điểm trên của Đại hội là bước phát triển mới

9


trong tư duy về xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, là cơ sở để ngành kiểm sát tiếp tục củng cố, tăng cường bộ máy, tổ
chức, cán bộ và hoạt động nhằm đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới.
Ngày 02/5/1996, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa IX đã thông qua Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các VAHC, theo đó ngành KSND được giao nhiệm vụ
kiểm sát việc giải quyết VAHC của TAND, đảm bảo việc giải quyết VAHC kịp

thời, đúng căn cứ pháp luật. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
chỉ rõ: Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp,
nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác
điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án không để xảy ra những trường
hợp oan sai, VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992
đã cụ thể hóa quan điểm, chính sách của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của
VKSND. Theo đó, tại Điều 137 Hiến pháp đã quy định: VKSND thực hiện quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy, VKSND vẫn thực hiện hai chức
năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhưng phạm vi
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật chỉ trong phạm vi đối với
hoạt động tư pháp mà không thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các
lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội như trước đây. Chức năng thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tiếp tục được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013 và được thể chế hóa trong LTTHC năm 2015, theo đó, kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là một trong những nội dung thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
Kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHC là một hình thức của hoạt động
kiểm soát quyền lực – theo dõi, kiểm tra việc tuân thủ hiến pháp và pháp luật của
các chủ thể trong quan hệ TTHC. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHC của VKS nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh
và thống nhất trong quá trình giải quyết VAHC. Khi thực hiện kiểm sát việc giải
quyết các VAHC, VKS có quyền áp dụng những biện pháp do pháp luật quy định

10


để kịp thời phát hiện, kiến nghị khắc phục những hành vi vi phạm pháp luật của
Tòa án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án và các cá nhân, cơ quan, tổ

chức trong quá trình giải quyết VAHC.
Theo quy định của pháp luật, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHC được tiến hành song song với quá trình giải quyết VAHC của Tòa án,
từ khi Tòa án thụ lý vụ án, xử lý đơn khởi kiện của đương sự cho đến khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khi bản án quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, VKS có nhiệm vụ kiểm sát bản án quyết định để phát hiện vi phạm (nếu
có) để kiến nghị hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Kiểm soát quyền tư pháp, trong đó có kiểm soát tư pháp hành chính là
nguyên tắc hiến định trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, Hiến pháp năm
2013 khẳng định “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Thực tiễn tổ chức và thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết
vụ án hành chính cho thấy, hoạt động kiểm sát tư pháp hành chính có vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong các hành vi, quyết định của
các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng hành chính. Hoạt động tố tụng hành chính
được giải quyết hiệu quả, nhanh chóng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
được đảm bảo một cách tốt nhất thì cần thiết phải có cơ chế giám sát, kiểm soát từ
bên ngoài của hoạt động tố tụng hành chính, mặc dù trong nội bộ cơ quan Tòa án
có bộ phận thực hiên kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhưng cũng như các cơ quan nhà
nước khác, sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ mang tính chủ quan và hiệu quả đạt được
không thể so sánh với cơ quan giám sát độc lập từ bên ngoài.
Ở Việt Nam, VKSND là cơ quan được Quốc hội giao cho thực hiện chức
năng kiểm tra, kiểm soát từ bên ngoài đối với cơ quan tư pháp nói chung, Tòa án
nói riêng. Từ khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được ban hành
năm 1996 đến nay, VKSND luôn được xác định là cơ quan tiến hành tố tụng hành
chính, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính. Trải qua quá trình hoạt động, kiểm sát hoạt động tư pháp

11



nói chung và kiểm sát tư pháp hành chính nói riêng đã được chứng minh là cơ chế
giám sát tư pháp hữu hiệu. Thông qua công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHC, từ năm 2014 đến năm 2018, VKSND tối cao đã ban hành 58 quyết
định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết VAHC đã có
hiệu lực pháp luật, trong đó có 47 kháng nghị đã được giải quyết, 42 kháng nghị
được Tòa án chấp nhận, đạt 89,3% [51]. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết
VAHC, VKS các cấp đã phát hiện một số vi phạm chủ yếu của Tòa án trong quá
trình giải quyết VAHC như: Gửi thông báo thụ lý, bản án, quyết định chậm; Thụ
lý sai thẩm quyền, xác định sai đối tượng tham gia tố tụng, không thực hiện xác
minh theo đúng thủ tục và theo yêu cầu của đương sự; Vi phạm thời hạn giải quyết
giải quyết vụ án, thời hạn xét xử, thời hạn hoãn phiên tòa; Trả lại đơn khởi kiện
không đúng quy định của pháp luật; Áp dụng không chính xác điều luật khi giải
quyết tranh chấp; Thu thập tài liệu chứng cứ không đầy đủ, khách quan, đánh giá
chứng cứ thiếu khách quan, không xem xét toàn diện vụ án nên quyết định của bản
án chưa chính xác, gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; không
đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, vi phạm trong xác
định tư cách tham gia tố tụng…
VKS các cấp đã ban hành các văn bản kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cá nhân,
cơ quan, tổ chức khắc phục vi phạm, đảm bảo hiệu quả giải quyết VAHC nói
chung. Kết quả công tác của VKS kiểm sát việc giải quyết VAHC góp phần thiết
thực trong việc khắc phục vi phạm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Các kết quả
thực tiễn nêu trên là bằng chứng sinh động chứng minh tính hiệu quả của một cơ
chế giám sát hoạt động xét xử VAHC. Điều này xuất phát từ đặc điểm về tổ chức
và hoạt động của VKSND trong quan hệ với Tòa án; cụ thể như sau:
Một là, về tổ chức, VKS là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy
nhà nước, được giao thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của các cơ
quan tư pháp, nên cơ chế giám sát của VKS có tính độc lập nhất định với đối
tượng được giám sát. Tính độc lập này bảo đảm cho hoạt động giám sát của VKS

khách quan và có tính khả thi;

12


Hai là, về hoạt động, VKS là cơ quan duy nhất trong hệ thống các cơ quan
thực hiện quyền tư pháp được Hiến pháp và pháp luật quy định có thẩm quyền
tham gia vào tất cả các giai đoạn TTHC. Đây là điều kiện quan trọng bảo đảm
cho VKS có khả năng giám sát toàn bộ quá trình tố tụng, toàn bộ quá trình giải
quyết VAHC, là cơ sở quan trọng để phát hiện vi phạm trong hoạt động tư pháp
nói chung và trong hoạt động xét xử VAHC của Tòa án nói riêng;
Ba là, về mức độ và phạm vi giám sát, kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
chung và kiểm sát xét xử VAHC nói riêng của VKS được tiến hành liên tục đối
với các đối tượng bị giám sát. Đây là điều kiện để bảo đảm cho hoạt động giám
sát có hiệu quả cao;
Mặt khác, xét về điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay chưa cho phép
chúng ta áp dụng mô hình Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử độc lập mà
không chịu bất kỳ sự giám sát nào. Bởi lẽ trong điều kiện hiện nay, trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ tư pháp nói chung (trong
đó có thẩm phán và hội thẩm nhân dân) còn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn,
thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề
nghiệp. Nếu chỉ chờ Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử để phát hiện và khắc
phục các vi phạm thì rất khó khăn và không kịp thời, trước hết là do điều kiện về
biên chế cán bộ, Thẩm phán của bộ phận giám đốc việc xét xử không cho phép
có thể nghiên cứu được tất cả các bản án có hiệu lực của các Toà án cấp dưới.
Ngoài ra còn có những lý do khác “cản trở” việc phát hiện vi phạm của Toà án
cấp dưới. Như vậy, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC của
VKS tiến hành trong quá trình giải quyết VAHC cũng như sau khi bản án của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật chính là để hỗ trợ cho chất lượng xét xử; là cơ sở
để Toà án kịp thời xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của việc giải quyết

vụ án. Do đó, hoạt động kiểm sát việc giải quyết VAHC của VKS là cơ chế hữu
hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính của
VKSND khác với chức năng thanh tra, kiểm tra của cơ quan hành pháp và khác
với chức năng giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Theo Hiến pháp năm
2013, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với quyền lập hiến, quyền lập

13


pháp và việc tuân theo Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, đây là quyền
giám sát cao nhất trong hệ thống giám sát thực hiện quyền lực nhà nước. Ngoài
ra, trong tổ chức và hoạt động giám sát của Quốc hội còn có sự giám sát của Ủy
ban thường vụ quốc hội, các ủy ban khác của Quốc hội và đại biểu Quốc hội,
giám sát đối với hoạt động tư pháp của Quốc hội là hoạt động mang tính giám sát
chung, Quốc hội không thể trực tiếp giám sát các hoạt động tư pháp cụ thể của
các cơ quan tư pháp nói chung, Tòa án nhân dân nói riêng như hoạt động kiểm
sát của hệ thống VKSND.
Đối với quyền hành pháp, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ có chức năng
kiểm tra, thanh tra, trước hết thông qua nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và
Luật quy định trong lĩnh vực hành chính, hành pháp và chấp hành. Tuy nhiên, cơ
chế kiểm tra thường xuyên và chuyên nghiệp của Chính phủ là cơ chế thanh tra
của Chính phủ. Nội dung chủ yếu của hoạt động thanh tra chính phủ là kiểm tra
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực thi pháp luật mà hậu quả là kiến
nghị về các biện pháp xử lý cho các cơ quan quản lý hoặc cơ quan tư pháp. Còn
đối với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính của
VKSND khi phát hiện vi phạm, người có thẩm quyền của VKS có quyền kháng
nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, thậm chí có quyền quyết định khởi

tố đối với cá nhân người vi phạm.
Kiểm sát tư pháp hành chính vừa là hoạt động tư pháp vừa là hoạt động
kiểm tra, giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động giải quyết vụ án hành chính của
Tòa án nhân dân nhằm mục tiêu bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được đảm bảo.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính
1.2.1.Khái niệm
Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014
khẳng định: VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

14


Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức VKSND
2014, VKS là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là một
trong những nội dung thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND, đảm bảo việc giải quyết VAHC nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
Để hiểu rõ bản chất của kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHC, trước
tiên cần làm rõ khái niệm tố tụng hành chính. Tố tụng hành chính là hoạt động xét
xử các VAHC theo quy định của LTTHC, do tòa án nhân dân và những ngưới tiến
hành tố tụng của tòa án thực hiện nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; nhằm bảo đảm nguyên
tắc pháp chế XHCN, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là một bộ phận cấu thành của

chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Bởi vậy, cần làm rõ khái niệm,
đối tượng, nội dung và phạm vi kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHC.
Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014 đã đưa ra khái niệm kiểm sát
hoạt động tư pháp: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;
trong việc giải quyết VAHC, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [20, tr. 41].
Có thể thấy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một cơ chế giám sát từ bên ngoài các
hoạt động tư pháp, và ở nước ta chức năng đó thuộc về ngành KSND.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ngành Kiểm sát ở nước ta gắn với quá
trình xây dựng và phát triển nhà nước Việt Nam, dựa trên quan điểm của V.I.Lênin
về nhà nước và Pháp luật. Trong tác phẩm Nguyên tắc song trùng lãnh đạo và vấn
đề pháp chế, V.I.Lênin đã chỉ ra trở ngại lớn nhất đối với việc xây dựng chế độ
pháp trị chính là sự can thiệp của địa phương xuất phát từ động cơ tư lợi hoặc cục
bộ địa phương chủ nghĩa và sự “song trùng” lãnh đạo trong lĩnh vực pháp chế là

15


một sai lầm về mặt nguyên tắc. Theo V.I.Lênin thì phải thành lập hệ thống cơ quan
VKS có quyền và phận sự làm một việc là: Bảo đảm cho pháp chế được hiểu biết
thống nhất và thông suốt trong toàn nước cộng hòa, bất kể những đặc điểm của địa
phương và sự can thiệp của nhà chức trách địa phương.[53, tr. 120]
Từ đó, Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận chế định VKSND, trong đó xác định
vị trí, chức năng và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống
VKSND ở Việt Nam. Theo đó, VKS không chỉ thực hiện chức năng công tố mà còn
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực hoạt động

hành chính, kinh tế, xã hội (còn gọi là kiểm sát chung) và hoạt động tư pháp. VKS
hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Với các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động đặc thù của VKS đã tạo cho VKS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ngay từ khi thành lập, hoạt động của ngành KSND đã tập trung vào các
nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhà nước đã giao. Công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội của VKS đã góp một phần
không nhỏ trong công tác phòng ngừa vi phạm, đấu tranh với các tội phạm. Giúp bộ
máy từ Trung ương đến chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang và công dân tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản cho nhà nước,
quyền lợi hợp pháp của công dân, kiến nghị khắc phục vi phạm đối với hàng nghìn
văn bản quy phạm pháp luật, góp phần củng cố pháp chế trong xây dựng và áp dụng
pháp luật.
Từ năm 2002, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, được thể chế
trong Hiến pháp bổ sung sửa đổi năm 2001, ngành KSND không thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, để
tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Với việc thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật, bỏ hoạt
động kiểm sát chung của VKS. Phạm vi còn lại của chức năng kiểm sát tuân theo
pháp luật được thể hiện trong thuật ngữ mới là “kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Kiểm sát hoạt động tư pháp vừa là một hoạt động tư pháp, vừa là hoạt động kiểm
tra, giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp như Cơ
quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án, của những người tiến hành tố tụng và

16


những người tham gia tố tụng. Trong TTHC, VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHC và thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VAHC kịp thời, đúng pháp luật.
Hoạt động tư pháp hành chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước,

do cơ quan Tòa án thực hiện, bắt đầu từ khi thụ lý cho đến khi bản án, quyết định
về VAHC do Tòa án ban hành có hiệu lực pháp luật được thi hành, được điều
chỉnh bằng LTTHC và các văn bản khác có liên quan. Vì vậy, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong TTHC là hoạt động của VKS đối với cơ quan Tòa án, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác và những người tiến hành tố tụng trong việc giải
quyết VAHC nhằm đảm bảo cho việc giải quyết VAHC của Tòa án kịp thời, đúng
pháp luật, góp phần nâng cao hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Khi thực
hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các VAHC, VKS có nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [21, tr.18]. Thông
qua hoạt động của mình, VKS có nhiệm vụ phát hiện vi phạm và thực hiện các
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị để yêu cầu khắc phục đối với cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác khi tham gia vào quá
trình tố tụng.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hành chính là hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng khác trong giải quyết VAHC nhằm mục đích phát hiện vi phạm của Tòa án
và các chủ thể tham gia quan hệ TTHC, trên cơ sở đó thực hiện các quyền yêu cầu,
kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm đã xảy ra
hoặc có thể xảy ra, góp phần bảo đảm cho Tòa án giải quyết VAHC kịp thời, đúng
pháp luật; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; đảm bảo
pháp luật của nhà nước được chấp hành nghiêm minh và thống nhất.
1.2.2. Đặc điểm
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là một hoạt động đặc thù của

17



VKSND được quy định trong Hiến pháp 2013, LTTHC năm 2015 và Luật Tổ chức
VKSND 2014 được thể hiện qua một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC do VKSND tiến
hành. Ở Việt Nam, VKSND là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp. VKSND tham gia vào việc giải quyết các VAHC của Tòa án là
đại diện nhà nước để giám sát hoạt động tố tụng tại trong quá trình giải quyết các
VAHC. Để thực hiện các chức năng này, pháp luật quy định cho ngành KSND một
hệ thống các quyền năng pháp lý. Quá trình kiểm sát việc giải quyết các VAHC,
nếu phát hiện chủ thể của hoạt động TTHC có vi phạm, VKS sẽ sử dụng quyền
năng pháp lý do luật định (kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu) để chấm dứt ngay tình
trạng vi phạm, khôi phục trật tự pháp luật.
Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC được tiến hành theo một
trình tự, thủ tục chặt chẽ được pháp luật TTHC quy định. Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHC có đối tượng tác động là Tòa án, những người tiến hành tố
tụng của Tòa án và những người tham gia tố tụng trong TTHC nhằm mục đích đảm
bảo hoạt động của các chủ thể này tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật.
Chính vì vậy, trình tự, thủ tục trong kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong
việc giải quyết các VAHC nói riêng được pháp luật TTHC quy định cụ thể, chặt
chẽ. Các hành vi và quyết định tố tụng của VKSND phải đảm bảo tính chặt chẽ và
tính có căn cứ pháp luật; các hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân đều được pháp luật
TTHC điều chỉnh. Ở nước ta, LTTHC năm 2015 là văn bản pháp luật có giá trị pháp
lý cao nhất đang có hiệu lực thi hành quy định về trình tự, thủ tục TTHC, đó là
những quy định quan trọng và cần thiết nhằm đảm bảo việc giải quyết VAHC được
chính xác, khách quan, toàn diện.
Thứ ba, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC là hoạt động phức hợp
của cơ quan VKS và KSV
KSV là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ở VKSND gồm: KSV
VKSND tối cao, KSV cao cấp, KSV trung cấp và KSV sơ cấp. Tiêu chuẩn chung của


18


KSV là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN; Có trình độ cử nhân luật
trở lên; Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; Có thời gian làm công tác thực tiễn
theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014; Có sức khỏe bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được giao [20, tr.60]. Ngoài ra, mỗi ngạch KSV còn có những tiêu
chuẩn riêng được quy định trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 [20, tr. 60-62].
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC, VKSND vừa có quyền
nhưng cũng phải có nghĩa vụ thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết VAHC của Tòa án đúng quy định của pháp luật. Những hoạt động
này do VKS và KSV thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp LTTHC
quy định, được thực hiện từ khi Tòa án thụ lý vụ án (trường hợp Tòa án trả lại đơn
khởi kiện thì thực hiện từ khi VKS nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của tòa
án), kết thúc khi Tòa án giải quyết xong VAHC.
Bên cạnh đó, để hiểu rõ bản chất của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHC, cần phải nghiên cứu những đặc thù để phân biệt với hoạt động kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hình sự của tòa án nhân dân ở những nội dung
sau: đối tượng và phạm vi của hoạt động kiểm sát việc giải quyết các VAHC.
1.3. Đối tượng và phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hành chính
1.3.1. Đối tượng
Trong TTHC, mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là
nhằm bảo đảm các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết VAHC chấp hành pháp
luật nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ của các bản
án, quyết định hành chính của Tòa án.

Trong quan hệ TTHC, không chỉ có sự tham gia của các cơ quan tiến hành
TTHC là Tòa án nhân dân và VKSND; của người tiến hành TTHC là Chánh án
Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Viện
trưởng VKS, KSV, Kiểm tra viên mà còn có sự tham gia của những chủ thể khác

19


×