Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG OCEANBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.83 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VŨ MONG

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG OCEANBANK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VŨ MONG

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG OCEANBANK
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn thạc sĩ “Giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng OceanBank” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát
tình hình thực tiễn và sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đức Minh. Các
thông tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn chính xác và có nguồn
gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2019
Học viên

Phạm Vũ Mong


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến
PGS.TS. Nguyễn Đức Minh người đã tận tình hướng dẫn và giúp tôi đưa ra những
ý kiến và định hướng quý báu thực hiện Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình động viên, giúp đỡ tôi học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này!


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1 ............................................................................................................................ 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ................... 7
1.1. Khái niệm về giao kết hợp đồng tín dụng .................................................................... 7
1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng ............ 10
1.3. Hình thức và chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng ...................................................... 16

1.4. Điều kiện có hiệu lực của giao kết Hợp đồng tín dụng .............................................. 25
1.5. Trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng ........................................................ 30
1.6. Nguyên tắc giao kết hợp đồng tín dụng ..................................................................... 38
1.7. Mối quan hệ giữa giao kết hợp đồng bảo đảm tín dụng với giao kết hợp đồng
tín dụng .............................................................................................................................. 41
1.8. Điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng tín dụng .............................. 43
Chương 2 .......................................................................................................................... 48
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN
NGÂN HÀNG OCEANBANK ....................................................................................... 48
2.1. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ........................................... 48
2.2. Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank ............................. 53
2.3. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu.................................................................. 56
2.4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng .............................. 62
2.5. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ............ 65
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Stt

Kí hiệu

Diễn giải

1

BIDV

Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam


2

BLDS

Bộ luật Dân Sự

3

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

4

NHNN

Ngân hàng nhà nước

5

NĐ-CP

Nghị định-Chính Phủ

6



Quyết định


7

TCTD

Tổ chức tín dụng

8

TMCP

Thương mại cổ phần

9

VBHD

Văn bản hướng dẫn

10

WTO

Tổ chức Thương Mại Thế giới


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã và đang có những bước đi hết sức quan
trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập Tổ chức thương mại

thế giới (WTO) đã thúc đẩy sự phát triển cho nền kinh tế nước nhà, tạo ra cho các
doanh nghiệp những cơ hội to lớn để phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài
nước nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức vô cùng to lớn cho các doanh nghiệp
khi họ phải cạnh tranh với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó,
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất.
Trong các hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu
chủ yếu cho các ngân hàng nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro rất lớn,
thậm chí có thể gây sụp đổ hệ thống ngân hàng tác động nghiêm trọng đến nền kinh
tế đất nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế đang diễn ra sâu rộng tại Việt Nam thì
nguy cơ rủi ro tín dụng ngày càng cao. Đồng thời, những cuộc khủng hoảng tín
dụng tại một số nước trên thế giới là lời cảnh tỉnh cho Việt Nam trong việc nâng cao
chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro hoạt động. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục
nghiên cứu và hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức để đảm bảo hơn nữa tính
thống nhất, đồng bộ, đầy đủ và hiệu quả pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp
luật về hợp đồng tín dụng nói riêng đặc biệt là giao kết hợp đồng.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật
như: Bộ luật dân sự 2015; Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng
2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng 2017 và các văn
bản hướng dẫn thi hành…Những văn bản đó đã tạo ra một hành lang pháp lý quan
trọng, tạo điều kiện để hoạt động cho vay của các ngân hàng phát triển, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đạt được thì pháp luật về hợp đồng tín dụng nói chung và pháp luật về giao kết hợp
đồng tín dụng nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, thiết sót. Việc tuân thủ nghiêm ngặt
những quy định về thẩm quyền giao kết, trình tự, thủ tục, hình thức giao kết hợp
đồng và sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn là một
đòi hỏi cần thiết, bởi việc vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng không chỉ gây tổn

1



hại cho lợi ích của các tổ chức tín dụng mà còn làm ảnh hưởng đến các chủ thể khác
và lợi ích chung của toàn xã hội.
Hơn nữa, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra yêu cầu phải
có sự thống nhất giữa quy phạm pháp luật quốc gia với các quy phạm pháp luật
quốc tế, giữa các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng với các cam
kết của WTO mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Với các lý do như trên, em xin lựa chọn đề tài “Giao kết hợp đồng tín dụng
ngân hàng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Ngân hàng OceanBank” để
nghiên cứu. Hi vọng rằng với những nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện những
vấn đề bất cập trong việc giao kết hợp đồng tín dụng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng
ngân hàng nói chung và giao kết hợp đồng tín dụng nói riêng ở những khía cạnh
khác nhau như:
- “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời hiệu khởi kiện vụ án
kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng” – Hoàng Quỳnh Chi – Kiểm sát. Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2002. Bài viết đã đề cập đến nhũng quy định của
pháp luật về chủ thể, đối tượng, vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng,
thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín của các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam.
- “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng” – Phạm
Văn Đàm – Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, số 11/2011. Bài viết trình bày khái
niệm, bản chất và đặc điểm sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm thực
hiện HĐTD. Đối với các khoản tiền vay bằng tài sản: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh...
- “Vận dụng quy định của pháp luật về lãi suất để giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án” – Lương Khải An – Tạp chí Kiểm sát, số
12/2012. Bài viết chỉ ra việc vận dụng các quy định về lãi suất quá hạn, lãi suất chậm
thi hành án vẫn còn những quan điểm khác nhau; bên cạnh đó, hướng dẫn của ngành
Ngân hàng còn chồng chéo với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên; các cơ quan liên ngành cũng chưa kịp thời phối kết hợp để cùng giải quyết

vướng mắc nên việc giải quyểt tranh chấp còn thiếu thống nhất, chưa thỏa đáng.

2


- “Bàn về chủ thể của luật dân sự qua quy định về bảo hiểm tiền gửi của cá
nhân ở các tổ chức tín dụng” – Đinh Dũng Sỹ – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
02/2005. Tác giả đã nêu lên cái nhìn tổng quát về các chủ thể được quy định còn
chung chung, chưa rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2005 gây ra không ít khó khăn,
phức tạp trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các cá nhân ở
các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích những vấn đề pháp lý về
bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những bất cập đang gặp phải, đưa ra định
hướng cho sự phát triển của các ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói
chung. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ nghiên cứu hoạt động tín dụng ở
một số lĩnh vực mà chưa có những phân tích cụ thể về vấn đề giao kết hợp đồng tín
dụng - vấn đề này còn nhiều bất cấp, chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Do đó, trên cơ sở kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ
tiến hành nghiên cứu và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng tín
dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định đó trong thực tiễn, từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận và
thực tiễn của các quy định về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng, thông qua việc
phân tích các quy định của Bộ Luật Dân sự 2015, Luật các tổ chức tín dụng 2010;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng 2017 và các văn bản
hướng dẫn thi hành… và nghiên cứu thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân
hàng OceanBank. Trên cơ sở nghiên cứu tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện những quy định bất cập, góp phần giải quyết các vướng mắc của thực
tiễn giao kết hợp đồng tín dụng.

Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
Thứ nhất là, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản
pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng.
Thứ hai là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
giao kết hợp đồng tín dụng ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tại Ngân hàng
OceanBank.

3


Thứ ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi những quy định bất cập, góp
phần hoàn thiện khung pháp lý về giao kết hợp đồng tín dụng để nâng cao hiệu quả của
hoạt động tín dụng ở nước ta nói chung và Ngân hàng OceanBank nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về giao kết hợp đồng tín dụng, cụ thể là thực tiễn áp dụng pháp luật về giao
kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank.
Đồng thời, qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín
dụng, đề tài sẽ chỉ ra một số vấn đề bất cập còn tồn đọng. Từ đó, tác giả đề xuất một
số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng,
nâng cao hiệu quả và tính khả thi của việc áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng
vào thực tiễn tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng có phạm vi nghiên cứu
rất rộng, nội dung phức tạp, bao hàm nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, hành
chính, hình sự… Do đó, để nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi sự đầu tư
nghiên cứu rất nhiều kiến thức có liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy,
với việc nghiên cứu dừng lại ở mức đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn
phạm vi nội dung nghiên cứu là pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng tại ngân

hàng. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp
luật về giao kết hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Việt Nam.
Về thời gian: Luận văn sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng tín
dụng trên cơ sơ pháp luật từ năm 2010 đến nay và nghiên cứu việc thực hiện hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng, cụ thể là: Bộ luật dân sự 2015, Luật các TCTD 2010
và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Về không gian: Luận văn tập trung làm rõ thực trạng giao kết hợp đồng tín
dụng tại Ngân hàng OceanBank, từ đó đưa ra những định hướng góp phần hoàn
thiện vấn đề này đối với các ngân hàng tại Việt Nam.

4


5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở
phương pháp luận là của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tìm ra mối quan hệ
biện chứng giữa pháp luật và thực tế áp dụng cũng như thành tựu của các chuyên
ngành khoa học pháp lý hay những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên
cứu, các bài viết trên tạp chí, các vụ án được đề cập trên truyền thông đại chúng.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Bài luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cơ bản về hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nhằm nắm bắt được những khó
khăn, vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực tiễn hoạt động giao kết
hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng OceanBank.
Sự kết hợp các phương pháp định tính là nền tảng cho cái nhìn khách quan
nhất, đồng thời sẽ có những nhận xét, đánh giá xác thực và đề ra những phương

hướng hoàn thiện có tính khả thi.
Ngoài ra, việc thu thập, nghiên cứu, phân tích các tài liệu được cung cấp bởi
Ngân hàng OceanBank cũng góp phần hoàn thành và làm rõ hơn mục đích nghiên
cứu. Thêm nữa để có cái nhìn toàn diện, khách quan, đa chiều hơn về vấn đề nghiên
cứu, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu thông qua sách báo, tạp chí và internet.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận về
giao kết hợp đồng tín dụng và tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong
giao kết hợp đồng tín dụng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn.
- Một là, nội dung của luận văn nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp
đồng tín dụng.
- Hai là, hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng
tín dụng.

5


- Ba là, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bên cho vay và bên vay, tạo môi
trường kinh doanh lành mạnh cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu của đề tài bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng tín dụng
Chương 2: Thực trạng giao kết hợp đồng tín dụng qua thực tiễn Ngân hàng
OceanBank và giải pháp
Cuối cùng là Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm về giao kết hợp đồng tín dụng
Từ trước đến nay, pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí quan trọng trong
pháp luật Việt Nam, hầu hết các giao dịch trong xã hội đều liên quan đến hợp đồng.
Do đó, các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 liên quan đến hợp đồng dân sự nói
chung chiếm một phần không nhỏ. Mục đích của pháp luật về hợp đồng nhằm bảo
vệ quyền tự do ý chí của các bên.
Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về
một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các
quyền hay nghĩa vụ của các bên đó. Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái
niệm về hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau”.
Khái niệm “Tín dụng” có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh “Creditium” có
nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có
nghĩa là sự vay mượn. Theo đó, tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể
thỏa thuận để các chủ thể khác được sử dụng một số vốn nhất định của mình (dưới
hình thức hàng hóa hoặc tiền tệ) và số vốn này bao giờ cũng được hoàn trả trong
một khoảng thời gian nhất định dựa trên cơ sở có sự tín nhiệm.
Về bản chất, hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng vay tài sản. Do đó,
để hiểu được hợp đồng tín dụng là gì thì trước hết phải nghiên cứu khái niệm hợp đồng
vay tài sản. Theo Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên
vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và
chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Ngoài ra, cũng có nhiều quan điểm về hợp đồng tín dụng như:
“Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên
cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do Luật định (bên vay), theo đó tổ chức
tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất

định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm” [23].

7


Hay: “Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ
chức tín dụng (gọi là bên cho vay) và khách hàng vay vốn (gọi là bên đi vay), theo đó
bên cho vay cấp cho bên đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trong một khoảng
thời gian nhất định và khi hết hạn đó, bên đi vay phải hoàn trả lại cả gốc và lãi” [22].
Từ các định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu: hợp đồng tín dụng là sự
thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với khách hàng là tổ
chức, cá nhân (bên vay) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên
theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng (bên cho vay) giao hoặc cam
kết giao cho khách hàng (bên vay) một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Bản chất của hợp đồng bao giờ cũng là sự thỏa thuận, nếu không có thỏa
thuận thì không có hợp đồng. Nhưng chỉ được coi là hợp đồng tín dụng khi các bên
tham gia nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi
chủ thể tham gia giao kết hợp đồng tín dụng đều có mục đích, động cơ nhằm hướng
tới lợi ích nhất định. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng tín dụng các bên có thể tự do
bày tỏ ý chí của mình theo nguyên tắc và trình tự nhất định, cùng thỏa thuận để đi
đến thống nhất thành ý chí chung và nếu ý chí chung đó phù hợp với quy định của
pháp luật thì hợp đồng đó được coi là có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Giao kết hợp đồng tín dụng là giai đoạn quyết định việc có tiến tới xác lập
hợp đồng hay không và liên quan tới thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Trước
tiên, là việc một bên biểu hiện ý chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ
cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một HĐTD. Bên đề
nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Việc
đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Quy trình

giao kết hợp đồng tín dụng phải đảm bảo các yếu tố sau:
- Ý chí muốn xác lập hợp đồng của mỗi bên được biểu hiện ra bên ngoài.
- Có sự thông nhất ý chĩa giữa các bên
Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau .
Bên đề nghị có thể gặp mặt trực tiếp với người được đề nghị trao đổi, thỏa thuận

8


hoặc có thể thông qua điện thoại, chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện.
Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau:
- Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị
- Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều
kiện đó đã đến.
Ngoài ra, đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt khi bên nhận được
đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc trả lời chấp nhận chậm.
Tiếp theo, chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận
lời và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Về nguyên tắc, bên
được đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong
những trường hợp, cần phải có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà
các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn
đó. Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về vệc chấp nhận giao
kết hợp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm
trả lời. Nếu việc trả lời được chuyển qua đường bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu
của bưu điện được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề
nghị xác định việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định. Bên được
đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một
phần trong nội dung đó hoặc có thể chỉ chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng không
đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Nghĩa là trong những trường hợp này,
bên được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung mà bên đề nghị đưa ra. Vì

vậy, họ sẽ trở thành bên đề nghị mới và bên đã đề nghị trước đó lại trở thành bên
được đề nghị. Bên đề nghị mới cũng chịu sự ràng buộc của mình về những nội dung
đã đề nghị. Sự hoán vị này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống
nhất thỏa thuận được với nhau toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến giao kết
hợp đồng tín dụng.
Để thực hiện hoạt động cấp tín dụng, TCTD phải giao kết và tiến hành ký kết
hợp đồng nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong giao kết HĐTD,
TCTD luôn tham gia với tư cách là chủ thể cấp tín dụng nhằm phân phối lại nguồn
vốn đã huy động từ tổ chức và cá nhân khác trong xã hội. Với tư cách là chủ thể cấp
tín dụng, TCTD phải thẩm định được phương án vay vốn, tính hiệu quả của việc sử

9


dụng vốn vay. Điều này là vô cùng cần thiết vì nó có khả nẳng hoàn trả nợ vay của
bên vay.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng được thực hiện bằng những hình
thức khác nhau: văn bản viết, lời nói hoặc phương tiện khác. Việc trả lời do hai bên
thỏa thuận: trả lời ngay hoặc một thời hạn do hai bên ấn định. Khi bên đề nghị giao
kết có thời hạn ấn định trả lời thì việc chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi
được thực hiện trong thời hạn đó. Nếu sự chấp nhận diễn ra sau thời hạn đó thì được
xem như là một đề nghị giao kết hợp đồng mới. Bên đề nghị giao kết có thể thay đổi
hoặc rút lại đề nghị trong trường hợp: khi bên được đề nghị giao kết chưa nhận
được lời đề nghị hoặc bên đề nghị giao kết nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút
lại lời đề nghị.
1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng
tín dụng
1.2.1. Cơ sở pháp lý
Trong hệ thống các tổ chức tín dụng, ngân hàng được coi là một trong những
đơn vị có vị trí quan trọng nhất, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang là

thành viên của rất nhiều các tổ chức kinh tế thế giới, đòi hỏi cần thay đổi đề bắt kịp
với các nước trong cùng khối cộng đồng là hết sức cần thiết. Nhằm phối hợp nhịp
nhàng giữa nguồn cung và cầu vốn thì điều kiện cần là hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh các hoạt động tài chính quốc gia cần được hoàn thiện và là nền
tảng cho các tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt là các văn bản điều chỉnh những
quan hệ của các tổ chức tín dụng. Mọi hoạt động của tổ chức tín dụng đều tác động
đến nền kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó mà quá trình quản lý các hoạt dộng của
tổ chức tín dụng đã và được được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chú trọng. Việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo hoạt động của tổ chức tín
dụng có tầm ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế nước nhà, đồng thời định hướng cho
sự phát triển của chính các tổ chức tín dụng.
Cùng với đó, hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng tại Việt Nam cần dựa
trên khung pháp lý cụ thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra. Để
hoạt động giao kết hợp đồng tín dụng ngày càng hoàn thiện và tiến tới có vai trò
trọng yếu trong nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi cần tiếp tục hoàn thiện những quy

10


định của pháp luật để hoạt động giao kết hợp động tín dụng có được sự hỗ trợ tốt
nhất trong tiến trình hội nhập và phát triển.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng tín dụng
Pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng là các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình giao kết hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và các bên liên quan.
Từ khái niệm ta có thể rút ra một số thuộc tính cơ bản của pháp luật về giao kết hợp
đồng tín dụng:
Thứ nhất, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng
là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng, thực hiện hành vi
cho vay dưới hình thức hợp đồng tín dụng. Theo quy định pháp luật hiện hành thì

hoạt động cho vay là một trong những hành vi cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho
khách hàng thông qua một giao dịch hợp đồng, theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận
để khách hàng sử dụng một khoản tiền trong một thời hạn nhất định có hoàn trả cả
gốc và lãi. Việc cho vay được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hoạt động giao kết
hợp đồng, hay nói cách khác, việc cho vay phải được thông qua hoạt động giao kết
hợp đồng tín dụng, giao kết hợp đồng tín dụng chính là hình thức pháp lý của quan
hệ tín dụng ngân hàng, bởi lẽ nó phản ánh sự thỏa thuận trực tiếp của các bên trong
việc xác lập một quan hệ tín dụng, xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của
các bên trong việc vay vốn và hoàn trả vốn vay.
Xuất phát từ vai trò của tín dụng trong nền kinh tế cũng như nhằm đảm bảo
sự an toàn của hoạt động ngân hàng và an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng
nên các nước đều coi trọng việc xây dựng một chế định về giao kết hợp đồng tín
dụng chặt chẽ và chuẩn mực.
Thứ hai, trình tự giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mà trong đó
các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa
thuận trong việc cùng nhau xác lập các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, xác định
từng nội dung cụ thể của hợp đồng. Khi một bên muốn thiết lập một HĐTD thì ý
muốn đó phải được thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ
như vậy, bên còn lại mới có thể nhận biết được ý muốn từ họ và từ đó đi đến
việc giao kết hợp đồng.

11


Theo Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 thì: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên
đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là
bên được đề nghị)”. Theo đó, đề nghị giao kết HĐTD là một bên biểu hiện ý chí,
nguyện vọng của mình trước một người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết
được ý muốn tham gia giao kết với người đó một HĐTD. HĐTD mà Bên đề nghị

đưa ra phải có những nội dung phù hợp và các điều khoản phải rõ ràng, cụ thể.
Còn chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận lời đề
nghị và tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Theo quy định, bên được
đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong những
trường hợp, bên được đề nghị cần có thời gian để bàn bạc, suy nghĩ mà hai bên đã
thỏa thuận thời hạn trả lời nhất định thì bên được đề nghị phải trả lời trong khoảng
thời hạn đó. Nếu quá thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp
nhận giao kết hợp đồng thì theo thỏa thuận của hai bên, đề nghị giao kết HĐTD đó
có thể bị chấm dứt hoặc lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên
chậm trả lời. Bên được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện các nội
dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc nhận lời
đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đưa ra.
Có nghĩa là bên được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung tại hợp đồng mà
bên đề nghị đưa ra, khi đó bên được đề nghị sẽ trở thành bên đề nghị mới và bên đề
nghị trước đó trở thành người được đề nghị. Quá trình này có thể lặp đi lặp lại nhiều
lần cho đến khi có được chấp nhận giao kết hợp đồng đúng yêu cầu thì hợp đồng sẽ
được coi là giao kết.
Trình tự giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các bước:
- Lập hồ sơ vay vốn
- Thẩm định hồ sơ vay vốn
- Quyết định cho vay
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng và ký kết hợp đồng.
Thứ ba, hợp đồng tín dụng là hợp đồng ưng thuận do vậy, thời điểm phát
sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng là điểm mốc thời gian làm phát sinh quyền đồng
thời cũng là cơ sở để phân định nghĩa vụ của các bên khi có tiền vay hoặc rủi ro xảy

12


ra. Thông thường khi giao kết HĐTD, các bên sẽ thỏa thuận ghi rõ thời gian mà hợp

đồng có hiệu lực, trong trường hợp này nó là hợp đồng ưng thuận và chúng ta
không có gì để bàn luận về thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của HĐTD ngân
hàng. HĐTD có thể được công chứng, chứng thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của
các bên. Trong HĐTD cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối ứng. Cụ thể là,
TCTD có nghĩa vụ giải ngân theo đúng thỏa thuận, được quyền giám sát việc sử
dụng vốn vay của khách hàng, quyền yêu cầu khách hàng trả tiền đúng thời hạn…
Bên khách hàng có quyền yêu cầu TCTD giải ngân như đã cam kết, có nghĩa vụ sử
dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn.
Thứ tư, tổ chức giao kết hợp đồng tín dụng là chủ thể chủ yếu của pháp luật
về giao kết hợp đồng tín dụng.
Tại Khoản 2 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt động
cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng
thì các tổ chức tín dụng được phép thực hiện nghiệp vụ cho vay là tổ chức tín dụng
được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng. Trước
hết, theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thì: “Tổ chức
tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân
hàng”. Như vậy, xét về bản chất, tổ chức tín dụng là một doanh nghiệp nhưng nó có
những đặc điểm riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, chẳng hạn:
- Việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 7 Điều 161 Luật các TCTD
2010: “7. Kể từ thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành, các tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng đang thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng phải chấm dứt
ngay các hoạt động ngân hàng, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này”.
- Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một ngành nghề kinh
doanh mà hơn nữa còn là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này thể
hiện ở việc hoạt động cho vay của TCTD phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định
như phải có vốn pháp định; phải được NHNN cấp phép hoạt động ngân hàng trước
khi tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định.
Thứ năm, hình thức giao kết hợp đồng tín dụng.
Xuất phát từ đặc thù của quan hệ tín dụng luôn tiềm ẩn độ rủi ro cao. Rủi ro

trong hợp đồng tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến tổ chức tín dụng mà còn ảnh

13


hưởng đến người gửi tiền, gây tác động lớn đền nền kinh tế. Do vậy, hầu hết pháp
luật các nước trên thế giới đều yêu cầu các bên khi giao kết hợp đồng tín dụng phải
được thể hiện dưới hình thức văn bản như: Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc
(Điều 37), Luật Ngân hàng Ba Lan (Điều 27.2). Ở Việt Nam, căn cứ theo quy định
tại khoản 1 Điều 23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN thì thỏa thuận cho vay phải được
lập thành văn bản, trong đó có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền
vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài
sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận.
Ngoài ra, hiện nay, việc giao kết hợp đồng tín dụng còn được thực hiện dưới hình
giao dịch điện tử phù hợp với điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển
như hiện nay.
Thứ sáu, pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng đề cao nguyên tắc bình
đẳng, tự nguyện, tự chủ của các bên tham gia giao kết, nhất là ngân hàng thương
mại khi tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng. Nguyên tắc này phản ánh đúng bản
chất quan hệ hợp đồng trong cơ chế thị trường, đó là các quan hệ tự nguyện.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư 39/2016/TT-NHNN Quy định
về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với
khách hàng thì: “Tổ chức tín dụng có quyền tự chủ trong hoạt động cho vay và tự
chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được
can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng”. Quy định này
một mặt đề cao tính tự chủ của TCTD, mặc khác cũng thể hiện tư tưởng tách bạch
hoạt động quản lý ra khỏi hoạt động kinh doanh, thể hiện tính tự chủ kinh doanh
của các TCTD theo cơ chế thị trường. Qua đó thấy được, Nhà nước không làm thay
cho doanh nghiệp cũng như không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp, đặc
biệt là hoạt động kinh doanh của TCTD – một loại hình doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực đặc thù là kinh doanh tiền tệ.
Thứ bảy, trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ giao kết hợp đồng tín dụng
Theo Điều Khoản 1 Điều 351 Bộ luật dân sự, vi phạm nghĩa vụ dân sự là
việc bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thời hạn, thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ và
bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Tương tự như

14


vậy, chung ta có thể hiểu vi phạm nghĩa vụ giao kết là các bên không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng những thỏa thuận đã quy định trong hợp đồng. Đối với hợp
đồng tín dụng thì chủ thể vi phạm có thể là TCTD, có thể là khách hàng, mà cũng
có thể đồng thời các TCTD và khách hàng.
Theo đó, trong HĐTD không có một điều khoản riêng ghi nhận thỏa thuận
giữa các bên về việc xử lý các vi phạm hợp đồng. Việc quy định về các vi phạm của
các bên và phương thức xử lý, áp dụng chế tài thường được nêu trong các điều
khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên. Những thỏa thuận đối với nội dung này
cũng phải tuân theo nguyên tắc quyền tự do định đoạt bị giới hạn bởi pháp luật, tức
là dựa trên những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng, về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng….
Theo nguyên tắc xác định các trường hợp vi phạm HĐTD chủ yếu dựa trên
cơ sở những thỏa thuận về nghĩa vụ của các bên, cụ thể:
-

Đối với tổ chức tín dụng, các vi phạm có thể là: không giải ngân và

thu nợ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng khi khách hàng cung cấp đầy đủ hồ sơ,
tài liệu; làm lộ thông tin của khách hàng đã cung cấp cho TCTD; vi phạm những
thỏa thuận khác trong hợp đồng…

-

Đối với khách hàng, các vi phạm có thể là: không cung cấp đầy đủ,

kịp thời các hồ sơ, tài liệu theo yêu cầu của TCTD hoặc cung cấp nhưng hồ sơ, tài
liệu không trung thực, không chính xác, sử dụng tiền vay không đúng mục đích đã
nêu trong hợp đồng, không tạo điều kiện cho TCTD kiểm tra tình hình sử dụng vốn
vay, tài sản thế chấp, hoạt động sản xuát kinh doanh, không tra nợ gốc và tiền vay
đúng hạn…
Tùy từng loại vi phạm mà các bên có thể thỏa thuận áp dụng các phương
thức xử lý khác nhau, chẳng hạn: Khách hàng có thể yêu cầu TCTD bồi thường
thiệt hại hoặc khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật; TCTD có
quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, áp dụng lãi suất quá hạn cho
tiền chậm trả, khởi kiện ra Tòa án đòi bồi thường thiệt hại…Như vậy, thỏa thuận về
việc xử lý các vi phạm về nghĩa vụ giao kết hợp đồng phải phù hợp các quy định
pháp luật về trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng kinh tế nói chung và trách
nhiệm tài sản do vi phạm HĐTD nói riêng.

15


Thứ tám, tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng tín dụng và
phương thức giải quyết
Tại các HĐTD thường có thỏa thuận như sau: Các tranh chấp hợp đồng này
sẽ được hai bên giải quyết bằng thương lượng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và
cùng có lợi. Trường hợp không thể giải quyết bằng thương lượng hai bên sẽ đưa
tranh chấp ra giải quyết bằng Trọng tài hoặc tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Trên thực tế, việc thực hiện các điều khoản này gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc. Trường hợp khi đến hạn mà khách hàng chưa trả nợ, TCTD sẽ gặp gỡ, trao đổi

và thuyết phục khách hàng về việc trả nợ. Quá trình thương lượng này có thể kéo
dài nhiều tháng thậm chí đến cả năm, dẫn đến việc ảnh hưởng đến thời hiệu khởi
kiện ta Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Ngoài ra, tình trạng hình sự hóa tràn lan
các quan hệ tín dụng, khiến cho các TCTD không muốn đưa tranh chấp ra kiện tại
Tòa án vì tranh chấp có thể bị chuyển sang khởi tố hình sự. Tình trạng này một
phần xuất phát từ việc cơ quan tư pháp thường quy kết trách nhiệm cho các bộ tín
dụng, cho TCTD mà coi nhẹ trách nhiệm của khách hàng. Vi vậy, để giải quyết các
vướng mắc của việc giải quyết tranh chấp trong quá trình giao kết HĐTD, cần có
những quy định về thời hiệu khởi kiện vụ kinh tế áp dụng cho ngành ngân hàng
đồng thời bổ sung những quy định rõ ràng và cụ thể về quyền của TCTD trong việc
xử lý các tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ…
1.3. Hình thức và chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng
1.3.1. Hình thức giao kết hợp đồng tín dụng
Việc đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng được thực hiện bằng những hình
thức khác nhau: văn bản viết, lời nói hoặc phương tiện khác. Tuy nhiên, hiện nay,
quan hệ tín dụng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Rủi ro không chỉ ảnh hưởng đến các
tổ chức tín dụng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế nước nhà. Do đó,
hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều yêu cầu các bên khi tham gia giao kết
hợp đồng tín dụng phải thể hiện dưới hình thức văn bản. Ở Việt Nam, pháp luật
không quy định cụ thể về hình thức giao kết hợp đồng tín dụng, theo Khoản 4 Điều
400 BLDS 2015 thì: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên
sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn

16


bản”. Theo quy định này có thể hiểu, đối với những hợp đồng giao kết bằng văn
bản thường phải có chữ ký của bên sau cùng ký vào văn bản hoặc hình thức chấp
nhận khác được thể hiện trên văn bản; đối với chủ thể tham gia giao kết là tổ chức,
pháp nhân thì giao kết hợp đồng thường có chữ kí, có đóng dấu.

Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản có những ưu điểm:
- Hợp đồng tín dụng được giao kết bằng văn bản sẽ tạo ra bằng chứng cụ
thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp pháp sinh từ hợp đồng
tín dụng.
- Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố
công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa các bên tham gia giao kết nhằm
để người thứ ba biết được việc giao kết đó mà có những phương thức xử lý phù hợp
trong những trường hợp cần thiết
- Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản đảm bảo quyền lợi cho các
bên, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng
quản lý nhà nước cũng như là cơ sở để giải quyết tranh chấp (nếu có). Chẳng hạn
như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát hoạt động của chủ
thể trong việc kinh doanh, sản xuất…
Ngoài ra, theo BLDS 2015 thì các thông điệp, dữ liệu cũng được coi là một
hình thức văn bản. Luật giao dịch điện tử được ban hành và có hiệu lực từ ngày
01/03/2006 là một cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho các giao dịch điện tử
hình thành và phát triển. Tiếp đó, ngày 08/03/2007 Chính phủ ban hành Nghị định
35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử, theo đó giao dịch điện tử được áp dụng cho
các hoạt động ngân hàng được quy định tại Luật các tổ chức tín dụng trừ việc phát
hành trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Do vậy, hoạt động giao kết hợp động tín
dụng của TCTD có thể được thực hiện dưới hình thức giao dịch điện tử.
1.3.2. Chủ thể giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là quan hệ tài sản – hàng hóa phát sinh trong quá
trình sử dụng vốn tạm thời giữa tổ chức tín dụng và các tổ chức, cá nhân theo
nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc có sự bảo đảm, được các qui
phạm pháp luật điều chỉnh. Tham gia quan hệ này có ít nhất gồm hai chủ thể: là bên

17



nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng (bên cho vay) và bên đề nghị giao kết hợp
đồng tín dụng (bên đi vay).
1.3.2.1. Bên nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng
Khác với các hợp đồng thông thường, trong hợp đồng tín dụng bên nhận đề
nghị giao kết HĐTD luôn là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác được Ngân hàng
Nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng, được thành lập và hoạt động theo Luật
các TCTD 2010 và các pháp luật liên quan, có chức năng hoạt động, kinh doanh tín
dụng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Bên nhận đề nghị giao kết HĐTD có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp các
tài liệu, hồ sơ chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, mục đích sử dụng vốn
phù hợp và người bảo lãnh trước khi cho vay; từ chối yêu cầu vay vốn của khách
hàng trong trường hợp khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, phương án vay vốn
không hiệu quả, mục đích sử dụng vốn không phù hợp hoặc ngân hàng không đủ
nguồn vốn để cho vay; kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả
nợ của khách hàng. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước
hạn theo nội dung đã thỏa thuận khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự
thật, vi phạm quy định trong thỏa thuận cho vay và/hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay;
khởi kiện khách hàng vi phạm HĐTD hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh theo quy định của pháp luật; trường hợp khách hàng không trả được nợ đến
hạn thì TCTD có thể áp dụng các biện pháp thu hồi nợ theo thỏa thuận cho vay, hợp
đồng bảo đảm và quy định của pháp luật có liên quan hoặc yêu cầu người thứ ba thực
hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn; quyết định miễn,
giảm lãi tiền vay, phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của TCTD.
Bên nhận đề nghị giao kết HĐTD có nghĩa vụ giải ngân cho bên vay theo
đúng thoả thuận trong HĐTD đồng thời thực hiện đúng các thoả thuận đã quy định
trong HĐTD; lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật có liên
quan. Trong số các nghĩa vụ nêu trên, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu
nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác
của hai bên.
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh

nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín
18


dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô
và quỹ tín dụng nhân dân”. Hiện nay, tổ chức tín dụng rất đa dạng về loại hình cũng
như hình thức sở hữu:
Căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ, có thể chia tổ chức tín dụng thành:
Tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ
chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Căn cứ vào phạm vi thực hiện các hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng
được chia thành hai loại đó là tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi
ngân hàng.
Ngoài các tổ chức tín dụng là chủ thể chủ yếu của hợp đồng tín dụng thì một
số tổ chức khác cũng có thể trở thành bên nhận đề nghị giao kết HĐTD nếu được
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép. Đối với các tổ chức không phải là tổ
chức tín dụng đã được thành lập hợp pháp mà muốn trở thành bên nhận đề nghị
giao kết HĐTD thì không phải làm thủ tục thành lập doanh nghiệp mà chỉ cần thỏa
mãn các điều kiện sau: có giấy phép hoạt động ngân hàng, có người đại diện hợp
pháp và có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong giấy phép hoạt động ngân
hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của tổ chức này cần phải ghi rõ hoạt
động cho vay là hoạt động ngân hàng được phép thực hiện.
1.3.2.2. Bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày
30/12/2016 thì: “Khách hàng vay vốn tại tổ chức tín dụng (sau đây gọi là khách
hàng) là pháp nhân, cá nhân bao gồm:
a) Pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân được
thành lập tại nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam;
b) Cá nhân có quốc tịch Việt Nam và cá nhân có quốc tịch tại nước ngoài”.

Theo đó, bên đề nghị giao kết HĐTD bao gồm:
-

Cá nhân Việt Nam.

-

Pháp nhân Việt Nam: cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân,

tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế (doanh nghiệp nhà nước,

19


×