Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Lãi suất trong hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ NGUYỄN ĐÔNG QUÂN

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI
CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ NGUYỄN ĐÔNG QUÂN

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI
CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH DŨNG SỸ

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Lãi suất trong hợp đồng tín dụng
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn hoạt động tại Ngân hàng TMCP Quân
đội – Chi nhánh Đà Nẵng ” là do tác giả thực hiện dưới dự hướng dẫn của
PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ . Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Kết
quả nghiên cứu của luận văn dựa trên quá trình thu thập thông tin, khảo
sát. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Lê Nguyễn Đông Quân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG ....................................................................................................... 8
1.1. Khái quát về hợp đồng tín dụng ................................................................. 8
1.2 Lãi suất ...................................................................................................... 12
CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ LÃI SUẤT TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN QUÂN ĐỘI CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG ............................................ 22
2.1. Các quy định của pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng ............. 22

2.2. Tổng quan về tình hình hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân đội- CN
Đà Nẵng........................................................................................................... 24
2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi suất trong hợp
đồng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội- Chi nhánh Đà Nẵng. ............ 34
2.4. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng
theo Pháp luật Việt Nam từ hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Quân đội
– Chi nhánh Đà Nẵng ...................................................................................... 55
CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT
TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI- CN ĐÀ NẴNG ................ 60
3.1. Định hướng phát triển pháp luật về lãi suất tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Quân đội - chi nhánh TP Đà Nẵng. ........................................................ 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về lãi suất Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân đội - chi nhánh TP Đà Nẵng .................................................................. 62
3.3. Phương pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ
phần Quân đội - chi nhánh TP Đà Nẵng. ........................................................ 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang


2.1

Một số chỉ tiêu về huy động vốn tại MBBank Đà Nẵng

28

2.2

Dư nợ cho vay giai đoạn năm 2015 đến 2017

30

2.3

Tình hình hoạt động kinh doanh từ năm 2015 – 2017

32

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu

Tên hình

hình

Trang

2.1


Sơ đồ cơ cấu tổ chức

25

2.2

Biểu đồ dư nợ cho vay theo ngành kinh tế năm 2017

31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vòng quay của sự phát triển nền kinh tế nói chung, nền kinh tế nước nhà
nói riêng, việc hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan
trọng và là định hướng hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội
Chủ nghĩa. Việt Nam với tư cách là một chủ thể độc lập trong sự phát triển chung
của nền kinh tế quốc tế đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu to
lớn trên nhiều phương diện từ kinh tế, xã hội, trong đó đáng chú ý và nổi bật hơn cả
là sự trở mình trong lĩnh vực kinh tế, điều lột xác rõ rệt nhất trong sự trở mình của
sự thay đổi đó nằm ở nền kinh tế ngân hàng.
Trong suốt giai đoạn vừa qua, nền kinh tế ngân hàng đã từng bước đạt được
những kết quả quan trọng, trong đó phải kể đến sự tập trung quản lý có hệ thống các
công cụ lãi suất – một điểm được coi là một góc cạnh nhạy cảm, phức tạp, nóng
bỏng nhất, thu hút nhiều sự quan tâm của xã hội.
Lãi suất với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ, là công cụ để đo lường,
đánh giá hiện trạng "sức khỏe" của một nền kinh tế. Đặc biệt trong cơ chế thị
trường, lãi suất trở thành công cụ đắc lực để Ngân hàng nhà nước thực thi chính
sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và

tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, lãi suất còn là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối
quan hệ giữa cung và cầu trên vấn đề tiền tệ, nói một cách dễ hiểu, lãi suất phản ánh
được sự chênh lệch của việc xác định một cách ngoại sinh các vấn đề nguồn cung
tiền tệ mặc khác vừa phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền,
từ đó tạo ra một góc cạnh đánh giá được sự biến động của cán cân tiền tệ trong sự
phát triển tín dụng của hệ thống ngân hàng từ đó tạo cơ sở cho các doanh nghiệp đề
ra những phương án, chiến lược phát triển có hiệu quả, mặt khác tạo một góc nhìn
góp phần làm tiền đề cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật, các chính sách quản lý phù hợp, hiệu quả và thống nhất.

1


Từ đó tạo hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước
hoạt động, phát triển quy mô của tổ chức mình, giúp các chủ thể trong nước tăng
khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài, nhất là khi nước ta bước chân vào
kỷ nguyên của sự hội nhập.
Xét trên tầm vĩ mô, lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô rất có hiệu quả
của chính phủ thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ
nhất định, có tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế của cả quốc gia. Và đứng ở tầm vi
mô, lãi suất là cơ sở để cho cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra quyết định của
mình như chi tiêu hay để dành tiết kiệm, đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ sản
xuất kinh doanh hay cho vay hoặc gởi tiền vào ngân hàng.
Chính vì vậy, lãi suất không chỉ là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng
hợp, đa dạng và phức tạp mà đó còn là một trong những công cụ quản lý và điều tiết
chính sách tiền tệ của Nhà nước có tầm ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và sự ổn định trong hệ thống tín dụng nói riêng.
Với cách nhìn nhận đúng đắn, trong những năm qua hệ thống về lãi suất tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội tên giao dịch tiếng Anh là Military
Commercial Joint Stock Bank được viết tắt là MB đã không ngừng phát triển về quy

mô cung ứng các kênh lãi suất cũng như nâng cao chất lượng của hoạt động liên
quan, song ở mảng này vẫn còn một số điểm đang tiếp tục hoàn thiện nên những
thành tựu mang lại từ các dịch vụ phát sinh từ kênh lãi suất chưa thật sự đạt được
thành quả tốt nhất, chưa tương xứng với vị trí của một trong những ngân hàng có rất
nhiều thế mạnh về vốn, thương hiệu, thị trường, khách hàng, chất lượng cũng như
dịch vụ.
Vì vậy, với đề tài về: “Lãi suất trong hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà Nẵng” bản
thân tôi nhận thấy vai trò cũng như tầm quan trọng to lớn của vấn đề này trong giai
đoạn hiện nay. Bởi lẽ, việc lựa chọn đề tài này xuất phát từ mong muốn giúp các cơ
quan Nhà nước có một kênh tham khảo, một góc nhìn cận cảnh, về khía cạnh hoạt
động của các tổ chức tín dụng, qua đó nhận thấy được sự khó khăn, những điểm cần

2


hoàn thiện trong thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân
hàng TMCP Quân đội từ đó đưa ra các quan điểm, các đánh giá cũng như các giải
pháp hiệu quả nhất tạo hiệu quả tối đa trong bản thân hoạt động của Ngân hàng
TMCP Quân đội góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 và Luật các TCTD năm 2010 được
ban hành đã có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về lãi suất trong hợp
đồng tín dụng tại các ngân hàng nhưng các công trình này chỉ nghiên cứu về các chế
độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện tuân thủ về lãi suất trong hợp đồng
tín dụng tại một TCTD như:
Luận văn thạc sĩ luật học "Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực
hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông
thôn Láng Hạ" của tác giả Bùi Thị Nga, (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007);
Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một nội dung

nhất định của lãi suất trong hợp đồng tín dụng như bài viết của tác giả Nguyễn Văn
Vân "Mấy vấn đề suy nghĩ về bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng ngân hàng",
đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2000;
Luận án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế “Phương pháp xác định lãi suất ngân
hàng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Loan năm
1996 và hai khóa luận tốt nghiệp năm 2009 “Tự do hóa lãi suất và tác động đối với
nền kinh tế Việt Nam” của Nguyễn Minh Tuấn và “Giải pháp nâng cao hiệu quả
điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam” của Võ Thị Thùy Trang
Luận văn thạc sỹ tác giả Dương Thu Phương “Lãi suất trong hợp đông vay
tiền và tác động của nó đến nền kinh tế hiện nay”, (Trường Đại học Luật Hà NộiNăm 2009)
Bên cạnh đó, có rất nhiều bài viết trên các tạp chí như Tạp chí ngân hàng, Tạp
chí tài chính cũng nghiên cứu về lãi suất. Đặc biệt trong thời gian từ năm 2008 đến
nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam
cũng có nhiều biến động nên NHNN đã có chính sách về lãi suất tạo những phản

3


ứng khác nhau trong giới chuyên môn. Những bài viết này chủ yếu xem xét lãi suất
dưới góc độ kinh tế và vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường hoặc đánh giá
dưới góc độ lập pháp và hành pháp về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Trường
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh và các đề tài khác cũng như các bài báo liên quan
đến vấn đề lãi suất trong hợp đồng tín dụng đã được Tác giả tham khảo và làm rõ
hơn trong luận văn nghiên cứu về phát triển hoạt động cho vay trong đó chú trọng
đến yếu tố lãi xuất tại tại Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Đà Nẵng.
Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu nhìn nhận, giải quyết vấn đề này ở một
góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu và riêng biệt về vấn đề hợp đồng mà trong đó là các yếu tố lãi suất cho
vay tại các NHTM, đặc biệt theo quy định của Luật các TCTD năm 2010 được
Quốc hội thông qua ngày 16/06/2010.

Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Lãi suất trong hợp đồng tín dụng ngân hàng
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngân hàng TMCP Quân Đội – Chi nhánh Đà
Nẵng” vẫn mang tính cấp thiết cần phải nghiên cứu và làm sáng rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng tại các NHTM ở Việt
Nam mà thực tiễn là Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Đà Nẵng, trên cơ sở
đó đề ra các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp pháp lý nhằm đảm bảo cho các hoạt
động trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về Lãi suất trong hợp đồng cho
vay tại các NHTM và pháp luật về lãi suất như khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp
lý của lãi suất; Pháp luật về lãi suất, nội dung của pháp luật về lãi suất trong hợp
đồng tín dụng.
Đánh giá tổng quan và phân tích thực trạng pháp luật về lãi suất trong hợp

4


đồng tín dụng tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay, từ đó phát hiện những bất cập,
tồn tại về mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng lãi suất trong hợp đồng tín dụng.
Trên cơ sở những bất cập, tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và phát triển hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín
dụng tại các NHTM ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là thực trạng pháp luật về lãi suất và đề ra các
biện pháp nhằm nâng cao hoạt động tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Đà

Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở các văn bản quy phạm pháp luật về hợp
đồng tín dụng tại các NHTM và các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cho
vay của các TCTD trong giai đoạn hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của đề tài không
bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động của các TCTD nói chung,
NHTM nói riêng mà giới hạn ở các quy phạm pháp luật điều chỉnh lãi suất trong
hợp đồng tín dụng được ký kết bởi các NHTM và khách hàng cũng như một số vấn
đề thực tiễn đặt ra trong quá trình cho vay của NHTM. Trong khuôn khổ của một đề
tài luận văn thạc sỹ, học viên chưa có nhiều sự hiểu biết chuyên sâu, cũng như sự
hạn chế về thời gian nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, học
viên mong nhận được sự góp ý đánh giá từ các thầy cô hướng dẫn để đề tài có thể
hoàn thiện hơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu, luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong qua trình đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam Xã
hội Chủ nghĩa và vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng thực
tiễn kiểm chứng lý luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như
phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp
thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên cứu riêng của bản thân về một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của lãi suất trong hợp đồng tín dụng tại các NHTM để hoàn
thành chương trình học tập và báo cáo tốt nghiệp lớp Cao học Luật kinh tế khóa
VII ( đợt 1) năm 2016 của Học viện Khoa học Xã hội, việc nghiên cứu đề tài còn có
ý nghĩa đi sâu phân tích khái niệm, đặc điểm, hình thức pháp lý, thời điểm có hiệu
lực của lãi suất trong hợp đồng tín dụng, bản chất pháp lý của lãi suất trong hợp
đồng tín dụng. Từ đó tiếp tục đi sâu nghiên cứu pháp luật về lãi suất trong hợp đồng
tín dụng cũng như các đặc điểm và nội dung về lãi suất trong hợp đồng tín dụng
theo pháp luật hiện hành, từ đó tác giả kết hợp với việc nghiên cứu, so sánh pháp
luật lãi suất trong hợp đồng tín dụng hiện nay giữa các văn bản pháp luật có liên
quan cùng điều chỉnh để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm mục đích xây
dựng và hoàn thiện pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thưc tiễn
Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về lãi suất trong hợp
đồng tín dụng hiện hành. Bên cạnh đó, luận văn còn đi sâu phân tích những hạn chế,
bất cập của pháp luật lãi suất trong hợp đồng tín dụng điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong quá trình giao kết và thực hiện lãi suất trong hợp đồng tín dụng, đồng
thời đề xuất hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín
dụng trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

6


Chương 1: Lý luận chung về lãi suất trong hợp đồng tín dụng.
Chương 2: Những vấn đề thực tiễn về lãi suất trong hợp đồng tín dụng của
Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp phát triển và đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống lãi

suất cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân đội - Chi nhánh Đà Nẵng.

7


CHƯƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Khái quát về hợp đồng tín dụng
1.1.1. Khái niệm
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2017. Tuy nhiên, chỉ
gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng trong
đó chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng).
Hợp đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho
vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cách
hiểu đối với hợp đồng tín dụng bằng phương pháp phân tích câu từ là như vậy, một
câu hỏi đặt ra là vì sao ở đây chúng ta không trích dẫn cách hiểu từ một văn bản luật
hay môt văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến khái niệm này? Câu trả lời là
bởi lẽ trước đây trong Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004)
có quy định như sau: Việc cho vay phải được lập thành HĐTD. HĐTD phải có nội
dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi
suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và
những cam kết khác được các bên thỏa thuận, tuy nhiên đến khi luật các tổ chức tín
dụng năm 2010 được ban hành thì khái niệm này đã bị thay thế bởi “cụm từ” cấp tín
dụng, theo đó trong luật các tổ chức tín dụng năm 2010 tại Điều 4, Khoản 14 có quy
định : “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân

hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
Như vậy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định về những nội dung cơ
bản HĐTD phải có mà không đưa ra một định nghĩa cụ thể về HĐTD. Trong hợp
đồng tín dụng mà cụ thể đối tượng chính là quan hệ tín dụng bản chất là một quan

8


hệ dân sự nên HĐTD cũng là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Từ khái niệm
hợp đồng được quy định theo Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự”, từ cách giải thích từ BLDS trên ta có thể nhân rộng ra thành “HĐTD là sự
thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những
điều kiện luật định (bên vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền tệ cho bên vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Theo cách hiểu hiện nay, khi nói đến HĐTD nghĩa là nói đến HĐTD ngân
hàng, do đó trong luận văn nghiên cứu thạc sỹ lần này để có sự thống nhất chỉ sử
dụng thuật ngữ HĐTD. Trong phạm vi nghiên cứu của công trình này, HĐTD được
đề cập từ đây về sau là HĐTD giữa TCTD và khách hàng vay vốn.
1.1.2. Đặc điểm
HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự song vụ nhưng vẫn
có những nét khác biệt cụ thể như sau:
Thứ nhất, về hình thức, HĐTD bắt buộc phải được lập thành văn bản, hầu hết
là hợp đồng theo mẫu. Việc tồn tại HĐTD bằng lời nói là không khả thi bởi tầm
quan trọng của việc giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD.
Với HĐTD bằng văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo
an toàn trong khuôn khổ pháp lí và tất nhiên, khi có tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là
căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp. Đa phần các
HĐTD là hợp đồng theo mẫu, chủ thể cho vay là TCTD soạn thảo dựa trên các quy
định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay của TCTD. Bên vay thường phải

chấp nhận những điều khoản trong hợp đồng mà không phải ai cũng có thể yêu cầu
sửa đổi điều khoản theo hướng có lợi hơn cho mình. Trong hợp đồng tín dụng sự tự
do ý chí trong việc giao kết được thể hiện thông qua việc khách hàng đồng ý giao
kết hợp đồng, điều đó đồng nghĩa với câu chuyện khách chấp nhận những điều
khoản trong đó, ngược lại thì không giao kết. Thực tế cho thấy việc thỏa thuận, sửa
đổi, một số điều khoản trong HĐTD theo mẫu chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân
có uy tín, khoản vay lớn và TCTD có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng. Mặt

9


khác, theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 405 BLDS 2015, pháp luật cũng có cơ chế để
bảo vệ khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản
không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều
khoản đó hoặc trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của
bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng
của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Về tên gọi của HĐTD có thể đặt dưới nhiều tên khác nhau tùy thuộc vào tính
chất, bản chất và đối tượng của hợp đồng: Hợp đồng tín dụng, hợp đồng vay, khế
ước vay vốn. Hoặc phụ thuộc vào thời hạn vay, mục đích vay, hợp đồng có thể có
thêm các cụm từ: “ngắn hạn”, “trung hạn”, “dài hạn”, “đồng Việt Nam”, “ngoại tệ”,
“tiêu dùng”, “đầu tư”…
Thứ hai, HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình
thức tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam, vàng hoặc ngoại
tệ; tồn tại dưới dạng tiền mặt, vật hiện hữu hoặc bút tệ. Với vai trò phương tiện
thanh toán – vai trò quan trọng nhất của tiền – vốn tiền tệ có thể đáp ứng mọi nhu
cầu của bên vay một cách dễ dàng nhất, kể cả về số lượng vốn vay và mục đích vay.
Nhờ đó hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động sinh lời chủ yếu của các TCTD và
trở thành một hình thức tín dụng khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Nếu
trong quan hệ tín dụng giữa TCTD và chủ để đi vay mà đối tượng là tài sản thì đây

là quan hệ cho thuê tài chính, thông qua hợp đồng thuê mua tài chính chứ không
phải là hoạt động cho vay.
Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là một số tiền xác định,
được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng. Đây chính là điểm khác biệt rõ
rệt nhất của hợp đồng tín dụng so với các hợp đồng dân sự khác. Theo đó, xét thấy
đối với các hợp đồng khác, đối tượng của hợp đồng rất đa dạng có thể là hàng hoá,
dịch vụ nói chung còn trong HĐTD đối tượng của hợp đồng tín dụng ngân hàng
luôn luôn là tiền.
Thứ ba, về chủ thể trong mối quan hệ này thì bên cho vay trong HĐTD luôn là
TCTD. Theo quy định của pháp luật hiện hành quy định cụ thể tại điều 20 , khoản 1

10


luật các tổ chức tín dụng 2010 thì “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành
lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. TCTD bao gồm ngân
hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD (trường
hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định (được thành lập và hoạt động
theo Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản liên quan; có chức năng hoạt động,
kinh doanh tín dụng)
Thứ tư, HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc: Năng
lực chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới
hạn vốn vay. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm
theo quy định của pháp luật, không được cho vay đối với các trường hợp bị cấm, bị
hạn chế .
Thứ năm, hợp đồng tín dụng có độ rủi ro cao. Theo đó bên cho vay chỉ có thể
nhận lại được số tiền đã cho vay cùng lãi suất sau một khoảng thời gian nhất định.
Thời gian càng dài thì rủi ro càng lớn. Tính rủi ro của hợp đồng tín dụng còn được

thể hiện ở chỗ rủi ro của hợp đồng tín dụng có tính dây chuyền, điều đó thể hiện ở
việc không thu hồi vốn vay của tổ chức tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của tổ chức tín dụng mà còn ảnh hưởng đến lợi ích người gửi tiền. Bởi
lẽ, khác với các hợp đồng cho vay thông thường, bên cho vay dùng tiền thuộc sở
hữu của mình để cho vay thì trong hợp đồng tín dụng các tổ chức tín dụng chủ yếu
dùng tiền từ nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân. Do đó, nếu khoản cho vay
không thu hồi được vốn, tổ chức tín dụng sẽ có nguy cơ mất khả năng chi trả cho
người gửi tiền, đe dọa đến sự sống còn của tổ chức tín dụng, tác động dây chuyền
đến toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, việc quy định hình thức của hợp đồng tín dụng
luôn bằng văn bản cũng xuất phát từ tính rủi ro cao của hợp đồng tín dụng và tầm
quan trọng của hợp đồng tín dụng, Luật ngân hàng của hầu hết các nước trên thế
giới đều quy định hợp đồng tín dụng phải được ký kết bằng văn bản. Ở Việt Nam,
quy định này được ghi nhận trong Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng và theo Điều

11


18 của Quy chế cho vay. Đây là một quy định bắt buộc nhằm đảm bảo tính chặt chẽ,
rõ ràng trong thoả thuận của các bên về quyền và nghĩa vụ, hạn chế các rủi ro có thể
xảy ra, là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp nếu có hoặc như đối với
việc quy định thời hạn của hợp đồng tín dụng luôn được xác định trước và ghi trong
hợp đồng tín dụng. Tuỳ theo mục đích sử dụng vốn vay mà thời hạn hợp đồng có
thể ngắn hạn (dưới một năm), trung hạn (từ 1 đến 5 năm) hoặc dài hạn (trên 5 năm).
Đây chính là khoảng thời gian mà bên vay có thể sử dụng nguồn vốn vay từ tổ chức
tín dụng. Hết khoảng thời gian này, bên đi vay phải trả khoản tiền cả gốc và lãi cho
tổ chức tín dụng. Có thể nói rằng mục đích của quy định này nhằm xác định rõ ràng
trách nhiệm của người đi vay và bảo tồn vốn cho tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó,
thông qua hợp đồng tín dụng nhận thấy, đích cuối của HĐTD luôn nhằm mục đích
lợi nhuận (hợp đồng có lãi suất). Trong giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng, tổ
chức tín dụng thu lợi nhuận không chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí kinh doanh

như: trả lãi tiền gửi, trả lương nhân viên…mà còn nhằm bù đắp những rủi ro có thể
xảy ra cho tổ chức tín dụng và cũng có thể là rủi ro của người gửi tiền. Vì vậy, việc
thu hồi lợi nhuận không chỉ xuất phát từ lợi ích của tổ chức tín dụng mà còn xuất
phát từ lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của toàn xã hội.
Như vậy, hợp đồng tín dụng là hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng vay. Xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của nó
đối với nền kinh tế nên hợp đồng tín dụng ngân hàng có những nét đặc thù riêng. Vì
vậy, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải thoả mãn tất cả các
điều kiện đặt ra với hợp đồng tín dụng ngân hàng nhằm đảm bảo tính hiệu lực của
hợp đồng cũng như hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cho các bên trong quan hệ hợp
đồng.
1.2 Lãi suất
Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín
dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt các bên phải chú ý đến nội dung của
hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên thực hiện
đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp phát sinh

12


và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và chủ thể đi
vay. Một trong những điều khoản không thể thiếu của HĐTD là lãi suất cho vay.
Khi các bên có sự đồng thuận ý chí và nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ về lãi và lãi
suất thì HĐTD mới có đầy đủ ý nghĩa.
1.2.1. Khái niệm
Được đề cập trong nhiều tài liệu lịch sử với những khía cạnh góc nhìn khác
nhau, nhưng nhìn chung khái niệm lãi suất tương đối thống nhất và không có quá
nhiều khác biệt.
Dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu: Lãi suất tín dụng còn gọi là tỉ suất lợi tức, là
tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời gian (ngày, tuần, tháng,

quý năm…) với tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng thời gian đó .
Theo Từ điển Luật học: Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính trên vốn đầu tư để xác
định lãi của người đầu tư.
Theo Bách khoa toàn thư: Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay
trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ một người cho vay [3].
Theo Điều 2 Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của NHNN
Việt Nam và các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN
ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN: Lãi suất được hiểu là khoản tiền bên vay,
huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên cho vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc
bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi
được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất.
Bênh cạnh lãi đơn còn có cách tính lãi kép (là số tiền lãi không chỉ tính trên số
tiền gốc mà còn tính trên số tiền lãi do số tiền gốc sinh ra) nhưng cách tính này
không được pháp luật cho phép áp dụng trong hoạt động ngân hàng.
1.2.2. Phân loại lãi suất
Lãi suất được chia thành nhiều loại dựa trên những tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất: lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực.
- Căn cứ vào phương thức đo lường: lãi suất đơn, lãi suất kép, lãi suất hiệu quả
và lãi suất hoàn vốn.

13


- Căn cứ vào tính chất khoản vay
Bao gồm những loại lãi suất cơ bản nhất được ngân hàng áp dụng cho khách
hàng khi muốn vay tín dụng.
Lãi suất cơ bản: được áp dụng chung, làm cơ sở để ấn định các mức lãi suất
phát sinh cho các dịch vụ tín dụng khác của ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng: lãi suất sinh ra mà ngân hàng phải trả
cho khách hàng sử dụng dịch vụ tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng.

Lãi suất cho vay ngân hàng (lãi suất tín dụng): người vay tiền phải trả cho
ngân hàng khi vay. Được chia thành nhiều mức lãi dựa theo hình thức vay là vay
kinh doanh, trả góp, vay qua thẻ tín dụng, vay ngắn hạn…
Lãi suất chiết khấu ngân hàng: áp dụng khi một cá nhân xin vay dưới dạng
chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ cá giá trị. Được tính với tỷ lệ phần trăm
theo mệnh giá thương phiếu, khấu trừ ngay từ ban đầu khi nhận tiền vay.
Lãi suất tái chiết khấu: được ngân hàng Trung Ương áp dụng đối với các ngân
hàng thương mại khi cho vay tái chiết khấu dưới dạng thương phiếu và giấy tờ có
giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán.
Lãi suất liên ngân hàng: áp dụng khi cho vay trên thị trường liên ngân hàng,
giữa các ngân hàng với nhau qua quan hệ cung cầu vốn. Lãi suất liên ngân hàng
được quy định bởi Ngân hàng Trung Ương, phụ thuộc vào sự phát triển của thị
trường và tỷ trọng sử dụng vốn.
- Căn cứ giá trị thực
Dựa theo giá trị của khoản vay, người ta cũng chia lãi suất thành 2 loại.
Lãi suất danh nghĩa: được tính theo giá trị danh nghĩa, chưa bao gồm chỉ số
tác động của lạm phát và công bố trên hợp đồng tín dụng.
Lãi suất thực tế: được điều chỉnh từ lãi suất danh nghĩa, và những tác động của
lạm phát thời điểm đó.
Theo đó: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát.
- Căn cứ tính linh hoạt của lãi suất
Lãi suất cố định: Cố định trước và trong thời gian vay, có thể biết trước để

14


người vay tiền có thể quyết định vay hay không. Tuy vậy lãi suất cố định lại hạn
chế khi không được thay đổi trong thời gian mặc cho những biến động của lãi suất
thị trường.
Lãi suất thả nỗi: Ngược lại với lãi suất cố định, khi có thể thay đổi tùy theo lãi

suất thị trường trong thời hạn vay tín dụng. Nhược điểm là có thể nhận rủi ro, nhưng
cũng có khi có lợi.
- Căn cứ loại tiền cho vay
Lãi suất nội tệ: lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ.
Lãi suất ngoại tệ: lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.
- Căn cứ nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
Lãi suất quốc gia (lãi suất trong nước): tiền đề cho mọi hình thức cho vay tín
dụng trong nước.
Lãi suất quốc tế: áp dụng với các hợp đồng tín dụng quốc tế.
- Dưới góc độ luật học, lãi suất ngân hàng được tập trung nghiên cứu ở các nội
dung sau:
+ Căn cứ vào loại hình tín dụng, lãi suất bao gồm lãi suất huy động và lãi suất
cho vay.
+ Căn cứ vào thời hạn áp dụng, lãi suất bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất
quá hạn.
+ Căn cứ vào độ ổn định của lãi suất, lãi suất bao gồm lãi suất cố định và lãi
suất thả nổi.
1.2.2.1. Căn cứ vào loại hình tín dụng
Lãi suất huy động là lãi suất mà các TCTD đưa ra khi huy động tiền gửi và
quy định tỉ lệ phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng.
Lãi suất cho vay là lãi suất mà TCTD đưa ra để thu từ người vay tiền. “Lãi
suất cho vay phải bao gồm tất cả các chi phí huy động vốn, đủ bù đắp các chi phí
quản lí và thực hiện khoản cho vay, trang trải được các loại rủi ro, lãi suất cho vay
phải chứa đựng phần lợi nhuận hợp lí” . Mặt khác, lãi suất cho vay còn chịu sự chi
phối của kì hạn vay, kì hạn càng dài lãi suất càng cao . Như vậy, lãi suất cho vay là
lãi suất tính trên số vốn mà bên vay phải trả kèm theo gốc tiền vay.

15



Lãi suất cho vay ở Việt Nam chủ yếu có ba loại là lãi suất cho vay của NHNN
đối với các TCTD, lãi suất của các TCTD với nhau và lãi suất của TCTD với khách
hàng. Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, khi nói đến lãi suất cho vay
trong HĐTD nghĩa là nói đến lãi suất của TCTD với khách hàng đi vay.
Hoạt động cho vay của TCTD được thể hiện dưới nhiều hình thức như cho vay
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn căn cứ vào thời hạn tín dụng tương ứng với từng loại
lãi suất cụ thể. Cho vay ngắn hạn (ứng với lãi suất ngắn hạn) là cho vay với thời hạn
dưới 12 tháng thường để bù bắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay trung hạn (ứng với lãi suất
trung hạn) là cho vay với thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng (một số nước là 84
tháng), phục vụ cho nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới máy
móc thiết bị, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh. Cho vay dài hạn (ứng với lãi suất dài hạn) là cho vay với thời hạn trên 60
tháng cho mục đích xây dựng nhà ở, phương tiện vận tải quy mô lớn, xây dựng các
công trình, nhà máy…
Lãi suất cho vay có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, lãi suất cho vay được phát sinh trong các hợp đồng vay tài sản.
Trong hợp đồng vay tài sản, đặc biệt là HĐTD, thỏa thuận về lãi suất là một điều
khoản tất yếu, đó là cơ sở để tính phần giá trị tăng thêm mà TCTD được nhận từ
khoản cho vay, cũng chính là một phần thu nhập của TCTD.
Thứ hai, lãi suất cho vay không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ hình
thành do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số tiền vay. Bản chất
của lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức thu được trong một thời gian với
tổng số vốn bỏ ra cho vay trong cùng thời gian đó, như vậy chỉ tồn tại tỉ lệ phần
trăm này khi tồn tại số tiền gốc mà các bên thỏa thuận.
Thứ ba, lãi suất không chỉ được xác định dựa trên số vay gốc và thời hạn vay
mà còn dựa trên khả năng tài chính và uy tín của khách hàng. Khách hàng vay được
áp dụng lãi suất thực tế tại thời điểm đó, tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời
hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.


16


Thông thường thời gian vay càng dài lãi suất càng cao, nếu khách hàng có khả năng
tài chính mạnh, uy tín cao hoặc thuộc diện cho vay ưu đãi thì sẽ được ưu đãi lãi suất
thấp hơn lãi suất cho vay hiện tại.
1.2.2.2. Căn cứ vào thời hạn áp dụng
Dù cho vay ở hình thức nào thì TCTD cũng đều đưa ra mức lãi suất trong hạn
và lãi suất quá hạn. Hai mức lãi suất này không chỉ có ý nghĩa đối với việc xác định
nghĩa vụ trả lãi của khách hàng vay mà còn đóng vai trò quan trọng khi cơ quan
chức năng giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Lãi suất trong hạn không được quy định cụ thể về khái niệm trong văn bản
pháp luật, nhưng có thể hiểu là lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng dùng làm căn cứ
để tính giá trị lãi mà khách hàng vay phải trả cho TCTD tính trên số tiền đã vay
tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
Lãi suất quá hạn chỉ phát sinh khi tồn tại khoản nợ quá hạn. Do đó, trước khi
tìm hiểu về lãi suất quá hạn, có hai vấn đề cần quan tâm là nợ quá hạn và thời điểm
chuyển khoản nợ từ trong hạn sang quá hạn.
Theo khoản 5 Điều 2 Thông tư số 22/2014/VBHN-NHNN ngày 04/06/2014
của Thống đốc NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro
trong hoạt động ngân hàng của TCTD, nợ quá hạn được xác định là khoản nợ mà
một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Mặt khác, tại Khoản 2 Điều
13 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng thì nợ quá hạn là những khoản
nợ mà khi đến thời hạn trả nợ gốc hoặc lãi khách hàng không trả nợ đúng hạn và
không được điều chỉnh kì hạn nợ gốc hoặc lãi, không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi.
Trước đây, tại Khoản 2 Điều 13 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN quy định “khi đến thời hạn trả nợ gốc hoặc lãi
(cuối ngày đến hạn trả nợ) mà khách hàng không đủ hoặc trả nợ không đúng hạn thì
NHTM chuyển toàn bộ số dư nợ của khoản vay sang nợ quá hạn” . Tuy nhiên, quy
định này đã bị bãi bỏ bởi Điều 4 Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày

03/02/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay ban hành
kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN. Theo đó, thời điểm chuyển nợ quá

17


hạn được xác định như sau: “Đối với khoản nợ vay không trả đúng hạn, được
TCTD đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ
cấu lại thời hạn trả nợ thì số dư nợ gốc của HĐTD đó là nợ quá hạn và TCTD thực
hiện các biện pháp để thu hồi nợ, việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi
vốn vay do hai bên thoả thuận trên cơ sở quy định của pháp luật.”
Với quy định như vậy về nợ quá hạn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 468
BLDS năm 2015, trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất
được xác định bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật
này. Theo quy định này mức lãi suất trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp
sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).
So với quy định tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không
rõ về lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ
bản do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả
nợ. Theo quy định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy,
mức lãi suất trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định
của BLDS năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước
và mức lãi lớn hơn so với quy định của BLDS năm 2005.
Việc thay đổi này đã giải quyết được mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1
Điều 476 BLDS năm 2005 với Điều 1 của Thông tư số 07/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam
theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Theo quy định tại Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và khoản 2
khoản 3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, trong điều kiện bình thường,
lãi suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận, không có

trần lãi suất.
Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, trước đây tại khoản 4 và khoản 5 Điều 474
BLDS năm 2005 quy định:
“4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ
hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi

18


suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại
thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không
đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
Nay theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc
trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với
thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ
thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời
hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Nhìn chung, lãi suất quá hạn thường cao hơn lãi suất trong hạn do được áp
dụng đối với người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn trả nợ. Sau thời hạn mà bên
vay không trả hoặc trả không hết số tiền vay thì bên cho vay có quyền tính lãi dựa
trên lãi suất quá hạn theo như thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Thêm

vào đó, việc trả lãi trước hoặc sau thời hạn vẫn có thể coi là đúng hạn và phải tính
bằng lãi suất trong hạn. Đó là các trường hợp do sự kiện bất ngờ hay sự kiện bất khả
kháng mà bên vay không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình đúng hạn hoặc
được bên cho vay chấp nhận không phải trả lãi quá hạn khi quá thời hạn vay.
Như vậy có thể thấy rằng hiện nay cùng tồn tại hai quy định khác nhau về lãi
suất đối với khoản nợ quá hạn, và việc áp dụng quy định nào còn phải được xem xét
về giá trị pháp lí của văn bản. Thực tế các bên tham gia quan hệ tín dụng và cơ quan
có thẩm quyền áp dụng văn bản nào sẽ được phân tích cụ thể tại phần 2.1.3.

19


1.2.2.3. Căn cứ vào sự ổn định của lãi suất
Khi thỏa thuận lãi suất trong hạn, các bên có thể thỏa thuận lãi suất cố định
hoặc lãi suất thả nổi.
Lãi suất cố định là lãi suất được ấn định một mức cụ thể trên HĐTD,
không chịu tác động của những biến động lãi suất thị trường. Lãi suất này
không thay đổi trong suốt thời gian vay vốn tại TCTD, thông thường áp dụng
trong cho vay ngắn hạn.
Lãi suất thả nổi là lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kì, biến đổi theo thời
gian. Mức điều chỉnh và kì điều chỉnh lãi suất sẽ theo thỏa thuận giữa khách hàng
và TCTD và được quy định rõ trong HĐTD. Thông thường lãi suất thả nổi được áp
dụng trong cho vay trung và dài hạn.
1.2.3. Vai trò của lãi suất
Một trong những vai trò của lãi suất giúp ngân hàng thương mại có lợi nhuận,
tăng trưởng, và cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác. Bên cạnh đó lãi suất
còn thực hiện điều chỉnh lượng cung ứng tiền, từ đó tác động đến sự tăng giảm sản
lượng để thực hiện điều tiết nền kinh tế (ổn định lạm phát, công ăn việc làm và phát
triển sản xuất). Lãi suất tín dụng tác động tới tổng cung và tổng cầu thông qua tác
động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đến tiêu dùng và tiết kiệm của

dân cư. Khi lãi suất tín dụng tăng cao, người dân sẽ hạn chế tiêu dùng, gửi tiết kiệm
nhiều hơn và doanh nghiệp sẽ thận trọng trong các hoạt động đầu tư vì vậy tổng cầu
và tổng cung đều có xu hướng giảm. Ngược lại, lãi suất tín dụng hạ thấp khuyến
khích tiêu dùng, các khoản gửi tiết kiệm sẽ hạn chế hơn trong khi đó doanh nghiệp
có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, tổng cung và tổng cầu đều có xu
hướng tăng cao. Lãi suất tín dụng được sử dụng làm công cụ điều hòa cung cầu
ngoại tệ, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Nâng cao lãi suất tín dụng
sẽ hút ngoại tệ vào trong nước làm tăng cung ngoại tệ. Hạ thấp lãi suất tín dụng sẽ
đẩy ngoại tệ ra ngoài nước, làm giảm cung và tăng cầu ngoại tệ.

20


×