Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.98 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ QUỲNH ANH

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MẠNH HÙNG

HÀ NỘI, 2019
1


LỜI CAM OAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan

Trần Thị Quỳnh Anh


MỤC LỤC


MỞ ẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ ........................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự ....................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm
hình sự ......................................................................................................................... 18
Chương 2. THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH THÁI NGUYÊN ..................... 34
2.1. Khái quát thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Thái Nguyên ......... 34
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 36
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 47
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC .. 61
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ .............................................................. 61
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm . 61
3.2. Tăng cường việc triển khai, áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
về kháng nghị phúc thẩm ............................................................................................ 62
3.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; công tác thanh tra,
kiểm tra trong nội bộ ngành Kiểm sát, trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm . 64
3.4. Nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên về
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ...................................................................... 68
3.5. Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thái
Nguyên ........................................................................................................................ 71
3.6. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc giải
quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự .......................................................................... 73
3.7. Tăng cường công tác kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án ................. 74
3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chính sách chế độ đối với cán
bộ, Kiểm sát viên ......................................................................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT T T

BLTTHS

: ộ luật Tố tụng hình sự

BLHS

: ộ luật Hình sự

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

TAND

: Tòa án nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKS

: Viện kiểm sát



MỞ ẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều này đã được quy định cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và
Khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Kể từ khi thành lập đến nay, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được nhiều
kết quả tích cực trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp, góp phần đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm
và làm oan người vô tội. Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố thông qua việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đồng thời, VKSND còn thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án với một quyền năng pháp lý
quan trọng là kháng nghị phúc thẩm. Quyền năng này được quy định trong ộ
luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị
những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng
cấp và cấp dưới trực tiếp, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm
pháp luật nghiêm trọng các quy định của Luật hình sự, Tố tụng hình sự hoặc
sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng từ khi khởi tố
vụ án hình sự đến truy tố, xét xử có vi phạm pháp luật cả về hình thức và nội
dung. Viện kiểm sát kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án

1



theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp
sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định có vi phạm.
Trong những năm qua công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã có những chuyển biến tích cực, đa số
các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ, lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp
lý chính xác, tính tranh tụng trong kháng nghị đã được nâng lên. Do vậy, tỷ lệ
kháng nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo vệ cũng cao hơn, số lượng kháng
nghị năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát còn nhiều hạn chế chưa phát
huy được hết chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Công tác kiểm sát bản án, biên
bản nghị án, biên bản phiên tòa và các tài liệu khác thực hiện chưa tốt, dẫn
đến vi phạm của cấp sơ thẩm không bị phát hiện, mặt khác do trình độ nhận
thức của Kiểm sát viên không đầy đủ, chất lượng bản kháng nghị chưa đạt,
nên có nhiều quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát ban hành
chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án Viện kiểm sát phải rút kháng nghị, tỷ lệ
kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm
phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. Công tác kháng
nghị phúc thẩm chưa thật sự được quan tâm đúng mức nên chưa phát huy
được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngành trong quá trình giải quyết án
hình sự.
Với mong muốn từ quá trình nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về
kháng nghị phúc thẩm hình sự nói chung va kháng nghị phúc thẩm hình sự từ
thực tiễn tỉnh Thái Nguyên nói riêng, qua đó tìm ra nguyên nhân và kiến nghị
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm thời gian
tới, học viên lựa chọn đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sỹ luật
học của mình.

2



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về chế định kháng nghị phúc
thẩm hình sự dưới nhiều góc độ, phương diện khác nhau, cụ thể:
- Các công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận về kháng nghị
phúc thẩm hình sự: GS. TS Võ Khánh Vinh (2004), ình luận khoa học ộ
luật TTHS, Nxb. Công an nhân dân; TS. Phạm Mạnh Hùng (2018), ình luận
khoa học

ộ luật TTHS, Nxb Lao động; Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo

trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; Đinh Văn Quế
(2007), Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, Tạp
chí Kiểm sát (số 15); Ngô Thanh Xuyên (2012), Bàn về khái niệm kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm hình sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 6)…
- Các công trình nghiên cứu về những bất cập, hạn chế trong các quy
định pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự: Hoàng Thị Minh Sơn
(2013), Một số bất cập trong quy định của Bộ luật TTHS về kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, Tạp chí Luật học (số 8); Mai Thanh Hiếu (2015), Khái
niệm hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Luật học (số 1)…
- Các công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng
nghị phúc thẩm hình sự: Vũ Đức Thành (2010), Đôi điều rút ra qua thực hiện
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ninh, Tạp chí Kiểm sát (số 16); Lê Thành Dương (2014), Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự, VKSND tối cao…
- Các công trình nghiêm cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự: Ngô Thanh Xuyên, Đỗ Mạnh Phương
(2014), Hoàn thiện các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành, Tạp chí Kiểm sát (số 17); Nguyễn Thị Lan


3


(2017), Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Tạp chí Kiểm sát (số 3)…
Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu về kháng nghị phúc
thẩm hình sự đã có sự phân tích, đánh giá ở những phương diện khác nhau,
tuy nhiên thường chỉ tập trung giải quyết một hoặc một vài nội dung nhất định
mà chưa có bài viết nào đi sâu nghiên cứu, phân tích về chế định kháng nghị
phúc thẩm ở cả phương diện lý luận và thực tiễn công tác này của VKSND
hai cấp tỉnh Thái Nguyên.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn lựa chọn vấn đề phân tích, đánh
giá về những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế trong công
tác kháng nghị phúc thẩm; lý giải những yếu tố ảnh hưởng và đê xuất những
giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc
thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục đích đánh giá khách quan, toàn diện công tác
kháng nghị phúc thẩm, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự
của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào thực hiện
những nhiệm vụ chính như:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát.
- Phân tích, đánh giá toàn diện việc thực hiện pháp luật và thực tiễn
công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. Từ

đó, nêu lên được những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong

4


việc thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm và chỉ ra nguyên nhân của tồn
tại, hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và của
VKSND tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn đi vào nghiên cứu các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS, có sự so
sánh đối chiếu giữa

LTTHS năm 2003 với

LTTHS năm 2015; Luật tổ

chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu toàn diện thực trạng công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên trong thời gian
từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận là phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, lịch sử cụ thể, hệ thống, thống kê, so sánh – đối chiếu…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, đồng thời đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận
về thủ tục phúc thẩm.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần đánh
giá thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong 05 năm vừa qua

5


và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai
cấp tỉnh Thái Nguyên.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị
phúc thẩm hình sự
Chương 2: Thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự của viện kiểm sát nhân
dân hai cấp tỉnh thái nguyên
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự

6


Chương 1
NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ
1.1.


Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự

1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự
Theo khoản 1, Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(CHXHCN) Việt Nam năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Khoản 1, Điều 2, Luật tổ chức VKSND
năm 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp.
VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền
công tố. Hoạt động này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố để bảo vệ quan điểm truy tố theo cáo trạng, bảo
đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, VKSND còn
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu xét thấy bản
án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng thì Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp hoặc cấp trên trực
tiếp sẽ sử dụng một quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên
tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm, đó là quyền kháng nghị
phúc thẩm hình sự.

7


Khoản 1, Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Trường
hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong

hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con
người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền
phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp luật”. Như
vậy, kháng nghị là một quyền năng pháp lý quan trọng của VKS khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “kháng nghị” là bày tỏ ý kiến
chống lại điều đã quyết nghị [20, tr. 894]; “phúc thẩm” là xét lại những vụ án
do Tòa án dưới đưa lên [20, tr. 1087].
Theo Từ điển Luật học, “kháng nghị” của VKS là việc VKS khi thực
hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một
phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền
làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét
xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án
được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [8, tr. 731]; “Kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm” chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra
bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có
quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm.
Từ đó, có thể hiểu kháng nghị là hành vi tố tụng của VKS, thể hiện việc
không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, với
mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan, công bằng
đồng thời khắc phục, sửa chữa những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa
án [3].
Điều 232 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định:
“Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng

8


nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Điều 36


LTTHS năm 2003

quy định: “…2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: i) Kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm các bản án, quyết định của Tòa án”.
Khoản 2, Điều 41

LTTHS năm 2015 quy định Viện trưởng VKS có

quyền: “o) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này”.
Khoản 3, Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây: d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật”.
Như vậy, pháp luật đã quy định rõ khi xét thấy những bản án và quyết
định sơ thẩm của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS cùng
cấp và VKS cấp trên trực tiếp có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Kháng
nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý quan trọng, xuất phát từ chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực
hình sự của VKS và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự
nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử. Theo nội dung của nguyên tắc này, một
vụ án có thể được xét xử qua hai cấp, từ đó những vấn đề của vụ án sẽ một lần
nữa được xem xét, phân tích, đánh giá, làm cơ sở cho các phán quyết của Tòa
án đảm bảo độ chính xác, khách quan cao hơn. Thông qua hoạt động xét xử
vụ án hình sự qua hai cấp xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm có thể kịp thời sửa
chữa những sai lầm, thiếu sót trong những bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm. Đồng thời, việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ

giúp tìm ra nguyên nhân của những sai lầm hay những vi phạm pháp luật

9


trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị của VKS
không phải chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cụ thể, kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục
giám đốc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu kháng
nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục tái thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì
gọi là kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi
nghiên cứu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm
hình sự.
Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được đề cập nhiều trong
khoa học pháp lý nước ta. Tuy nhiên, trong LTTHS hiện hành, các văn pháp
pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học vẫn
chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất về khái niệm “kháng nghị phúc thẩm
hình sự”. Có tác giả cho rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý
được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp
luật, nghiêm minh và kịp thời [11]. Quan điểm khác lại định nghĩa kháng nghị
phúc thẩm là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng
pháp luật [21].
Trên cơ sở phân tích nội dung, đặc điểm, đặc trưng, mục đích của

kháng nghị phúc thẩm hình sự, nghiên cứu các tài liệu có liên quan cũng như
tiếp thu các quan điểm của các nhà khoa học về tố tụng hình sự, tác giả đưa ra

10


định nghĩa về kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm
hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân
thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. Qua đó nhằm bảo đảm việc xét xử
của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, việc xét xử nghiêm minh, kịp
thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự có một số đặc điểm
cơ bản như sau:
- Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước
giao cho VKSND. Đây là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS đã được
quy định tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm
2013 và được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND năm 2014. Thông qua
công tác kháng nghị, VKS đồng thời thực hiện được chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền
công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.
ên cạnh chức năng thực hành quyền công tố thì VKS còn có nhiệm vụ
quan trọng khác trong tố tụng hình sự, đó là chức năng kiểm sát các hoạt động

tư pháp. Theo đó, VKS sẽ kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay
từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

11


và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự cho đến khi thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hai chức năng này của VKS được thực
hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự và thông qua
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm,
VKS phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS có quyền
kháng nghị phúc thẩm. Điều 23 LTTHS năm 2003, nay là Điều 20 LTTHS
năm 2015 quy định trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể “Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật
đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô
tội”. Như vậy, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa
án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, pháp
nhân phạm tội; khi kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị đối
với bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
- Hoạt động kháng nghị phúc thẩm xuất hiện khi VKS nhận thấy có
những “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” trong bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp. Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá
mức độ vi phạm pháp luật của bản án, quyết định như thế nào? Có quan điểm

cho rằng, khi đánh giá mức độ vi phạm thì chỉ cần xác định bản án, quyết
định có sự vi phạm pháp luật là đã có căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Mặt
khác, Điều 32 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC

12


ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao nêu căn cứ để kháng nghị phúc thẩm là
có “vi phạm pháp luật”, tức là vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung
(luật hình sự) và vi phạm pháp luật hình thức (luật tố tụng hình sự).
Tuy nhiên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ mức độ vi
phạm làm căn cứ cho việc kháng nghị phúc thẩm phải là “vi phạm pháp luật
nghiêm trọng”. Cụ thể Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định
VKSND có quyền kháng nghị, kiến nghị. Theo đó, quyền kháng nghị được
thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”,
xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị; quyền
kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật ít
nghiêm trọng” không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh
người vi phạm pháp luật. Như vậy, không phải đối với vi phạm pháp luật nào
trong hoạt động tư pháp VKS cũng ban hành kháng nghị mà kháng nghị của
VKS chỉ được ban hành đối với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
- Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật. Hoạt động kháng nghị là một trong những căn cứ
để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều
230


LTTHS 2003 nay là Điều 330

LTTHS 2015 thì xét xử phúc thẩm là

một thủ tục tố tụng hình sự, tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. Xét xử phúc thẩm góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót

13


có thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, một bản án, quyết
định sơ thẩm sẽ được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm khi có đủ hai điều
kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Kháng nghị phúc thẩm góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ
bản của tố tụng hình sự là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được
bảo đảm. Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Sau
khi vụ án được xét xử phúc thẩm thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực
pháp luật và được đưa ra thi hành, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết
định đó có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Còn
giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục “xét
lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (đối với thủ tục giám

đốc thẩm) hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết
định đó (đối với thủ tục tái thẩm).
- VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Ở thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm do tính chất “xét lại” bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là
đặc biệt nên thẩm quyền kháng nghị đã được giới hạn. Theo đó, thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về VKSND tối cao, TAND tối
cao, Tòa án quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, VKSND
cấp cao và TAND cấp cao; thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ

14


có Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung
ương và Viện trưởng VKSND cấp cao.
Từ những phân tích trên về đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự
có thể thấy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà
Nhà nước giao cho VKSND. Kháng nghị phúc thẩm hình sự được VKS cùng
cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp thực hiện khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm
nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp
dưới, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, đồng thời
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước.
1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm hình sự
- Việc quy định và thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình
sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quy định này góp phần quan trọng vào việc thực
thi pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của mình, VKS sẽ phát
hiện kịp thời những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, từ đó ban hành kháng
nghị nói chung và kháng nghị phúc thẩm nói riêng làm căn cứ bảo đảm hoạt
động xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo
đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích
hợp pháp của những người tham gia tố tụng, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội.
- Việc quy định và thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm là căn cứ
quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm có mục đích là
kiểm tra lại tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và xét xử lại vụ án

15


về mặt nội dung. Từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và
của công dân được bảo vệ; những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử
của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục, sửa chữa; pháp luật được hướng dẫn,
giải thích và áp dụng thống nhất.
- Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp của VKS. Việc phát hiện ra những vi phạm để ban
hành kháng nghị và yêu cầu Tòa án xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm sẽ
góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh, được áp dụng và thực thi thống nhất. Thật vậy, hiểu được
tầm quan trọng của khâu công tác này, trong những năm quan Viện trưởng
VKSND tối cao đã ban hành nhiều Chỉ thị về tăng cường công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự. Trên cơ sở đó đã tạo nhiều chuyển biến mới đối với công

tác này trong ngành Kiểm sát nhân dân.
1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm hình sự
Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm là sự phát sinh việc thực hiện thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem
xét và quyết định của tòa án trong giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng
kháng nghị theo quy định của pháp luật với điều kiện kháng nghị phúc thẩm
hợp pháp về đối tượng, chủ thể, thời hạn, hình thức và thủ tục kháng nghị.
Hiệu lực của kháng nghị là bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc thực
hiện đúng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ
án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay vi
phạm về pháp luật trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thích

16


hợp để sửa chữa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, nâng cao trách
nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án. Việc Tòa án cấp
phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm chính là hình thức hướng
dẫn áp dụng pháp luật của Tòa án phúc thẩm đối với Tòa án sơ thẩm, bảo đảm
tính thống nhất trong việc áp dụng, thi hành pháp luật, góp phần nâng cao
chất lượng xét xử và phòng ngừa sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm.
1.1.5. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự
Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp là các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Quyền
kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp là quyền độc lập chứ không phải chỉ
bổ sung cho quyền kháng nghị của VKS cấp dưới. Trong trường hợp kháng
nghị của VKS cấp dưới và VKS cấp trên trực tiếp có nội dung bổ sung cho
nhau thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cả hai quyết định kháng nghị. Trong
trường hợp kháng nghị của VKS cấp dưới và cấp trên trực tiếp có nội dung

mâu thuẫn nhau mà VKS cấp dưới không rút kháng nghị của mình, VKS cấp
trên trực tiếp không rút kháng nghị của VKS cấp dưới thì Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ xem xét kháng nghị của VKS cấp trên trực tiếp.
1.1.6. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm là khoảng thời gian cần thiết theo quy
định của pháp luật để VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp thực hiện việc
kháng nghị. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm tính từ thời điểm bắt đầu đến
thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị. Để xác định thời điểm bắt đầu thời
hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày được xác định, tùy từng trường hợp
ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án, ra quyết định hoặc ngày bản án,
quyết định sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết. Để xác định thời điểm kết
thúc thời hạn kháng nghị, pháp luật quy định ngày cuối cùng của thời hạn.
Trong trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ theo quy định của

17


pháp luật thì thời hạn kháng nghị được kéo dài đến hết ngày làm việc đầu tiên
tiếp theo của ngày nghỉ đó.
Sự kết thúc thời hạn kháng nghị có hậu quả tước bỏ quyền kháng nghị
phúc thẩm của VKS, làm cho bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật. Vì vậy, kháng nghị quá hạn là kháng nghị vô hiệu, trừ trường hợp có lí
do chính đáng và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Lí do chính đáng
của việc kháng nghị quá hạn là trường hợp do trở ngại khách quan không thể
vượt qua, chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm tuyệt đối không thể thực
hiện việc kháng nghị trong thời hạn luật định.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng
nghị phúc thẩm hình sự
1.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 24
tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 13,
một trong những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc hình thành nền tư
pháp xét xử của chế độ mới. Theo đó, chế độ hai cấp xét xử đã được bảo đảm
và “quyền chống án” đã được ghi nhận cho những chủ thể tố tụng khác nhau.
Cụ thể, tại Điều 54 Sắc lệnh số 13 quy định: “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện
lý có quyền chống án lên Tòa thượng thẩm”.
Sau đó, thuật ngữ “kháng nghị” chính thức được ghi nhận vào năm
1957, tại điểm c Điều I mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5 tháng 12 năm
1957 của ộ Tư pháp về tổ chức và phân công nội bộ của Tòa án. Theo đó,
Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của ộ Tư pháp, có nhiệm vụ theo dõi việc
xét xử và hòa giải tòa án nhân dân có hợp pháp không, kháng nghị đối với các
bản án hoặc nghị quyết của tòa án xét không đúng pháp luật [1].

18


Đến năm 1959, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa có những quy định về hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 15/7/1960,
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, quy định một cách cụ thể về hệ thống tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Trong đó, Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960 đã quy định VKSND tối cao và các VKSND địa phương
có một quyền quan trọng, đó là “kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới một cấp”.
Kế thừa những quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960, ngày 04/7/1981, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Theo đó, Điều 13 của Luật quy
định khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có quyền “kháng

nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi
phạm pháp luật”. Như vậy, quy định này của điều luật đã chính thức ghi nhận
thuật ngữ “kháng nghị phúc thẩm”.
Tiếp đó, Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được
Quốc hội thông qua ngày 02/4/2002 tiếp tục quy định: “Khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm… các bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Đến Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014 đã quy định
cụ thể tại Điều 18 của Luật, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết
định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người
phạm tội”. Và Điều 19 của Luật quy định khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự,

19


VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn “kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án
có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”.
Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử, quy định về kháng nghị phúc thẩm
hình sự về hình thức có những tên gọi khác nhau, từng bước đã có sự thay
đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn, dần đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKS. Có thể nói, chế định kháng
nghị phúc thẩm hình sự đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với
tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Trong pháp luật tố tụng hình sự, khi

LTTHS chưa được ra đời, các


quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo

ản hướng

dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC
ngày 02/10/1974 của TAND tối cao. Sau đó, khi

LTTHS ra đời, chế định

kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, Chương XXII,
các Điều 206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của

LTTHS năm 1988. Đến

LTTHS 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, Chương XXIII,
các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237, 238, 239. Theo đó, cả hai ộ luật trên
đều quy định Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm; kháng nghị được
thể hiện bằng văn bản, có nói rõ lý do và được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm;
thời hạn kháng nghị là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (theo

LTTHS 1998)

hoặc 15 ngày đối với VKS cùng cấp, 30 ngày đối với VKS cấp trên trực tiếp,
kể từ ngày tuyên án (theo LTTHS 2003). Đồng thời, quy định rõ về hậu quả
của kháng nghị cũng như thủ tục thông báo về việc kháng nghị, bổ sung, thay
đổi, rút kháng nghị.
Kế thừa những quy định trên, LTTHS năm 2015 tiếp tục quy định về
chế định này tại Chương XXII ở các Điều 336, 337, 338, 339, 342, 343. Từ
những quy định trên, có thể thấy rằng, từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam


20


Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự đều có những quy
định nêu rõ chỉ có VKS mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự.
1.2.2. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.2.2.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm
Theo quy định tại khoản 1, Điều 336 LTTHS năm 2015 thì VKSND
cùng cấp với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKSND cấp trên
trực tiếp của VKSND đó có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án
hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Người có thẩm quyền
quyết định việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS
(quy định tại Điều 41 LTTHS 2015).
Điều 36 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
các vụ án hình sự (ban hanh kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC
ngày 18/12/2017của Viện trưởng VKSND tối cao) đã nêu cụ thể: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của
TAND cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của TAND cấp huyện, cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND cấp cao kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định về hệ thống
VKSND gồm có 04 cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (VKSND cấp tỉnh), VKSND huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (VKSND cấp huyện). Sau khi

Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về việc thi hành

21


×