Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN HÀNG ĐA CẤP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.82 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ĐAN MẠCH

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN HÀNG ĐA CẤP THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ĐAN MẠCH

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN HÀNG ĐA CẤP THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Quý thầy cô Học viện Khoa học xã hội, đặc
biệt em xin cảm ơn Thầy Bùi Nguyên Khánh – Phó giáo sư Tiến sĩ đã hướng
dẫn tận tình, thường xuyên động viên, khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất giúp tác
giả hoàn thành công trình nghiên cứu này. Trân trọng gửi đến Thầy Cô lời cảm
ơn sâu sắc.
Em xin cảm ơn Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh và Thư viện
Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho em được tiếp
cận với những tài liệu tham khảo quan trọng và bổ ích.
Em xin cảm ơn các anh/chị, bạn – những người đã động viên em về mặt
tinh thần trong suốt thời gian em hoàn thành Luận văn.
Xin cám ơn,
Ngày 24 tháng 8 năm 2019
Tác giả

VÕ ĐAN MẠCH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn của PGS.TS Bùi Nguyên Khánh. Những luận điểm, ý tưởng, nhận
xét đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, các cơ quan tổ chức, tác giả khác
sử dụng trong bài viết đều đã được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ.
Ngày 24 tháng 8 năm 2019
Tác giả

VÕ ĐAN MẠCH


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT............................................................................
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: .................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN
HÀNG ĐA CẤP ............................................................................................... 8
1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp và điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp ..... 8
1.1.1. Khái niệm kinh doanh theo phương thức đa cấp .................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của bán hàng đa cấp .............................................................. 10
1.2. Pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp ................................ 14
1.2.1. Về chủ thể tham gia họat động BHĐC ................................................. 14
1.2.2. Điều kiện về vốn pháp định .................................................................. 16
1.2.3. Điều kiện về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong kinh doanh đa cấp ...... 17
1.3. Kinh nghiệm quốc tế điều chỉnh pháp luật về điều kiện kinh doanh BHĐC
18
1.3.1. Pháp luật Trung Quốc ........................................................................... 18
1.3.2. Pháp luật Malaysia ................................................................................ 20
1.3.3. Pháp luật Hoa Kỳ .................................................................................. 21
CHƯƠNG 2: .................................................................................................. 28
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN
HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHI MINH .................................................................... 28
2.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh BHĐC ở Việt Nam hiện nay
28
2.1.1. Nội dung pháp luật về điều kiện kinh doanh BHĐC ............................ 28
2.1.2. Chế tài và xử lý vi phạm điều kiện kinh doanh BHĐC ........................ 42


2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh Bán hàng đa cấp tại
TP. Hồ Chí Minh ............................................................................................ 46

2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh Bán hàng đa cấp ở
Việt Nam ......................................................................................................... 46
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp ở
TP. Hồ Chí Minh ............................................................................................. 51
CHƯƠNG 3: .................................................................................................. 61
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
......................................................................................................................... 61
3.1. Phương hướng hoàn thiện ........................................................................ 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện ................................................................................ 63
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện
kinh doanh theo PTĐC .................................................................................... 63
3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung
và hoạt động KDĐC nói riêng trên các phương tiện truyền thông đại chúng 68
3.2.3. Nâng cao năng lực trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lý và xử lý các
vi phạm liên quan đến điều kiện kinh doanh đa cấp của doanh nghiệp.......... 68
3.2.4. Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung
ương - cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương – doanh nghiệp ................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
PHỤ LỤC ........................................................... Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHĐC

:

Bán hàng đa cấp


CTĐTCB

:

Chương trình đào tạo cơ bản

KDĐC

:

Kinh doanh đa cấp

KDTM

:

Kinh doanh theo mạng

PTĐC

:

Phương thức đa cấp

TP. HCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh


UBND

:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động bán hàng đa cấp đã manh nha xuất hiện từ rất lâu trên thế giới,
bắt đầu từ những năm 1934 khi công ty bán hàng đa cấp đầu tiên “Vitamins
California” được thành lập tại Mỹ cho tới thời điểm hiện tại đã có rất nhiều tập
đoàn, công ty bán hàng đa cấp đã ra đời, tồn tại và phát triển. Hiện nay, bán
hàng đa cấp đang dần trở thành sự lựa chọn cho nhiều doanh nghiệp áp dụng
để bán sản phẩm của mình. Các tập đoàn, công ty bán hàng đa cấp hoạt động
từ rất lâu và bây giờ đã xây dựng được hàng trăm chi nhánh ở nhiều nước trên
thế giới, phải kể đến như: Tập đoàn Amway, Avon… Cùng với sự phát triển
phổ biến rộng rãi của hoạt động bán hàng đa cấp trên nhiều quốc gia mà nhiều
quy định của pháp luật về bán hàng đa cấp đã ra đời để tạo ra những hành lang
pháp lý chặt chẽ trong việc đảm bảo quản lý và điều chỉnh loại hình kinh doanh
này phát triển một cách hợp pháp.
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp có uy tín hàng đầu thế giới
đã chứng minh cho tính ưu việt của phương thức bán hàng đa cấp trong việc
kinh doanh. Ngày 11/01/2007 với sự kiện gia nhập WTO đã đánh dấu cho sự
hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. Với chính sách phát triển để
Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng và Nhà nước đã và đang từng bước khuyến khích và tạo điều kiện
cho các thành phần xã hội phát triển bền vững và lâu dài.
Bán hàng đa cấp là phương thức giúp sản phẩm tới tay người tiêu dùng
nhanh chóng bằng hệ thống mạng lưới phân phối viên, đại diện bán hàng của

doanh nghiệp. Tại Việt Nam, phương thức bán hàng đa cấp đã và đang thu hút
rất nhiều thành phần trong xã hội tham gia và đã đạt được khá nhiều thành tựu
đáng kể cũng như đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn tổng doanh thu của
cả nước. Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừng của phương thức bán hàng đa
1


cấp với mô hình kinh doanh theo mạng, biến tướng của mô hình này xuất hiện,
đó là mô hình “hình tháp ảo” cũng đã gây ra sự phức tạp trong xã hội, kinh tế
và cản trở của chính mô hình “hình tháp ảo” này là gây ra tình trạng khó phân
biệt với mô hình kinh doanh theo mạng.
Nhằm làm rõ vấn đề này, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Điều kiện kinh
doanh bán hàng đa cấp theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực
tiễn TP. HCM” để nhận dạng bán hàng đa cấp hợp pháp và bán hàng đa cấp
bất hợp pháp ở khu vực TP. HCM bằng việc tìm kiếm những thông tin pháp
luật liên quan và thâm nhập thực tế để có được cơ sở lí luận chính xác, rõ ràng.
Đề tài này sẽ giúp nâng cao phần nào kiến thức của chúng ta về phương thức
bán hàng đa cấp, qua đó có được cái nhìn đúng đắn về phương thức kinh doanh
này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về mảng đề tài pháp luật về kinh doanh đa cấp hiện nay đã có một số
công trình nghiên cứu dưới các cấp độ như: Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ,
Khóa luận cử nhân luật nghiên cứu, hoặc các bài viết trên các bài báo khoa học,
tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học và pháp lý, Tạp
chí Lập pháp,... Có thể liệt kê một số đề tài như sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học:
- Nguyễn Thị Diệu Linh và Võ Minh Huân (2004): Một số vấn đề pháp
lý về kinh doanh đa cấp;
- Lê Thị Huyền: Thực trạng kinh doanh đa cấp ở Việt Nam và một số
đề xuất kiến nghị, Công trình dự thi nghiên cứu khoa học của sinh viên cấp

trường lần thứ 9 năm 2005;
Luận án tiến sỹ: Lê Bí Bo (2016), Quản lý nhà nước đối với hoạt động
bán hàng đa cấp ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam;

2


Luận văn thạc sỹ:
Hà Ngọc Sơn (2006), Pháp luật về kinh doanh đa cấp, Luận văn thạc sỹ,
trường Đại học Luật Tp.HCM;
Lê Bí Bo (2010), Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp,
Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật Tp.HCM;
Vũ Văn Tú (2014), Hoàn thiện pháp luật về bán hàng đa cấp tại Việt
Nam theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, Luận văn thạc sỹ, trường Đại
học Quốc gia Hà Nội – Khoa luật.
Luận văn cử nhân luật:
Trương Thị Ánh Nguyệt (2005), Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật đối
với kinh doanh đa cấp, Luận văn cử nhân, trường Đại học Luật Tp. HCM;
Trần Thị Kim Hoàng (2007), Pháp luật chống hành vi bán hàng đa cấp
bất chính, Luận văn cử nhân, trường Đại học Luật Tp. HCM;
Nguyễn Mai Sương Thảo (2006), Pháp luật về quản lý hoạt động kinh
doanh đa cấp ở Việt Nam, thực trạng và định hướng hoàn thiện, Luận văn cử
nhân, trường Đại học Luật Tp. HCM.
Báo và tạp chí:
Nguyễn Ngọc Sơn, Tính không lành mạnh của hành vi bán hàng đa cấp
bất chính theo Luật cạnh tranh 2004, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 (34)/2006;
Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật về quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp,
Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 (35)/2006;
Lê Anh Tuấn, Điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi bán hàng đa cấp

bất chính, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, tháng 7-2006;
Đoàn Trung Kiên, Đoàn Văn Bình, Pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt
Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, tháng 7-2006.
Qua các bài viết thì mỗi tác giả đều có những cách tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau khi nghiên cứu pháp luật về hoạt động kinh doanh đa cấp. Và

3


trong phạm vi Luận văn này, Tác giả xin được tiếp cận đề tài thông qua việc
phân tích các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn từ TP. HCM liên quan đến
các điều kiện kinh doanh đa cấp nhằm làm rõ những bất cập, vướng mắc và đề
xuất hướng hoàn thiện các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp mà
hiện nay chưa có đề tài luận văn thạc sỹ nghiên cứu về đề tài này. Do đó, việc
nghiên cứu của tác giả theo hướng tiếp cận này hiện nay vẫn là một vấn đề chưa
được thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp và pháp luật về điều kiện kinh
doanh bán hàng đa cấp; phân tích, đánh giá điều kiện kinh doanh bán hàng đa
cấp theo các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực thi
pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp tại TP. HCM; để từ đó đề
xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh
bán hàng đa cấp ở Việt Nam trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:
-

Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều kiện kinh


doanh bán hàng đa cấp và pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp;
-

Phân tích, đánh giá điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp theo

pháp luật Việt Nam hiện nay;
-

Phân tích, đánh giá điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp theo

pháp luật Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực thi pháp luật về điều kiện kinh
doanh bán hàng đa cấp tại TP. HCM;
-

Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều

kiện kinh doanh bán hàng đa cấp ở Việt Nam trong thời gian tới.

4


4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: điều kiện kinh doanh bán hàng đa
cấp; pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp tại Việt Nam; pháp luật
về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp của một số quốc gia trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu: hệ thống các quy định pháp luật về điều kiện kinh
doanh bán hàng đa cấp đang có hiệu lực thi hành tại Việt Nam; kiểm chứng qua
thực tiễn thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp tại TP.
HCM.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Đây là phương pháp được sử dụng chủ đạo, xuyên suốt trong toàn bộ quá
trình nghiên cứu của luận văn, hướng đến mục đích đưa ra những kết luận khoa
học đảm bảo tính khách quan, chân thực.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp tiếp cận hệ thống
đa ngành, liên ngành (kinh tế, luật học, xã hội, chính trị); phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp xã hội học pháp luật;...
Những phương pháp này được vận dụng một cách phù hợp với mục đích và nội
dung nghiên cứu của luận văn bao gồm:
Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, thu thập,
phân tích, tiếp cận đa ngành nhằm đưa ra cách nhìn tổng quan về một số vấn
đề cơ bản liên quan đến đề tài luận văn.
Ở Chương 2, tác giả chú trọng sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ những quy định của pháp luật
điều chỉnh điều kiện kinh doanh theo phương thức đa cấp, chế tài đối với hành
vi vi phạm; phân tích so sánh các quy định pháp luật hiện hành với các quy

5


định trước đây cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện kinh doanh
bán hàng đa cấp tại TP. HCM.
Ở Chương 3, tác giả vận dụng kết hợp các phương pháp lịch sử, xã hội
học pháp luật, phương pháp tổng hợp và dự báo để đưa ra phương hướng và
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với điều kiện kinh doanh bán
hàng đa cấp, đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện một số quy định hiện
hành còn bất cập hay thiếu khả thi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp và pháp luật về điều kiện kinh doanh
bán hàng đa cấp; những nghiên cứu, đề xuất của luận văn góp phần hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh bán
hàng đa cấp ở Việt Nam trong thời gian tới;
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham
khảo trong quá trình hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; tổ
chức thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp. Luận văn
cũng có thể là tài liệu giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo pháp luật về
bán hàng đa cấp.
7. Bố cục của đề tài
Luận văn có kết cấu chung gồm các phần: Phần mở đầu, Phần nội dung,
Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Bố cục Phần nội dung như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh bán hàng đa
cấp.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa
cấp ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh
bán hàng đa cấp tại thành phố Hồ Chí Minh.

6


Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện
kinh doanh bán hàng đa cấp ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH BÁN
HÀNG ĐA CẤP

1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp và điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp
1.1.1. Khái niệm kinh doanh theo phương thức đa cấp

Khái niệm kinh doanh đa cấp (Sau đây gọi tắt là KDĐC), hay còn gọi là
“Multi Level Marketing” được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:
Dưới góc độ ngôn ngữ, Multi level marketing là tiếp thị nhiều tầng, là
việc tiêu thụ hàng hóa ra thị trường với nhiều tầng, nhiều cấp khác nhau. Trong
đó, mỗi tầng sẽ bao gồm một tập hợp các chủ thể tham gia mạng lưới phân phối
các sản phẩm có vị trí giống nhau, như vậy đây là phương thức đưa sản phẩm
trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Tuy nhiên cách tiếp cận trên chưa
làm rõ khái niệm KDĐC vì các phương thức tiêu thụ sản phẩm qua các khâu
trung gian cũng sử dụng phương pháp tổ chức mạng lưới gồm nhiều tầng khác
nhau như: đại lý cấp 1, cấp 2, các cửa hàng bán lẻ… Để có thể hiểu rõ hơn về
khái niệm này ta có thể tìm hiểu các định nghĩa sau đây:
Theo Don Failla, tác giả cuốn Kinh doanh theo mạng (sau đây gọi tắt là
KDTM): Từ A đến Z thì“KDTM là một tổ chức gồm nhiều tầng, được xây dựng
nhằm lưu hành hàng hóa từ điểm sản xuất đến người tiêu dùng qua những mối
giao tiếp giữa mọi người với nhau” [21, tr.2].
Theo Richard Poe, tác giả cuốn Làn sóng thứ ba - Kỷ nguyên mới trong
ngành KDTM thì “KDTM là bất kỳ một phương pháp kinh doanh nào mà cho
phép một cá thể kinh doanh độc lập tiếp nhận vào công việc của mình các cá
thể kinh doanh độc lập khác và lấy ra được các khoản hoa hồng từ các công
việc kinh doanh của các cá thể mà họ thu hút được” [34, tr.22].
Dưới góc độ quản lý, Hiệp hội bán hàng trực tiếp Hoa Kỳ định nghĩa như
sau:

8


- Bán hàng trực tiếp bao gồm một loạt các phương pháp phân phối, trong

đó tiếp thị đa cấp là một loại phương pháp phân phối và nhận tiền thưởng.
Trong phân phối đa cấp các mẫu sản phẩm được phân phối từ một tuyến phân
phối đến những người khác và tiền thưởng được tính không chỉ dựa trên doanh
số bán sản phẩm của chính mình, mà còn được tính trên các sản phẩm bán hàng
của tuyến dưới mà mình bảo trợ [40, tr.1].
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật của bang Georgia – Hoa Kỳ định nghĩa:
- Công ty phân phối đa cấp (Multi-level distribution company) là bất kỳ
người nào, bất kỳ loại hình công ty nào tiến hành việc bán, phân phối hoặc cung
ứng hàng hóa, dịch vụ có giá trị sử dụng thông qua những đại lý, phân phối
viên, hợp tác viên độc lập ở các tầng khác nhau mà trong đó, những người tham
gia có thể tuyển dụng người khác tham gia vào mạng lưới và tiền hoa hồng,
tiền thưởng, những khoản giảm giá hoặc những lợi ích khác sẽ được chi trả từ
kết quả của việc bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ, hoặc từ kết quả làm việc của
những người tham gia mới [35, tr.5].
Ở nước ta, khái niệm KDĐC được đề cập với nhiều tên gọi khác nhau
như: truyền tiêu đa cấp, KDTM, tiếp thị đa tầng, bán hàng đa cấp (Sau đây gọi
tắt là BHĐC)… nhưng sự khác biệt này là do những cách dịch khác nhau của
thuật ngữ Multi Level Marketing. Pháp luật Việt Nam nhìn nhận KDĐC dưới
thuật ngữ là kinh doanh theo PTĐC. Theo quy định tại Nghị định 40/2018/NĐCP ngày 12/3/2018 về quản lý hoạt động kinh doanh theo PTĐC (Sau đây gọi
là Nghị định 40/2018/NĐ-CP) thì: “Kinh doanh theo PTĐC là hoạt động kinh
doanh sử dụng mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh, trong
đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác
từ kết quả kinh doanh của mình và của những người khác trong mạng lưới.”
Pháp luật Việt Nam nhìn nhận KDĐC là hình thức bán lẻ hàng hóa, và
hàng hóa ở đây là các sản phẩm hữu hình, đối tượng không phải là hàng hóa

9


đều bị cấm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, ngoại trừ các hàng hóa

sau:
a) Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao gồm
cả thuốc thú y thủy sản); thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm diệt côn
trùng, diệt khuẩn hạn chế sử dụng và cấm sử dụng trong lĩnh vực gia dụng và
y tế và các loại hóa chất nguy hiểm;
b) Sản phẩm nội dung thông tin số.
Từ những phân tích trên ta thấy rằng hai thuật ngữ KDĐC hay KDTM là
thể hiện được tương đối cụ thể và đầy đủ khái niệm Multi Level Marketing, nó
bao quát toàn bộ việc tiếp thị, bán sản phẩm cho đến việc tuyển người tham gia
xây dựng mạng lưới phân phối. Tuy nhiên, thuật ngữ KDĐC thể hiện được cụ
thể và rõ ràng hơn tính chất đa tầng của hình thức này.
1.1.2. Đặc điểm của bán hàng đa cấp

Dựa vào nội hàm các quy định của pháp luật về BHĐC, có thể chỉ ra hoạt
động BHĐC mang những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, KDĐC là một phương thức bán hàng trực tiếp, do đó nó có
những đặc điểm cơ bản của phương thức bán hàng trực tiếp:
- Nhà phân phối phải chủ động tìm đến người tiêu dùng để tiếp thị và
bán sản phẩm. Sản phẩm đến với người tiêu dùng thông qua các nhà phân phối
trực tiếp mà không thông qua thêm bất kỳ khâu trung gian nào;
- Doanh nghiệp không cần thiết phải quảng cáo trực tiếp sản phẩm, nhà
phân phối sẽ trực tiếp quảng cáo sản phẩm cho người tiêu dùng. Đồng thời,
doanh nghiệp cũng không cần lập chi nhánh, đại lý phân phối sản phẩm rộng
lớn mà chỉ cần tạo ra một hệ thống nhà phân phối rộng lớn, đồng thời trả hoa
hồng cho nhà phân phối theo khối lượng sản phẩm mà họ tiêu thụ được. Với
các khoản tiết kiệm trên, doanh nghiệp sẽ có thêm lợi nhuận và đủ khả năng chi
trả cho nhà phân phối;

10



- Nhà phân phối nhận hoa hồng và tiền thưởng dựa trên khối lượng sản
phẩm mà họ tiêu thụ được nên hiệu quả kinh doanh của họ và doanh nghiệp
không hoàn toàn gắn liền với nhau và có tính độc lập tương đối.
Thứ hai, KDĐC có những đặc điểm riêng:
- Hàng hóa được tiêu thụ theo phương thức KDĐC không phải là tất cả
các sản phẩm nói chung mà là những sản phẩm tiêu dùng có phân khúc thị
trường rộng lớn, phù hợp với mọi người và có ưu điểm vượt trội so với các sản
phẩm cùng loại trên thị trường. Don Faila nói về đặc điểm này như sau: “Trong
KDTM, chúng ta sẽ dễ dàng hơn nếu hàng của chúng ta là hàng dễ bán. Hầu
hết các công ty KDTM đều phải chọn hàng hóa dễ bán, còn khi hàng hóa thuộc
loại khó bán thì người ta đã bán qua mạng bán lẻ thông thường. Richard Poe
bổ sung thêm: sản phẩm thích hợp nhất cho các công ty KDĐC phải là những
sản phẩm đặc biệt mà người tiêu dùng ít biết đến và không thể mua ở siêu thị.
Chúng thường là sản phẩm chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp, những sản phẩm
chất lượng cao bởi vì chúng có sức thu hút và tác động đến con người” [35,
tr.9].
- Khách hàng tiềm năng trong KDĐC là những người thân quen, xuất
phát từ tính chất của KDĐC là truyền từ người này sang người khác nên khách
hàng chủ yếu là những người thân quen trong gia đình hoặc bạn bè vì chỉ họ
mới sẵn sàng lắng nghe và tin tưởng. Người này sử dụng được rồi giới thiệu
cho người khác. Mỗi một cá nhân có mối quan hệ với hàng chục, hàng trăm
thậm chí hàng nghìn người và số lượng các mối quan hệ có xu hướng tăng lên
theo thời gian, điều đó giúp cho các nhà phân phối ít khi nào rơi vào trạng thái
thiếu khách hàng tiềm năng nếu họ thật sự biết khai thác các mối quan hệ của
mình.
- Tất cả mọi người không phân biệt về trình độ, tuổi tác, giới tính đều
có thể tham gia làm nhà phân phối. Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14 tháng

11



5 năm 2014 của Chính phủ về Quản lý hoạt động BHĐC (Sau đây gọi là Nghị
định 42/2014/NĐ-CP) quy định “Người tham gia BHĐC là cá nhân có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ” [9, tr.1]. Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định
“Người tham gia BHĐC là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy
định của pháp luật” [8, tr.1]. Ngoài ra, Nghị định 40/2018/NĐ-CP cũng đã mở
rộng một số quy định so với Nghị định 42/2014/NĐ-CP về trường hợp của cá
nhân khi không được tham gia trở thành người tham gia BHĐC gồm:
a) Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất,
buôn bán hàng giả, sản xuất, buôn bán hàng cấm, quảng cáo gian dối, lừa dối
khách hàng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
chiếm giữ trái phép tài sản, tội vi phạm quy định về kinh doanh theo PTĐC;
b) Người nước ngoài không có giấy phép lao động tại Việt Nam do cơ
quan có thẩm quyền cấp trừ trường hợp được miễn theo quy định của pháp luật;
c) Người tham gia BHĐC đã từng bị xử phạt do vi phạm các quy định
tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 5 Nghị định này mà chưa hết thời hạn
được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính;
d) Cá nhân quy định tại điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị định này;
đ) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép cá nhân
được tham gia BHĐC còn doanh nghiệp hay một tổ chức bất kỳ nào khác không
được tham gia. Việc quy định nội dung này này xuất phát từ đặc điểm của
KDĐC là việc tiếp thị trực tiếp từ người này sang người khác mà chỉ có cá nhân
mới đáp ứng được tiêu chí này.
- Nhà phân phối trong KDĐC được phân thành nhiều tầng khác nhau,
trong đó người thuộc tầng trên sẽ trực tiếp giúp đỡ và đào tạo cho những người
thuộc tầng dưới. Đối với các phương thức kinh doanh khác, kể cả trong bán
hàng trực tiếp nhà phân phối không có quyền tuyển dụng và đào tạo nhà phân


12


phối mới bởi vì anh ta chỉ là người làm thuê cho doanh nghiệp, do đó nhà phân
phối sẽ không được hưởng tiền hoa hồng hoặc các lợi ích khác từ lượng sản
phẩm do những người mình đã giới thiệu tiêu thụ được, hoa hồng chỉ nhận được
từ việc tiêu thụ sản phẩm của chính mình, và thu nhập này sẽ dừng lại nếu như
nhà phân phối ngừng việc bán lẻ. Trong KDĐC, nhà phân phối có thể xây dựng
nên một hệ thống các tuyến dưới, ngoài việc bán sản phẩm để nhận được hoa
hồng họ còn có được nguồn thu nhập đáng kể từ mạng lưới phân phối viên
tuyến dưới. Khi đó, nhà phân phối sẽ làm việc và hưởng lợi như một chủ doanh
nghiệp bình thường.
Thứ ba, KDĐC là phương thức tiêu thụ hàng hóa có thể đem lại nhiều
lợi ích cho người tiêu dùng, cho người tham gia mạng lưới và doanh nghiệp.
- Đối với người tiêu dùng: KDĐC đem lại cho họ sự tiện dụng tối đa vì
được các phân phối viên phục vụ tận tình từ khâu giới thiệu cho đến việc đặt
mua và giao sản phẩm. Ngoài ra, do sản phẩm không phải lưu thông qua nhiều
khâu trung gian nên chất lượng hàng hóa ít bị giảm sút như những sản phẩm
được phân phối theo các phương thức khác.
- Đối với người tham gia: KDĐC tạo điều kiện cho tất cả mọi người có
cơ hội tăng thêm thu nhập từ mạng lưới phân phối. Điều kiện cơ bản để tham
gia mạng lưới là người tham gia phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Như
vậy, KDĐC đã góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, giúp mọi người
kể cả những người đã hết tuổi lao động như quy định của Bộ luật lao động có
cơ hội tăng thêm thu nhập chính đáng.
- Đối với doanh nghiệp: áp dụng phương thức KDĐC giúp họ giảm
thiểu tối đa chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và chi
phí thành lập, duy trì hệ thống chi nhánh, đại lý bán hàng. Với chi phí tiết kiệm
được ngoài việc doanh nghiệp chi trả hoa hồng và lợi ích cho các nhà phân
phối, doanh nghiệp có thêm nguồn kinh phí để đầu tư nâng cao chất lượng sản


13


phẩm, sáng tạo ra những sản phẩm ưu việt hơn để phục vụ xã hội ngày càng tốt
hơn.
Thứ tư, ngoài những đặc điểm tích cực nêu trên thì KDĐC cũng có những
hạn chế nhất định, cụ thể:
- Khách hàng tiềm ẩn là những người quen, dễ gây thiệt hại và làm tổn
hại đến mối quan hệ thân thiết này. Trên thực tế, việc tham gia hoạt động BHĐC
đã làm sứt mẻ, rạn nứt biết bao nhiêu mối quan hệ, điều này cũng cũng tồn tại
ngay giữa các thành viên trong cùng một gia đình với nhau.
- KDĐC không dễ dàng thành công, để tiêu thụ sản phẩm và xây dựng
mạng lưới vững mạnh đòi hỏi phải đầu tư công sức và thời gian. Do bị lôi cuốn
bởi những lời hứa hẹn sẽ đạt thu nhập cao mà không cần tốn nhiều công sức
mà nhiều người đã trở thành nạn nhân của mô hình lừa đảo dạng kim tự tháp.
- Những thiệt hại mà KDĐC gây ra là khá lớn, ảnh hưởng nặng nề cho
người tham gia, người tiêu dùng và tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Số thiệt
hại mà các doanh nghiệp KDĐC bất chính gây ra vô cùng to lớn, trong khi số
tiền ký quỹ của họ không đủ để giải quyết những hệ lụy này.
1.2. Pháp luật về điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp
1.2.1. Về chủ thể tham gia họat động BHĐC

Có rất nhiều chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật BHĐC bao gồm:
Nhà nước với vai trò quản lý, doanh nghiệp BHĐC, người tham gia BHĐC,
người tiêu dùng. Tuy nhiên, chủ thể chính tham gia quan hệ pháp luật BHĐC
đó là doanh nghiệp BHĐC và người tham gia BHĐC. Và trong phạm vi luận
văn này, Tác giả xin được phân tích rõ hơn về doanh nghiệp BHĐC và người
tham gia BHĐC.
Thứ nhất, về doanh nghiệp BHĐC

Doanh nghiệp ở đây có thể là doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra các sản
phẩm đem bán hoặc là doanh nghiệp phân phối các sản phẩm từ các thương

14


nhân khác nhau, nó có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài tùy
thuộc vào mức độ mở cửa thị trường của mỗi nước cũng như môi trường kinh
doanh nội địa. Doanh nghiệp BHĐC có thể được thành lập dưới các hình thức
khác nhau như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên, công ty cổ phần. Pháp luật mỗi quốc gia quy định về
điều kiện để các doanh nghiệp tham gia phân phối sản phẩm theo phương thức
BHĐC khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm tình hình thị trường, quy mô dân số,
quan điểm xây dựng [36, tr.16].
Theo đó, để KDĐC, phải là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam
theo quy định của pháp luật. Như vậy, chỉ có doanh nghiệp mới được đăng ký
kinh doanh BHĐC. Các tổ chức, cá nhân khác đều không được kinh doanh
BHĐC. Đây là một trong những điều kiện bắt buộc đối với chủ thể tham gia
hoạt động BHĐC.
Thứ hai, người tham gia BHĐC là một mắc xích quan trọng trong hoạt
động KDĐC của doanh nghiệp. Họ chính là cầu nối giữa doanh nghiệp BHĐC
và người tiêu dùng. Chủ thể này tham gia vào mạng lưới BHĐC thông qua hợp
đồng. Lợi nhuận của người này nhận được từ phía công ty BHĐC thông qua
việc bán hàng của chính mình và của những người khác thuộc hệ thống do mình
lập ra.
Để tham gia BHĐC, người tham gia cần đáp ứng các điều kiện về năng
lực chủ thể, cụ thể là năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự. Tuy
nhiên, không phải tất cả chủ thể có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự đều có thể trở thành chủ thể tham gia BHĐC, mà chủ thể này còn phải không
thuộc các trường hợp mà các quy định của pháp luật điều chỉnh. Nội dung này

sẽ được phân tích rõ hơn tại Chương 2 của Luận văn.
Như vậy người tham gia mạng lưới BHĐC chỉ có thể là cá nhân, còn tổ
chức không được quyền tham gia BHĐC. Có chăng, tổ chức nếu tham gia

15


BHĐC chỉ với tư cách là chi nhánh hoặc đại lý phân phối sản phẩm cho doanh
nghiệp BHĐC. Khi đó, ngoài chức năng cung ứng sản phẩm, tổ chức làm chi
nhánh hoặc đại lý còn có thể đại diện cho doanh nghiệp để xây dựng và quản
lý mạng phân phối viên. Các nhà làm luật chỉ quy định rằng cá nhân mới có
quyền tham gia mạng lưới BHĐC bởi vì xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu của
hoạt động BHĐC. Theo đó, BHĐC là phương thức tiêu thụ sản phẩm dựa vào
mối quan hệ thân quen và sự quảng cáo trực tiếp giữa phân phối viên với người
tiêu dùng. Chủ thể tham gia mạng lưới BHĐC phải là người trực tiếp sử dụng,
đánh giá chất lượng sản phẩm và dùng những hiểu biết kinh nghiệm cá nhân để
tiếp thị sản phẩm với người thân quen [1, tr.153].
Về địa vị pháp lý, người tham gia BHĐC có địa vị hết sức đặc biệt. Họ
vừa được ví như là người đại lý, nhân viên tiếp thị, vừa là nhân viên bán hàng
cũng là người vận chuyển sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Pháp luật của mỗi
quốc gia quy định những điều kiện đối với người tham gia căn cứ vào đặc điểm
nhân thân, mức độ nhận thức, mật độ dân cư, chính sách lao động [36, tr.17].
1.2.2. Điều kiện về vốn pháp định

Nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia hệ thống, người có quyền
lợi liên quan. Doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động BHĐC phải đáp ứng
điều kiện về vốn và việc ký quỹ. Theo đó, cần phải có số vốn điều lệ tối thiểu
mà pháp luật quy định để hoạt động và góp phần hạn chế rủ ro và khắc phục
những hậu quả nếu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả.
Trên thực tế, có nhiều ngành cũng quy định vốn điều lệ tối thiểu cho các

doanh nghiệp hoạt động trong ngành nhằm đảm bảo các doanh nghiệp đó có đủ
năng lực tài chính để hoạt động. BHĐC cũng là một ngành kinh doanh có điều
kiện và có tác động đến một số lượng lớn người tham gia, do vậy việc đưa ra
điều kiện về vốn là phù hợp.
Do đặc thù của hoạt động BHĐC, việc phát triển mạng lưới lớn hay nhỏ

16


đều phụ thuộc vào khả năng của những thành viên tham gia mạng lưới BHĐC.
Doanh nghiệp đóng vai trò hỗ trợ công tác phát triển mạng lưới của các thành
viên chủ chốt này như việc cung cấp tài liệu, ký hợp đồng với người tham gia
mạng lưới, cung cấp địa điểm làm việc cho người tham gia mạng lưới, cung
ứng hàng hóa cho hệ thống. Do đó, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp
với năng lực tài chính hạn hẹp sẽ không đáp ứng được yêu cầu phát triển của
hệ thống, dẫn đến hạn chế trong quá trình phát triển mạng lưới cũng như bán
hàng của người tham gia. Việc này sẽ khiến người tham gia rời bỏ mạng lưới,
chuyển sang tham gia vào mạng lưới của các doanh nghiệp khác hoạt động hiệu
quả hơn. Điều này phần nào được phản ánh thông qua các con số thống kê nêu
trên [1, tr.87].
1.2.3. Điều kiện về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong kinh doanh đa cấp

Doanh nghiệp KDĐC cần tuân thủ các điều kiện bắt buộc, cụ thể:
Thứ nhất, doanh nghiệp có trách nhiệm đào tạo người tham gia BHĐC
theo chương trình đào tạo cơ bản (Sau đây gọi tắt là CTĐTCB) đã đăng ký với
cơ quan có thẩm quyền và không được thu phí dưới bất kỳ hình thức nào. Theo
đó, doanh nghiệp cần có chương trình đào tạo người tham gia rõ ràng; bao gồm
nội dung đào tạo; thời gian đào tạo; trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ đào tạo; thời
gian và nội dung bồi dưỡng định kỳ cho người tham gia. Điều này nhằm bảo
đảm cho doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định của pháp luật về các điều

kiện trong xây dựng và tổ chức hoạt động BHĐC; tạo cơ chế vững chắc để bảo
vệ tốt nhất cho quyền lợi của người tham gia BHĐC có thể tự bảo vệ mình;
đồng thời, có thêm cơ sở để Cơ quan nhà nước thực hiện các chức năng quản
lý, giám sát và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp BHĐC cần thực hiện
trách nhiệm báo cáo tới Bộ Công Thương và Sở Công Thương nơi doanh
nghiệp có hoạt động bán hàng đa cấp về hoạt động BHĐC của doanh nghiệp,

17


các nội dung báo cáo có thể về số lượng người tham gia, doanh thu và số thuế
đã nộp của doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân của người tham gia mà doanh
nghiệp đã nộp hộ.
Điều này, một mặt, quy định rõ cho doanh nghiệp và người tham gia thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế cho nhà nước; mặt khác, ý thức rõ cho doanh
nghiệp và người tham gia BHĐC luôn nhận thức được sự quản lý giám sát chặt
chẽ của các cơ quan nhà nước đối với họat động này, nhằm nâng cao việc tuân
thủ các quy định của pháp luật của các đối tượng tham gia. [1, tr.134].
Việc quy định điều kiện như vậy góp phần giúp các doanh nghiệp BHĐC
thực hiện nghiêm túc hơn trách nhiệm báo cáo, từ đó, giúp nâng cao hiệu quả
của công tác thống kê, dự báo và quản lý.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế điều chỉnh pháp luật về điều kiện kinh doanh
BHĐC
1.3.1. Pháp luật Trung Quốc

Hoạt động BHĐC tại Trung Quốc hiện nay được điều chỉnh bởi Quy tắc
Quản lý Bán hàng trực tiếp (Regulation on Direct Selling Administration). Quy
tắc này được ban hành vào ngày 10/08/2005 và có hiệu lực thi hành ngày
01/12/2005, sửa đổi bổ sung ngày 01/03/2017. Các quy định tại Điều 4 của Quy

tắc này hạn chế sản phẩm được kinh doanh theo PTĐC bao gồm các sản phẩm
do công ty đó trực tiếp sản xuất hoặc từ công ty mẹ hoặc từ các công ty trong
tập đoàn của nó. Và các quy định này cũng yêu cầu các công ty nội địa hoặc
nước ngoài (“FIEs”), để tham gia vào hoạt động bán hàng trực tiếp ở Trung
Quốc phải nộp đơn xin cấp giấy phép bán hàng trực tiếp của Bộ Thương mại
(“MOFCOM”). Theo quy định tại Điều 7 Quy tắc Quản lý Bán hàng trực tiếp
thì muốn tiến hành đăng ký hoạt động bán hàng trực tiếp tại Trung Quốc thì
cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

18


×