Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

sáng kiến chống lưu ban bỏ học lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.3 KB, 24 trang )

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

pPHÒNG GD & ĐT TÂN CHÂU
NGHĨA VIỆT NAM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ

TRƯỜNG TH C VĨNH XƯƠNG

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Vĩnh Xương, ngày 03 tháng 12 năm 2106

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY VÀ HỌC – CHỐNG LƯU BAN, BỎ HỌC
CỦA HỌC SINH LỚP 5
I. Sơ lược lý lịch tác giả:
II. Tên sáng kiến: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.
III. Lĩnh vực: Chuyên môn

IV. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1/Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:
Trong thời đại hiện nay, thời đại mà khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển.
Cùng với công nghiệp hóa , hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã đặt ra cho ngành
giáo dục nhiều cơ hội mới nhưng cũng nhiều thách thức mới, đòi hỏi ngành giáo
dục phải đào tạo cho xã hội những lớp người có trình độ văn hóa, có trình độ tư duy
và có phẩm chất đạo đức tốt để phù hợp với tốc độ phát triển của đất nước và thế
giới. Tuy nhiên trong thực tế, giáo dục hiện nay chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
bức thiết của xã hội. Đặc biệt là các trường vùng sâu, vùng biên giới. Trường tôi
đang công tác là trường ven biên, nhận thức của các em còn rất hạn chế và một vấn


đề hết sức nóng nữa là tình trạng học sinh chán học, nghỉ học thường xuyên và có
nguy cơ bỏ học tăng dần lên. Tình trạng trên sẽ ảnh hưởng lớn đến việc dạy và học,
kiến thức tiếp thu của học sinh bị gián đoạn, tạo những lỗ hỏng kiến thức, thiếu tính
hệ thống, tính liên tục
Để nâng cao chất lượng giáo dục, đòi hỏi người giáo viên phải nổ lực hết
mình trong việc dạy và học. Là một giáo viên nhiều năm liền dạy lớp 5 ở vùng ven
biên nhiều năm, nên bản thân tôi gặp rất nhiều khó khăn về chất lượng học sinh
cũng như học sinh bỏ học giữa chừng.Trước khi áp dụng những sáng kiến, chất
lượng học tập của học sinh chưa cao, các em thường xuyên nghỉ học, đôi khi đòi bỏ
học và dẫn đến kết quả là vẫn còn học sinh lưu ban. Từ đó đưa ra những nguyên
nhân của thực trạng từ nhiều góc độ khác nhau:
1.1. Học sinh:
- Học sinh chưa có ý thức tự giác học, chưa có động cơ học tập, thiếu tích
cực , học chỉ để đối phó.
- Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong
học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin.
- Học sinh lười suy nghĩ, còn trong chờ thầy cô giáo giải giúp, trình độ tư
duy, vốn kiến thức cơ bản từ lớp dưới còn hạn chế.
- Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền.
- Năng học tập của học sinh trong lớp rất khác nhau.

1


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

- Mỗi em có một khả năng nổi trội riêng các nhưng các em chưa biết phát
huy khả năng của mình.
- Học sinh không hiểu yêu cầu cả đề bài( đây là khuyết điểm lớn nhất của
học sinh).

- Học sinh không biết làm tính, yếu các kĩ năng tính toán cơ bản cần thiết
như : cộng , trừ, nhân , chia.
- Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức.
- Kiến thức bị hỏng nhiều nên các em sợ học tất cả các môn.
1.2. Giáo viên:
- Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối
tượng, có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề, chưa khắc sâu trọng tâm.
- Sử dụng đồ dùng trực quan, tranh ảnh, sách giáo khoa còn hạn chế, chưa
khai thác hết đồ dùng dạy học.
- Chưa xử lí hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động còn
mang tính hình thức chưa phù hợp.
- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm
đối tượng còn hạn chế.
- Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi học sinh có một biểu hiện tích
cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề
chất lượng học tập của học sinh, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo cấp trên.
- Tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu tâm huyết, bệnh thành tích, không
đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.
- Giáo viên đơn thuần chỉ dạy cho hết sách, hết ý tưởng của mình mà không
chú ý đến điều kiện và khả năng tiếp thu, sự ham thích học tập của học sinh thì hoạt
động dạy học ấy khó thành công, học sinh không hứng thú, thiếu chủ động học tập
không phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học tập.
- Giáo viên chưa đổi mới cách dạy, cũng có thể do quan niệm giảng bài thật kĩ
để học sinh nắm bài mà chưa để học sinh tích cực, sáng tạo trong suy nghĩ, hoạt
động hoặc chỉ tập trung vào giảng dạy những nội dung theo chuẩn không cần dạy
nâng cao đối với học sinh có năng khiếu kể cả văn hóa và phong trào.
1.3.Phụ huynh:
- Một bộ phận phụ huynh chưa thật sự quan tâm, chăm lo và đôn đốc con em
mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô.

- Kết quả học tập của học sinh quá thấp, tỉ lệ học sinh yếu ( chưa hoàn thành) cao
…dẫn đến mất lòng tin của cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương đối với nhà
trường.
- Phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học hành của con cái. Các em
dễ bị tác động từ bên ngoài nhà trường ( tụ tập nhóm, xem phim bạo lực, game…)
trong khi gia đình chưa hiểu hết những hậu quả đó sẽ dẫn đến việc con em mình
chán học, đánh lộn, xem thường bạn bè…dẫn đến những tệ nạn xã hội.
1.4. Nguyên nhân từ góc độ xã hội (giao thông) :
- Bởi vì đơn vị tôi công tác là vùng ven biên, có địa hình khá phức tạp.
Trường học nằm khuất sau các khu dân cư , xung quanh toàn là vườn cây ăn trái,
con đường đến trường vừa nhỏ, lên xuống nhiều con dốc lại là đường đất (mỗi khi
có mưa là đường rất khó đi, đôi khi phải nhờ các mạnh thường quân hỗ trợ đổ cát,
đá để các em dễ đến trường) nên phụ huynh rất ngán ngại cho con em mình học ở
trường này ,việc đi đến trường gặp nhiều trở ngại, học sinh dễ trốn học. Chính vì thế

2


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

mà chất lượng học tập cũng như các phong trào của trường cũng gặp khó khăn nếu
giáo viên không có tâm quyết với nghề.

2/Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến :
- Giáo viên có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của
một dân tộc cũng như toàn thể nhân loại. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, đến
các bộ phận đồng thời giáo dục là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Vì
thế trước đây Đảng và nhà nước ta quan tâm đến công tác giáo dục, coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu để xây dựng và phát triển đất nước.
- Đất nước ta bước vào thời kì mới với quyết tâm công nghiệp hóa – hiện

đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi mỗi chúng ta phải có
một nguồn lực vừa có tài, vừa có đức vừa có tri thức trong cuộc sống. Nơi tạo ra
những nền móng vững chắc cho quá trình học tập của mỗi con người chính là
trường tiểu học. Muốn vậy, người giáo viên tiểu học không ngừng nâng cao chất
lượng dạy và học.
- Nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học đối với
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân Việt Nam trong xã hội
hiện nay. Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học trong toàn quốc, bản
thân tôi cũng thực hiện chủ chương cải tiến phương pháp dạy học mạnh mẽ ở tất cả
các môn học.
- Được biết năm học 2009 – 2010, Bộ giáo dục và Đào tạo phát động chủ đề
“ Đổi mới công tác quản lí để nâng cao chất lượng giáo dục”. là một giáo viên nhiều
năm đứng lớp, tâm quyết cho sự nghiệp giáo dục, tôi rất đồng tình và ủng hộ câu
nói của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Để nâng cao chất lượng giáo dục, người quản lí
phải đổi mới công tác quản lí, còn người giáo viên muốn nâng cao chất lượng dạy
và học cho học sinh thì người giáo viên cần phải làm gì? Là giáo viên, ai cũng
muốn mình là một giáo viên giỏi, có nhiều cách dạy hay giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức dễ dàng mau hiểu, các em thích đến trường và không em nào muốn bỏ học,
công tác giảng dạy ngày càng nâng cao cả về chất và lượng.
- Trong những năm gần đây, sự nghiệp giáo dục và đào tạo Việt Nam nói
chung và việc giảng dạy ở tiểu học nói riêng là vấn đề được xã hội quan tâm. Khi
bàn đến vai trò của những người thầy trong sự nghiệp giáo dục. Thủ tướng Phạm
Văn Đồng viết : “Thầy giáo là nhân vật trọng tâm trong nhà trường, là người quyết
định tạo nên những con người mới xã hội chủ nghĩa. Vậy thầy giáo phải không
ngừng vươn lên, rèn luyện tu dưỡng về mọi mặt để thực sự xứng đáng là người thầy
giáo xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời Thủ tướng còn chỉ ra rằng “Vấn đề lớn nhất trong
giáo dục của ta là tạo điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ giáo viên dần dần trở
thành một đội quân đủ năng lực, đủ tư cách để làm tròn sứ mạng của mình”.Từ bao
đời nay ông cha đều mong muốn ở người thầy phải “ Biết mười dạy một” và cũng

yêu cầu người thầy phải dạy làm sao cho những học trò của mình phải “ Học một
biết mười. Vậy người giáo viên có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
dạy và học.
- Trước đây , bản thân tôi cũng chưa thực hiện tốt vấn đề này nên hằng năm
số học sinh nghỉ học còn nhiều, học sinh chưa tích cực học, có năm lại có học sinh
lưu ban hoặc bỏ học.

3


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

Dưới đây là kết quả đạt được khi tôi chưa đẩy mạnh thực hiện “ Nâng
cao chất lượng dạy và học – chống lưu ban, bỏ học của học sinh”
Năm học

TSHS

GIỎI

KHÁ

TB

YẾU

2012-2013

34


4

14

14

2

- Chính vì thế mà chúng ta làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học, giúp
các em đều học tốt, đi học đều và tất cả học sinh đều không bỏ học giữa chừng. Đó
là lí do tôi chọn đề tài : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học –
chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.
3/ Nội dung sáng kiến :(Tiến trình thực hiện, thời gian thực hiện, biện pháp tổ
chức..)

3.1. Tiến trình thực hiện:
Muốn nâng cao chất lượng dạy và học – chống lưu ban, bỏ học của học sinh,
nhiệm vụ của giáo viên là làm thế nào để học sinh chủ động và có hứng thú
học tập, tạo sự tự tin, tham gia mọi hoạt động của trường, của lớp. Việc nâng cao
chất lượng dạy và học – chống lưu ban bỏ học của học sinh đòi hỏi nhiều yếu tố.
Song đề tài này tôi chỉ cập nhật một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học – chống lưu ban, bỏ học của học sinh như:
1/ Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm sinh lí, năng lực học tập của học sinh
2/ Xây dựng lớp học thân thiện
3/ Đổi mới phương pháp dạy học tạo tính tích cực trong học tập.
4/ Lập góc thư viện lớp
5/ Dạy học ứng dụng công nghệ
6/ Các hoạt động ngoài giờ
7/ Tổ chức thi đua học tập


3.2. Thời gian thực hiện:
- Thời gian đã thực hiện trong năm học 2013 – 2014 ; 2014 – 2015 và 2015
-2016.
3.3. Biện pháp tổ chức:
Khi chúng ta nói đến “ Nâng cao chất lượng dạy và học – chống lưu ban, bỏ
học” . Nếu chúng ta không suy nghĩ kĩ thì cho rằng đây là hai việc làm tách rời
nhau: nghĩa là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học? Làm thế nào để
chống lưu ban bỏ học? Nhưng nếu chúng ta suy ngẫm kĩ lại thì hai sự việc này có
mối quan hệ mật thiết với nhau “ Nếu ta làm tốt việc nâng cao chất lượng dạy và
học thì ta sẽ thực hiện tốt công tác chống lưu ban bỏ học và ngược lại nếu ta thực
hiện tốt công tác chống lưu ban bỏ học tức là ta đã thành công trong việc nâng cao
chất lượng dạy và học”. Vì một khi học sinh đã lĩnh hội được kiến thức từ giáo viên,
có ý thức học tốt thì không bao giờ các em có ý định bỏ học cho dù điều kiện gia
đình gặp nhiều khó khăn, các em vẫn cố gắng vượt qua khó khăn để được đến lớp ,
đến trường và ngược lại, một học sinh thích được đến trường học mỗi ngày thì các
em không bao giờ bị hỏng kiến thức. Để chứng minh điều đó, gần đây rất nhiều học
sinh nghèo lại đổ thủ khoa đại học trong khi ba mẹ của những em này suốt ngày chỉ

4


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

biết “ Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Chỉ trừ một vài trường hợp hiếm hoi là
gia đình gặp nhiều biến cố xảy ra các em mời đành phải bỏ học dang dở.
Xã hội đang vận động và biến đổi không ngừng theo xu thế của thời đại. Vì
vậy, nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự
thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế- xã hội. Mà trong hệ thống giáo dục quốc dân thì bậc tiểu học là bậc nền

tảng , có ý nghĩa vô cùng quan trọng bước đầu hình thành thành nhân cách con
người cũng là bậc học nền tảng nhằm giúp học sinh hình thành những cở sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Để đạt mục tiêu trên đòi hỏi
người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết nhất định về nội dung chương
trình sách giáo khoa, có khả năng hiểu được tâm sinh lí của trẻ về nhu cầu và khả
năng của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách linh hoạt các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học với đối tượng học sinh.
Để nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học. Bản thân tôi
thực hiện các việc làm sau:

a/ Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm sinh lí, năng lực học tập
của học sinh:
Trong cả một năm học, muốn nâng cao chất lượng dạy học – chống lưu ban bỏ
học, nhiệm vụ đầu tiên của người giáo viên là tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng
em, xem gia cảnh của em đó như thế nào, cuộc sống gia đình có hạnh phúc không?
Bởi vì hoàn cảnh gia đình sẽ tác động mạnh mẽ đến việc hình thành nhân cách , kết
quả học tập của những em đó và cần nắm xem kết quả học tập năm trước của em đó
ra sao? Từ đó ta sẽ có định hướng cách dạy, cách giáo dục phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
Để thực hiện được điều này, ngay từ đầu năm, trong những ngày tựu trường,
tôi tranh thủ thời gian cho các em viết lí lịch học sinh:

LÍ LỊCH HỌC SINH
+ Họ và tên học sinh:…………………………………….
+ Năm sinh: ……………………………. Nơi sinh:……………………..
+ Họ tên cha:………………., nghề nghiệp:………………
+ Họ tên mẹ:…………………., nghề nghiệp:………….
+ Hiện sống với ai? ( cha mẹ hay người thân?).......................
+ Chỗ ở hiện nay:…………………………………………..

+ Số điện thoại của ba (hoặc mẹ):………………………….
+ Thích học môn gì?.............................................................
+ Còn chậm môn nào?...........................................................
* Tại sao tôi phải yêu cầu học sinh ghi rõ hiện nạy mình sống với ai? Vì hiện
nay trên địa bàn tôi giảng dạy, đa số người dân bỏ địa phương đi nơi khác tìm kiếm
làm ăn ( Cam-pu-chia, Bình Dương, Đồng Nai …) , các em đa phần đều ở nhà với
ông bà hoặc người thân đi học, đôi khi học giữa chừng thì bỏ học theo gia đình. Vả
lại, ở tuổi này các em có thể giúp gia đình đi làm kiếm thêm thu nhập nên việc bỏ
học là dễ xảy ra.

5


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

Nếu nghỉ học sớm, tương lai của các em sẽ đi về đâu? Các em sẽ làm gì khi
tuổi các em còn quá nhỏ? Bỏ học có thể có một số em không ngoan, trong số đó có
em vướng vào tệ nạn xã hội hoặc bị lạm dụng sức lao động. Học sinh yếu kém
(chưa hoàn thành) bỏ học nhiều là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên
chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hỏng kiến thức cơ bản,
một phần do các em không thích học, không biết cách học dẫn đến ngạy một tục
hậu so với trình độ của lớp. Tóm lại , không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học
sinh yếu ( chưa hoàn thành) là một việc làm cần thiết, không nóng vội, có lộ trình
hợp lí, có kế hoạch riêng cho mỗi học sinh. Dạy học phân hóa đối tượng là biện
pháp tối ưu nhất để nâng cao chất lượng học sinh về mặt kiến thức, kĩ năng, kĩ
xảo….giảm tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học.
Bên cạnh đó, tôi cũng tranh thủ gặp giáo viên chủ nhiệm cũ để biết thêm
từng học sinh của mình phụ trách, thỉnh thoảng cũng gặp một số học sinh cá biệt để
trao đổi nhằm hiểu rõ thêm những nỗi lòng của các em từ đó có biệt pháp giáo dục
phù hợp với các em cả về học lực và đạo đức. Và cứ sau mỗi kì thi học kì I hoặc

cuối năm học tôi thường dành khoảng 20 phút trong tiết sinh hoạt lớp cho các em
viết vào giấy những suy nghĩ của mình về giáo viên đã dạy mình trong suốt học kì
hoặc cả năm học để tôi biết tâm tư của các em, biết được các em chưa hài lòng về
mình điều gì? Các em thích mình dạy học theo hình thức nào?( nhưng tôi yêu cầu
các em phải viết thật lòng, những gì các em viết chỉ có tôi và em đó biết, tôi sẽ giữ
bí mật cho các em và tôi cũng không trách phạt các em khi các em nói những điều
không thích về mình, nếu tôi không nói trước điều này thì việc viết này nó không
hiệu quả vì các em sợ nói thật về thầy cô thì các em bị thì cô phạt....Từ những suy
nghĩ, những bày tỏ của học sinh, bản thân tôi sẽ nhìn nhận lại cách đối xử của mình
với từng học sinh để các em thấy được giáo viên là chỗ dựa của các em về tinh
thần.
Thể hiện tình cảm của thầy và trò, luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu học sinh
cũng chính là môi trường giáo dục thân thiện. Vậy để thực hiện được môi trường
lớp học thân thiện sẽ giúp học sinh cảm thấy thích thú đi học, đến trường, đến lớp
được thầy cô, bạn bè quan tâm, giúp đỡ. Các em không còn tự ti, mặc cảm vì bị thầy
cô la, bạn bè xem thường vì mình học không bằng bạn. Chính vì thế, để nâng cao
chất lượng giáo dục, người giáo viên không thể bỏ qua công việc xây dựng lớp học
thân thiện:

b/ Xây dựng lớp học thân thiện:
- Xây dựng lớp học thân thiện thì đòi hỏi học sinh phải đẹp : Đẹp ở đây là
đẹp về cách ăn mặc, giản dị gọn gàng, sạch sẽ không lòe loẹt, phù hợp với môi
trường trường học phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của từng gia đình. Đối với học
sinh ăn mặc không gì đẹp bằng bộ quần áo đồng phục của nhà trường. Đẹp về cách
trang trí lớp học hài hòa, tránh rườm rà, không thẫm mĩ ( Những sản phẩm đẹp của
học sinh đều được trình bày trong lớp để kích thích niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh).Đẹp về cách sắp xếp bàn ghế, cách trình bày, chữ viết và bảo quản tập
sách…
Môi trường giáo dục tốt sẽ là nơi phát triển nhân cách tốt. Việc trang trí
không gian lớp học thân thiện là điều kiện để giáo viên và học sinh cùng nhau phát

huy khả năng sáng tạo, giúp các em có nâng cao nhận thức về cái đẹp, khơi dậy
niềm tự hào về lớp học của mình.Trường học, lớp học được coi là ngôi nhà chung,
ngôi nhà thứ hai của các em học sinh. Một lớp học được trang trí đẹp mắt, được
6


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

trưng bày từ các sản phẩm , các bài làm của học sinh sau mỗi buổi học giúp khơi
gợi niềm hứng thú, cho các em thấy được mỗi ngày đến trường là một niềm vui.
Trang trí lớp đẹp, hài hòa đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Phần
trang trí lớp, tôi giao trực tiếp cho từng tổ: mỗi tổ phải sưu tầm tranh ảnh liên quan
đến các môn học và chọn bài vẽ đẹp nhất để trưng bày.
Việc trang trí trong lớp của tôi rất giản: Phía trên là câu “Mỗi ngày đến
trường là một niềm vui”, kế tiếp là những bông hoa , mỗi cánh hoa là hình của một
học sinh ( ví mỗi học sinh như một cánh hoa bé nhỏ cần được nâng niu, che chở và
bảo vệ). Dưới cùng là bảng trình bày sản phẩm của học sinh, bên trái có treo một
chậu cây xanh và khẩu hiệu“Lớp học thân thiện” , bên phải cũng có khẩu hiệu “Học
sinh tích cực” và cũng có một chậu cây cảnh cùng với một số khẩu hiệu, cây lan ,
với một khu vườn nho nhỏ trên tủ đồ dùng học tập và một vài chậu hoa khác, tranh
ảnh….
* Mối quan hệ của giáo viên và học sinh: là một trong những nội dung của
môi trường tinh thần trong lớp học thân thiện. Mối quan hệ giữa giáo viên và học
sinh được thể hiện ở sự tôn trọng học sinh, thương yêu học sinh và hết lòng vì học
sinh thông qua các hoạt động cụ thể của giáo viên trong quá trình dạy học.
Đối với học sinh tiểu học, giáo viên càng cẩn thận trong phong cách giao
tiếp. Trong những năm qua tôi luôn chú ý và rèn luyện đến phong cách lên lớp của
mình, phần nào đó đã tạo nên bầu không khí thiện cảm, tôn trọng lẫn nhau trong lớp
học. Tôi xin đề cập một số lĩnh vực của phong cách như sau:
 Điệu bộ: Thể hiện ở cách ngồi, dáng đi và hoạt động đi lại của giáo

viên. Trong suốt tiết học, giáo viên chỉ đi lại trên bục giảng và bàn giáo viên là điều
cần khắc phục. Khi cần ghi bảng dưới hình thức cả lớp thì tôi đứng trên bục giảng.
Đến khi học sinh làm việc cá nhân , nhóm, tôi thường đến bên học sinh để quan sát
và dễ dàng uốn nắn, sửa chữa kịp thời. Lúc đi lại, tôi cố gắng di chuyển rộng và thể
hiện sự nhẹ nhàng nhưng không chậm chạp mà tạo nên một nhịp độ làm việc khẩn
trương .
 Thao tác : thao tác của giáo viên là yếu tố quan trọng tạo nên phong
cách lên lớp. Đó là cách ghi bảng, cách cầm sách, cách sử dụng dấu hiệu bằng tay,
cách sử dụng phương tiện dạy học… Khi trình bày bảng, tôi luốn cố gắng ghi những
ý có nội dung cơ bảng và trình bày rõ ràng, sạch đẹp. Khi cầm sách, tôi luôn cố
gắng cầm sách đúng quy cách như đỡ sách bằng lòng bàn tay trái, ngón trỏ kẹp giữa
hai trang sách còn tay phải đỡ góc phải phần phía dưới của trang sách để thể hiện
tính sư phạm trong giáo dục . Khi dùng hiệu lệnh khi mời học sinh,
yêu cầu học sinh làm một việc gì đó, giáo viên không nên dùng ngón tay hay cây
thước chỉ vào mặt học sinh, điều đó thể hiện sự không tôn trọng học sinh. Vì vậy,
chúng ta nên đưa cả lòng bàn bay để ngữa ra phía trước theo hướng học sinh được
yêu cầu và dùng câu nói “ Cô mời em!”.Với đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu
học thì những yếu tố nêu trên sẽ tạo nên sự tôn trọng, thân thiện với học sinh và nó
còn góp phần hình thành nhân cách tốt cho học sinh.
 Thái độ: Ngoài yếu tố điệu bộ, thao tác thì thái độ là một yếu tố quan
trọng tạo nên mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò. Thái độ của giáo viên thể
hiện qua cử chỉ, cách nhìn, cách đối xử, cách biểu lộ nét mặt, đôi mắt của giáo viên
trước học sinh. Muốn giáo dục thành công, người giáo viên cần có thái độ tôn
trọng , yêu thương, công bằng với mọi học sinh. Tuổi các em còn rất ngây thơ, hồn
nhiên. Em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, cũng cố gắng. chỉ có điều em này
ngoan hơn, giỏi hơn, cố gắng hơn và em kia ngoan, cố gắng ít hơn em kia mà thôi.

7



Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

Vì vậy, giáo viên cần biết khen ngợi, động viên, khuyến khích kịp thời. Nếu như
giáo viên lên lớp với vẻ mặt lạnh lùng, không có một lời khen ngợi, cảm ơn hoặc
học sinh trả lời sai thì tỏ ra cáo gắt, giận dữ, buông vài câu nói không đẹp thì những
cử chỉ trên sẽ làm cho học sinh sợ sệt và không còn muốn học nữa, làm mất đi bầu
không khí thân thiện trong lớp.
 Ngôn ngữ: Ngôn ngữ của giáo viên góp phần tạo nên phong cách lên
lớp. Trong tiết dạy, nếu ngôn ngữ của giáo viên chuẩn, tế nhị, trong sáng, truyền
cảm, dễ hiểu thì sẽ thu hút học sinh , chăm chú lắng nghe. Đặc biệt ngôn ngữ thể
hiện rõ một không khí lớp học ấm áp, thân thiện hơn.Với nhận thức như vậy, trong
những năm qua, tôi đã cố gắng rèn luyện cách sử dụng ngôn ngữ của mình sao cho
kích thích hứng thú cho học sinh. Chẳng hạn, câu hỏi này khó, em nào trả lời được
sẽ cộng 1 điểm thi đua, trả lời sai thì thôi, em nào có cách giải khác sẽ được khen…
Tóm lại người giáo viên trên lớp có được phong cách cởi mở, vui vẻ, dễ gần
cùng với thái độ nâng đỡ khuyến khích, có niềm tin và cách nhìn lạc quan vào học
sinh, cách xưng hô thân mật, có ngôn ngữ chuẩn xác, có cử chỉ trìu mến, quan tâm
đến học sinh…thì không những giúp cho học sinh học tốt mà còn tạo nên mối quan
hệ thân thiện giữa thầy và trò, từ đó sẽ hình thành nhân cách tốt cho học sinh.
Ngoài phong cách thân thiện trong khi lên lớp , giáo viên phải là người bạn
thật sự của học sinh trong các tình huống giao tiếp khác. Ngay từ đầu năm học, tôi
thường xuyên gần gũi, tâm sự trò chuyện với học sinh về gia đình, chuyện học hành
để các em thấy thân thiện. Phần nào đó tôi cũng bắt tâm tư tình cảm cũng như tình
cảm của các em. Nhiều khi chỉ một câu nói của thầy cô như lời khen hay một lời
khuyến khích động viên đã làm thay đổi cả cuộc đời em.
Lớp tôi có một em thường tâm sự với tôi rằng:
- Cô ơi, ba mẹ em chẳng quan tâm em, lớn lên em sẽ không thương ba mẹ nữa.
Nghe nói vậy, tôi giải thích cho em hiểu rằng: cha mẹ nào chẳng thương con, ba
mẹ em ít quan tâm có lẽ vì cuộc sống gia đình khó khăn, phải vất vả lo cho cuộc
sống nên không có nhiều thời gian gần gũi em. Em hãy thông cảm và giúp đỡ ba

mẹ, để ba mẹ bớt vất vả và có nhiều thời gian với em hơn. Tuy nhiên, tôi cũng gặp
riêng ba mẹ của em để gia đình biết tâm tư của con mình mà tranh thủ thời gian để
chăm sóc em nhiều hơn. Từ đó về sau , tôi không nghe em than phiền
về ba mẹ mình nữa.Tóm lại thông qua hoạt động về giáo dục, sinh hoạt vui chơi,
giáo viên cần tạo cơ hội gần gũi với các em , xóa bỏ mọi ngăn cản về tâm lí và tuổi
tác, từ đó mới thật sự trở thành người bạn của các em.
* Tạo mối quan hệ thân thiện giữa học sinh với học sinh:
Quan tâm đến sự phát triển nhân cách của học sinh bằng cách cư xử lịch sự,
lễ phép khi giao tiếp là điều không thể thiếu. Con người giao tiếp thân thiện với
nhau như cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt nhưng giao tiếp bằng ngôn ngữ vẫn là quan trọng
hơn cả. Để học sinh có mối quan hệ thân thiện với các bạn trong lớp, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh sử dụng lời nói với bạn sao cho thể hiện sự tôn trọng, tế nhị,
lịch sự trong giao tiếp. Nhận thức việc dạy cho học sinh cách thể hiện lời nói thân
thiện cùng bạn bè là cần thiết. Trong những năm học qua, tôi luôn cố gắng uốn nắn ,
sửa chữa lời nói cho học sinh. Ví dụ: Ở cuối tiết học tôi thường tổ chức trò chơi đố
bạn: tôi xin đố các bạn nước ta có khí hậu như thế nào? Tôi xin trả lời câu hỏi của
bạn, bạn trả lời đúng rồi…
Giáo dục cho học sinh phải biết quan tâm, giúp đỡ bạn , không phân biệt giàu
nghèo; giỏi, dở; xấu , đẹp…các em phải đối xử với nhau bằng tình yêu thương như
anh em một nhà. Bạn có lỡ làm gì sai, có lỗi thì tha thứ hoặc nhắc nhở bạn sửa sai,

8


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

không nên vì chuyện nhỏ mà gây gỗ với nhau, mất đoàn kết, bạn bè gặp khó khăn,
đau ốm phải biết giúp đỡ và chia sẻ với bạn.
*Quan hệ thân thiện giữa giáo viên với phụ huynh học sinh:
Đối với phụ huynh học sinh, giáo viên phải có thái độ bình tĩnh, hòa nhã,

luôn luôn lắng nghe những ý kiến từ phụ huynh học sinh trên tinh thần tôn trọng
phụ huynh. Trong các cuộc họp phụ huynh, giáo viên phải thận trọng trong cách
nhận xét về học lực và phẩm chất học sinh, nhất là đối với những phụ huynh có con
em tiếp thu bài chậm hoặc học sinh cá biệt để học không bị mặc cảm đối với những
phụ huynh khác.
Do các em học buổi chiều, phòng học rất oi bức mỗi khi bước và lớp học , để
tạo cho các em một không gian học tập thoải mái, mát mẻ, tôi đã mạnh dạn vận
động phụ huynh đóng góp tiền mua quạt thêm cho các em ( Đây là một việc làm rất
khó thực hiện, vì đơn vị tôi công tác là một xã vùng biên giới, cuộc sống đa phần là
khó khăn, các phụ huynh lo cho con được đến lớp là tốt lắm rồi, đâu có nghĩ đến
việc đóng góp tiền cho lớp , cho trường nên xã hội hóa trường học còn khó nói chi
đến xã hội hóa lớp học. Đây là công việc mà chỉ có tôi là người thực hiện đầu tiên
trong đơn vị về công tác này. Tuy nhiên, tôi cũng tham khảo ý kiến của BGH trường
xem có cho tôi thực hiện không và được sự chấp thuận của BGH, tôi tiến hành vận
động tiền ngay trong đầu năm học:
Đầu tiên , phụ huynh cũng ngại đóng góp, tôi đã phân tích cho phụ huynh
thấy rằng việc đóng góp này là để phục vụ cho việc học tập của con em mình, chứ
không ai khác, nếu các em ngồi học mà có quạt mát mẻ thì tinh thần học tập cũng
thoải mái, các em tiếp thu bài tốt hơn…Cuối cùng phụ huynh cũng nhận ra là mình
cần phải đóng góp để cho con mình học tốt, hiện giờ, ngoài hai cây quạt của trường,
tôi đã mua thêm 3 cây quạt từ tiền đóng góp của phụ huynh . Thế là lớp tôi là lớp
học đầu tiên có đầy đủ quạt cho các em ngồi học thoải mái.
Song song với xây dựng lớp học thân thiện, các em thích đến trường, đến
lớp học tập. Người giáo viên còn phải làm sao cho các em chủ động trong học
tập, không còn rụt rè , nhút nhát, phải làm sao cho các em học tập một cách
tích cực, có như thế mới nâng cao chất lượng dạy và học- chống lưu ban, bỏ
học của học sinh. Chúng ta cần có một phương pháp dạy học tạo tính tính cực
cho học sinh.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào dạy học tạo tính tích cực trong học tập? Nói
đến phương pháp dạy học giúp học sinh học tập tích cực là nói đến thái độ và ý thức

học tập của học sinh.
Phương pháp dạy học gây sự hứng thú trong học tập, thích thú với cách dạy
của giáo viên từ đó giúp các em có một thái độ học tập tích cực hơn. Vậy làm sao ta
biết học sinh đó có tích cực không? Trong môi trường giáo dục, một học sinh tích
cực là một học sinh có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức. Nói cho dễ hiểu, một
học sinh tích cực là một học sinh ở nhà phải soạn bài, học thuộc bài trước khi đến
lớp, vào tiết học các em phải tự tìm ra tri thức, giáo viên chỉ là người hướng dẫn
,gợi mở, có như vậy thì kiến thức thu nhận mới thật sự là của các em cũng đồng
nghĩa với câu “Vào lớp thuộc bài, ra lớp hiểu bài”.
Học sinh tích cực là biết vận dụng giữa “Học đi đôi với hành”, thực hiện
đúng nguyên lí giáo dục, vận dụng các kiến thức do thầy cô cung cấp với ý thức chủ
động, tự giác cao. Tuy nhiên số lượng học sinh tích cực rất ít,chủ yếu tập trung vào
những học sinh hoàn thành tốt nhiêm vụ học tập. Số đông còn lại thì rụt rè thiếu tự
tin trong học tập lẫn giao tiếp. Vì vậy, để học sinh phát huy hết tính tích cực, giáo
viên phải có trách nhiệm hướng dẫn, định hướng cho học sinh chủ động tiếp nhận
9


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

kiến thức. Ngoài ra, học sinh học sinh biết tích cực tự giác trong các hoạt động của
nhà trường và xã hội.

c/ Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng trong dạy và
học – chống lưu ban, bỏ học:
Tại sai ta phải đổi mới phương pháp dạy học? Còn phương pháp dạy học
truyền thống thì sao?
Các phương pháp truyền thống luôn là những phương pháp dạy học quan
trọng trong dạy học. Đổi mới không có nghĩa là loại bỏ phương pháp truyền thống
mà cần bắt đầu từ việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế những nhược điểm

của chúng.
Để nâng cao hiệu quả của phương pháp truyền thống, người giáo viên trước
hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kĩ thuật của chúng
trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kĩ thuật mở bài,
kĩ thuật trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kĩ thuật đặt câu hỏi và xử lý các
câu trả lời trong đàm thoại hay kĩ thuật làm mẫu trong luyện tập.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học-chống lưu ban bỏ học, với phương pháp dạy này, giờ giảng của
mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm
nhưng vai trò, uy tín của người giáo viên được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng
chuyên môn của người thầy tăng lên nhờ áp lực của phương pháp, bởi nội dung kiến
thức của từng giờ giảng phải được cập nhật liên tục để đáp ứng các câu hỏi của học
sinh trong thời đại thông tin rộng mở, với những phương pháp này, nó sẽ giúp ích
cho:
* Giáo viên: Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa thầy và trò. Nếu giáo viên
chỉ thuyết trình, có gì nói nấy thì những gì thầy giảng chỉ là kiến thức một chiều. Có
thể học sinh đã biết những kiến thức ấy, hay đó là nội dung không hữu ích đối với
các em. Người giáo viên phải luôn đổi mới bài giảng cũng như phong cách đứng
lớp. Như vậy, người giáo viên sẽ học được từ học trò của mình rất nhiều kiến thức
và kinh nghiệm thực tế. Mối quan hệ thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp qua việc
giải quyết các tình huống có liên quan đến nội dung bài học và cuộc sống của người
học.
* Học sinh: Khi giáo viên dạy học bằng phương pháp tích cực, học sinh thấy mình
được học chứ không bị học. Các em sẽ được chia sẻ những kinh nghiệm của mình
đồng thời bổ sung những kiến thức không chỉ từ giáo viên mà còn chính từ các bạn
trong lớp. Các em hạnh phúc khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm.
Nhờ học theo tích cực mà các em ghi nhớ khắc sâu kiến thức và tăng khả năng áp
dụng vào thực tế lên nhiều so với cách học thụ động một chiều. Việc dạy học bằng
phương pháp tích cực chính là tìm mọi cách giúp học sinh được chủ động trong việc
học, cho các em được làm việc, được khám phá tiềm năng của chính mình. Người

giáo viên cần giúp học sinh có được sự tự tin, có trách nhiệm với bản thân để từ đó
chia sẻ trách nhiệm với bạn bè.
Có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau, mỗi phương pháp đều có
những ưu điểm và hạn chế riêng, đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo trong việc
vận dụng các phương pháp đó như thế nào để hạn chế tối đa những khuyết điểm của
phương pháp đó , trong một tiết dạy, giáo viên nên lựa chọn phương pháp nào phù
hợp với hoạt động đó, chứ không phải muốn chọn phương pháp nào dạy cũng được.
Sau đây tôi xin trình bày một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học mà tôi

10


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

thường xuyên vận dụng trong các năm học qua nhằm giúp nâng cao về chất lượng
dạy và học - chống lưu ban bỏ học của học sinh :
c. 1. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:
*Với phương pháp này giúp học sinh :
- Nêu được những điều chưa biết cần tìm hiểu, chỉ ra mối quan hệ của những
điều đã biết và chưa biết là yếu tố trung tâm của tình huống có vấn đề, sẽ được
khám phá trong giai đoạn giải quyết vấn đề. Các tình huống có vấn đề phải kích
thích hứng thú nhận thức của học sinh, tính tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá
của học sinh.
- Góp phần rèn luyện tư duy phê phán, tư duy sáng tạo cho học sinh. Trên cơ
sở sử dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có học sinh sẽ xem xét, đánh giá, thấy
được vấn đề cần giải quyết. Đây là phương pháp phát huy tính tìm tòi, xem xét vấn
đề dưới nhiều góc độ khác nhau, học sinh sẽ huy động kiến thức và khả năng cá
nhân, khả năng hợp tác và trao đổi, thảo luận với bạn bè tìm ra cách giải quyết tốt
nhất.
- Thông qua việc giải quyết vấn đề, học sinh sẽ lĩnh hội tri thức, kĩ năng và

phương pháp nhận thức. Giải quyết vấn đề không còn chỉ phị thuộc phạm trù
phương pháp mà nó trở thành một mục đích dạy học được cụ thể hóa thành mục tiêu
là phát triển năng lực giải quyết vấn đề, một năng lực có vị trí hàng đầu để con
người thích ứng được với sự phát triển của xã hội.
Phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công
sức, giáo viên phải có năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ ra nhiều tình huống gợi
vấn đáp và hướng dẫn học sinh tìm tòi để giải quyết vấn đề. Việc tổ chức tiết học
hoặc một phần của tiết học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn
đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với bình thường.
*Với phương pháp này có thể áp dụng trong mọi giai đoạn trong quá trình
dạy học: hình thành kiến thức mới, củng cố kiến thức và kĩ năng, vận dụng kiến
thức.
Khi vận dụng phương pháp này, bản thân tôi luôn hướng tới mọi đối tượng
học sinh, chứ không chỉ áp dụng cho học sinh khá, giỏi ( học sinh hoàn thành)
* Có nhiều mức độ khác nhau khi tiến hành giải quyết vấn đề, chẳng hạn:
+ Giáo viên tạo tình huống có vấn đề, học sinh độc lập phát hiện và giải quyết
vấn đề, giáo viên hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức mới.
+ Giáo viên tạo tình huống có vấn đề, giáo viên tổ chức cho học sinh phát hiện
vấn đề, giáo viên hướng dẫn để học sinh giải quyết từng bước vấn đề và hình thành
tri thức mới.
+ Giáo viên tạo tình huống, giáo viên nêu vấn đề, hướng dẫn học sinh phát hiện
vấn đề, hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề, hình thành tri thức mới.
+ Giáo viên trức tiếp đưa ra tình huống và trực tiếp nêu vấn đề, học sinh tìm cách
giải quyết vấn đề, giáo viên hướng dẫn để học sinh tìm ra tri thức mới.
Ví dụ : Để hình thành công thức tính diện tích hình tam giác, có thể tiến hành
các bước sau:
Tôi tổ chức cho học sinh ghép hai hình tam giác bằng nhau để tạo thành hình
chữ nhật hoặc hình bình hành. Yêu cầu học sinh so sánh diện tích hình chữ nhật
( hình bình hành) với diện tích hình tam giác. Giáo viên đặt vấn đề giúp học sinh
tìm tự tìm ra công thức tính diện tích hình tam giác.

- Sau khi ghép hình xong:
 Nếu các em ghép hai hình tam giác bằng nhau để tạo thành hình chữ nhật,
các em sẽ tự phát hiện ra:
11


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

+ Chiều dài hình chữ nhật bằng cạnh đáy hình tam giác
+ Chiều rộng hình chữ nhật bằng chiều cao hình tam giác
+ Diện tích hình chữ nhật gấp 2 lần diện tích hình tam giác.
Từ những yếu tố trên, các em sẽ tìm ra được công thức tính diện tích hình tam
giác bằng độ dài đáy nhân với chiều cao ( cùng đơn vị đo) rồi chia cho 2.
 Nếu các em ghép hai hình tam giác bằng nhau để tạo thành hình bình hành,
các em sẽ tự phát hiện ra:
+ Cạnh đáy của hình bình hành bằng cạnh đáy của hình tam giác.
+ Chiều cao hình chữ nhật bằng chiều cao hình tam giác.
+ Diện tích hình bình hành gấp 2 lần diện tích hình tam giác.
Từ những yếu tố trên, các em sẽ tìm ra được công thức tính diện tích hình tam
giác bằng độ dài đáy nhân với chiều cao ( cùng đơn vị đo) rồi chia cho 2.
c. 2. Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ:
Phương pháp này là tổ chức cho học sinh hoạt động theo những nhóm nhỏ để
học sinh cùng thực hiện một nhiệm vụ nhất định trong một khoảng thời gian nhất
định. Trong quá trình làm việc, có sự kết hợp giữa làm việc cá nhân với làm việc
theo cặp, theo nhóm để cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác để thực hiện
nhiệm vụ được giao. Lợi ích của phương pháp này là:
+ Có sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực: kết quả của cả nhóm chỉ có được
khi có sự hợp tác làm việc, chia sẻ của tất cả các thành viên trong nhóm.
+ Thể hiện trách nhiệm cá nhân: Mỗi cá nhân đều được phân công trách nhiệm
thực hiện một phần của công việc và tích cực làm việc để đóng góp vào kết quả

chung.
+ Khuyến khích sự tương tác: trong quá trình làm việc, cần có sự trao đổi, chia sẻ
giữa các thành viên trong nhóm để tạo thành ý kiến chung của nhóm.
+ Rèn luyện các kĩ năng xã hội: các thành viên đều có cơ hội để rèn kĩ năng lắng
nghe tích cực, đặt câu hỏi, đưa thông tin phản hồi tích cực, thuyết phục, ra quyết
định.
+ Rèn kĩ năng đánh giá: Học sinh cả nhóm thường xuyên cùng nhau rà soát đánh
giá công việc đang làm để góp phần hoàn thiện các nhiệm vụ được giao và kết quả
của nhóm.
* Trong quá trình học tập, không phải lúc nào học sinh chưa hoàn thành làm
được những bài tập đòi hỏi quá cao đối với các em, các em cần phải có sự hỗ trợ từ
giáo viên, bạn bè. Chính vì vậy ,tôi thường tổ chức học nhóm để những em này
được sự hỗ trợ từ bạn bè ( trong mỗi nhóm đều có học sinh hoàn thành và học sinh
chưa hoàn thành).Trong quá trình thảo luận nhóm như thế sẽ tạo cho các em rụt rè
có cơ hội phát biểu cùng bạn bè, học được ở bạn mình về cách trả lời , các kiến thức
mà các em chưa hiểu hết, mỗi cá nhân trong nhóm đều trình bày nên đòi hỏi các em
phải tập trung suy nghĩ.
Tuy nhiên để phương pháp này đạt hiệu quả cao, giáo viên cần hướng dẫn
học sinh cách thảo luận: trong quá trình thảo luận, tất cả các thành viên trong nhóm
phải nêu lên những ý kiến, những suy nghĩ của mình. Sau đó, trong nhóm xem ý
kiến nào là đúng, là hay nhất thì chọn và ghi ra phiếu học tập của nhóm. Tránh
trường hợp học sinh trong nhóm không thảo luận mà chỉ chọn ý kiến của bạn học
tốt trong lớp. trong quá trình thảo luận, giáo viên cũng theo dõi, quan sát các nhóm
thảo luận, nếu các em còn lúng túng thì giáo viên hỗ trợ kịp thời cho các em. Có
nhiều cách chia nhóm, tùy từng hoạt đông, nội dung , kiến thức môn học mà giáo
viên có thể hướng dẫn học sinh chia nhóm như sau: nhóm đôi , nhóm bốn, nhóm

12



Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

năm, nhóm sáu….Trong đó, nhóm thường sử dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất
trong việc giải quyết vấn đề, đóng vai, xử lí tình huống là chia theo nhóm bốn.
c.3. Phương pháp đóng vai:
* Với phương pháp này sẽ giúp cho học sinh:
+ Học sinh sẽ được rèn luyện thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
+ Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
+ Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
+ Chuẩn mực và hành vi đạo đức .
+ Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.
- Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử ” một
số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm
giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể
mà các em vừa thực hiện hoặc vừa quan sát được.
* Để thực hiện phương pháp này đạt hiệu quả cao, tôi tiến hành các bước
sau:
+ Chọn những tình huống đóng vai phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa
tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
+ Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của nhóm.
+ Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép.
+ Tình huống phải có nhiều cách giải quyết, cách ứng xử.
+ Tình huống cần để mở để học sinh tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp.
+ Phải dành thời gian phù hợp cho học sinh thảo luận xây dựng kịch bản và
chuẩn bị đóng vai. Trong khi học sinh thảo luận và sắm vai, giáo viên nên đi đến
từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ học sinh khi cần thiết.
+ Các diễn viên nên để học sinh xung phong hoặc tự phân công nhau đảm nhận.
+ Nên khích lệ cả học sinh nhút nhát cùng tham gia.

+ Nên có hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng
vai.
*Trong khi dạy bài : Có trách nhiệm về việc làm của mình ( Môn Đạo đức
lớp 5 – Tiết 2):
+ Hoạt Động 1: Trò chơi sắm vai.
Tôi đưa ra tình huống: Lan và Tuấn được phân công vẽ đầu báo tường của
lớp.Theo quy định, sáng mai phải mang đến lớp nhưng hai bạn làm cả chiều mà vẫn
chưa xong. Lan bèn bàn với Tuấn: “ Thôi, nghỉ đã cậu ạ. Mai chúng mình cứ mang
đến lớp, bảo với mọi người là chiều nay ta bị ốm. Chẳng có ai biết đâu mà”.
Tuấn băn khoăn chưa biết làm thế nào….
Tôi tổ chức cho từng nhóm thảo luận và sắm vai theo các bước sau:
+ Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ
thời gian chuẩn mực, thời gian đóng vai.
+ Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai
+ Các nhóm lên đóng vai. Các nhóm có thể chọn các cách giải quyết khác nhau
như:
 Thống nhất với ý kiến của bạn Lan là nói dối mình bị ốm.
 Giải thích cho lạn Lan hiểu được trách nhiệm của mình, khi cô phân công thì
cố gắng làm cho xong để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
 ...

13


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

+ Giáo viên phỏng vấn học sinh đóng vai: Vì sao em lại ứng xử như vậy? cảm
xúc, thái độ của em khi thực hiện cách ứng xử ( đúng hoặc sai).
+ Cả lớp thảo luận , nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa
phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?

+ Cuối cùng giáo viên kết luận : Trong tình huống này, hai bạn Lan và Tuấn cần
hoàn thành công việc của mình. Điều đó vừa mang lại lợi ích cho cả tập thể lớp, vừa
làm cho các bạn yêu quý và tôn trọng hai bạn. Đó là một việc làm có trách nhiệm về
việc làm của mình.
Có thể kể vào trò chơi học tập là hoạt động sắm vai. Đây là một trò chơi có
nhiều lợi thế để dạy học Tiếng Việt. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai giao tiếp
nào đó nhằm thể hiện sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập sắm vai nhiều
khi rất vui nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do những diễn viên bắc đắc dĩ
tạo nên. Hình thức sắm vai đặc biệt phát huy tác dụng trong các giờ rèn kĩ năng nói,
nó giúp học sinh thực hành giao tiếp, được quan sát trực tiếp hoạt động nói với sự
kết hợp sinh động của phương tiện âm thanh và các yếu tố phi ngôn ngữ.

Đây là hình ảnh các em sắm vai diễn lại nói về câu chuyện Linh từ Quốc
mẫu đang khóc lóc với Thái sư Trần Thủ Độ về việc tên quân hiệu không cho bà đi
qua thềm cấm ( Bài này các em học ở tiết tập làm văn: Tập viết đoạn đối thoại. Dựa
vào đoạn đối thoại đó, các em sẽ tập sắm vai để diễn kịch). Để tạo không khí buổi
liên hoan cuối năm thêm vui vẻ, các em này đã diễn lại cho lớp xem, và tiết mục
này cũng được tổng phụ trách đội chọn cho các em sắm vai trong tiết sinh hoạt đầu
tuần của trường.
c.4. Phương pháp trò chơi:
Trong quá trình dạy học ngày nay xác định giáo viên phải chú trọng tập trung
vào việc tạo ra những cơ hội về điều kiện học tập thuận lợi cho học sinh học tập,
yêu cầu này một mặt kích thích cho học sinh phát huy cao độ tính tích cực học tập.
Mặt khác, yêu cầu người giáo viên phải khuyến khích, hướng dẫn và tổ chức học
tập để học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức , kinh nghiệm và giá trị cần thiết cho
bản thân. Trò chơi học tập là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước
tiên chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giản. Thông qua trò chơi học tập, học sinh có
điều kiện “ Học mà chơi, chơi mà học”. Khi tham gia vào các trò chơi học tập còn
tạo được không khí vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng, sinh động trong giờ học, giúp
cho những vấn đề học tập được giảm nhẹ và ghi nhớ của các em trở nên vững chắc

hơn. Giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tích cực và tự giác, không khí lớp
học trở nên thoải mái, dễ chịu, việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên nhẹ
nhàng và hiệu quả hơn.
Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay luyện tập,
thực hành những thao tác, kĩ năng, hành vi thông qua một trò chơi nào đó.
* Để thực hiện phương pháp này, bản thân tôi phải nắm được các điều
kiện sau:
+ Chọn trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học,
với đặc điểm và trình độ học sinh tiểu học, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều
kiện thực tế của lớp học. đồng thời không gây nguy hiểm cho học sinh.
+ Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.
+ Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi
14


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

+ Phải phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh
tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh
giá sau khi chơi.
+Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm
chán cho học sinh.
Giáo viên tổ chức trò chơi cho học sinh: thi đố vui, rung chuông vàng , đúng
- sai…với các hình thức như thi đua theo tổ, theo nhóm, cá nhân, tiếp sức…Nhưng
phải chọn hình thức như thế nào cho phù hợp với cơ sở vật chất của lớp.
Với trò chơi này nếu chúng ta tổ chức cho các em thi đua tiếp sức sẽ
hay hơn. Nhưng vì phòng học nhỏ, màn hình máy chiếu lớn, chiếm gần hết diện tích
trên bục giảng. Nếu không may, trong quá trình các em thi đua di chuyển chạy lên
bảng ghi rồi chạy xuống cho bạn lên ghi tiếp , tôi sợ các em vô tình chạy vấp vào
màn hình, các em sẽ bị té đau và màn hình đôi khi bị sự cố.

c.5. Phương pháp vấn đáp:
Để phương pháp này đạt hiệu quả cao, giáo viên cần chuẩn bị thật tốt hệ thống
câu hỏi. Các câu hỏi có liên quan chặt chẽ với nhau, câu hỏi trước là tiền đề cho câu
hỏi sau, câu hỏi sau là sự kế tục và phát triển kết quả của câu hỏi trước. Mỗi câu hỏi
là một cái “nút” của từng bộ phận mà học sinh cần lần lượt tháo gỡ thì mới tìm
được kết quả cuối cùng.
* Khi soạn các câu hỏi vấn đáp, tôi thường chú ý đến :
+ Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, sát với mục đích, yêu cầu của bài
học.
+ Câu hỏi phải sát với từng loại đối tượng hoc sinh, phải có nhiều câu hỏi ở các
mức độ khác nhau, không quá dễ hoặc không quá khó. Giáo viên có kinh nghiệm
thường tỏ ra cho học sinh thấy các câu hói đều có tầm quan trọng và độ khó như
nhau ( để học sinh yếu : chưa hoàn thành,có thể trả lời những câu hỏi vừa sức).
+ Bên cạnh những câu hỏi chính ,bản thân tôi cần chuẩn bị câu hỏi phụ ( trên cơ
sở dự kiến các câu trả lời của học sinh, trong đó có câu trả lời sai) để tùy tình hình
thực tế mà gợi ý, dẵn dắt tiếp.
+ Nên chú ý đặt câu hỏi mở để học sinh đưa ra nhiều phương án trả lời và phát
huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Để tăng hiệu quả của việc sử dụng phương pháp hỏi- đáp , bản thân tôi tổ
chức đối thoại theo nhiều chiều: giáo viên hỏi học sinh; học sinh hỏi học sinh; học
sinh hỏi giáo viên.
Hình thức giáo viên hỏi học sinh trong khi tìm hiểu bài:

Đa số học sinh vùng nông thôn, biên giới như ở trường tôi đều rụt rè khi phát
biểu ý kiến vì sợ trả lời sai sẽ bị cô rầy la, chỉ có những em học tốt mới dám phát
biểu, các em còn lại chỉ khi nào giáo viên gọi mới trả lời một cách rụt rè( trường
hợp này chiếm khoảng 2/3 số học sinh của lớp) vì các em chưa tự tin vàokhả năng
học của mình. Nên trong tìm hiểu bài, không phân biệt câu hỏi dễ hay khó, tôi cho
các em tự phát biểu .Nhất là trong những tiết tìm hiểu bài mới, tôi không phân biệt
học sinh trả lời đúng sai mà tôi quan tâm là học sinh có suy nghĩ câu hỏi của giáo

viên để trả lời không? Vì nếu có: dù các em có trả lời sai tôi cũng không trách phạt
mà còn giúp các em biết câu trả lời đúng như thế nào? Tôi không trách các em vì
15


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

đây là bài mới, Vả lại, em đó ít nhiều đã có động não trong giờ học và em đó sẽ nhớ
sâu bài khi giáo viên hướng dẫn câu trả lời đúng.
Từ đó , các em tích cực trong giờ học hơn vì nếu trả lời đúng thì được cô
khen còn sai cũng không sao. Tôi khai thác hết mọi ưu điểm , khuyết điểm của từng
học sinh và hướng dẫn các em khắc phục bằng những nhận xét nhẹ nhàng:
Ví dụ : Em Quy hôm nay trả lời đúng câu hỏi, có tập trung trong giờ học.
Tuy nhiên , khi trả lời, em cần mạnh dạn, tự tin hơn…
Vấn đáp theo kiểu học sinh hỏi giáo viên:
Trong quá trình học, có những vấn đề thắc mắc mà các em không dám hỏi sợ
cô thầy. Nên trong quá trình dạy học, tôi cho các em có quyền tự do thắc mắc, các
em có thể thắc mắc những vấn đề mà em không hiểu có liên quan đến nội dung bài
học.
* Ví dụ khi dạy môn Kể chuyện “Vì muôn dân”.
Mở đầu câu chuyện có đoạn: “Năm 1235, khi Trần Quốc Tuấn mới 5 ; 6 tuổi,
cha ông là Trần Liễu có chuyện tị hiềm với vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh). Năm
1251, Trần Liễu lâm bệnh nặng, trước khi mất có trăng chối với Trần Quốc Tuấn:
“Con hãy vì cha mà lấy lại thiên hạ. Nếu không, nơi chín suối , cha không thể nhắm
mắt!”.
+ Có học sinh hỏi: Thưa cô, em không hiểu giữa hai người đó có chuyện tị hiềm
gì?
+ Tôi giải thích: Trần Liễu và Trần Cảnh là hai anh em ruột, theo lí thì Trần Cảnh
(anh) phải lên ngôi vua nhưng cuối cùng thì Trần Liễu là em mà lại lên ngôi vua nên
người anh lúc nào cũng muốn giành lại ngai vàng. Vì đây là tiết kể chuyện, và cũng

không phải là phần chính của câu chuyện. Trong câu chuyện này,chúng ta chỉ tìm
hiểu về Trần Quốc Tuấn nên cô chỉ giải thích bấy nhiêu để dành thời gian cho các
em kể, còn em nào muốn tìm hiểu kĩ hơn về lịch sử việt Nam, các em có thể về nhà
hỏi người thân, tìm hiểu trên mạng…
 Vậy là trong tiết này, các em vừa được thắc mắc vừa được giáo viên hướng
dẫn cách tìm hiểu, khám phá về lịch sử Việt Nam qua người thân, trên mạng…
Như Bác Hồ đã dạy:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
* Hoặc: Trong bài “Người gác rừng tí hon”:
+ Ở đoạn 2 có câu: Qua khe lá , em thấy hai gã trộm”
+ Đến đoạn 3 có câu: Ba gã trộm gỗ đứng khựng lại như rô bốt hết pin.
- Em học sinh hỏi tôi: Cô ơi, em không hiểu vì sao ở đoạn 2 chỉ có 2 tên
trộm, tại sao đoạn 3 lại có tới 3 gã trộm?
- Tôi giải thích: Ở đoạn 2 là bạn nhỏ trong bài phát hiện hai gã trộm gỗ đang
bàn bạc vận chuyển gỗ ra bìa rừng nên trong bài có câu “” Mày đã dặn lão sáu Bơ
tối dánh xe ra bìa rừng chưa”. Còn ở đoạn ba là lúc bọn trộm gỗ đang vận chuyển
gỗ ra bìa rừng vào ban đêm.
- Đoạn 2 và đoạn 3: là hai thời điểm khác nhau, số lượng nhân vật cũng
không giống nhau.
* Có lẽ nếu tôi không cho các em quyền trên thì chắc các em sẽ không tự tin,
không tự biết khám phá, chỉ hiểu được những kiến thức từ sách giáo khoa không
được mở rộng thêm kiến thức để hình thành các kĩ năng sống của học sinh.
Vấn đáp theo hướng học sinh hỏi học sinh:
Với phương pháp dạy truyền thống: Thay vì ở cuối tiết học, giáo viên thường
đặt câu hỏi để củng cố bài học, còn tôi thì lại tổ chức cho học sinh chơi trò chơi đố
16


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.


bạn. Học sinh sẽ tự lên bục giảng và quay mặt xuống hỏi những gì mình đã học
hôm nay, các em nhớ được nội dung nào thì đố bạn. Với cách làm này, các em sẽ
nhớ bày lâu hơn.
Ví dụ: Cuối bài học “ Phòng bệnh sốt rét” của môn khoa học: học sinh sẽ
lên bục giảng đố các bạn trong lớp với những câu hỏi mà các em vừa học: Tôi xin
đố bạn : Bệnh sốt rét nguy hiểm như thế nào? Để phòng bệnh sốt rét ta phải làm
sao?...Lúc này giáo viên chỉ theo dõi học sinh hỏi và trả lời, giáo viên chỉ tham gia
khi học sinh trả lời còn hơi lúng túng hoặc chưa rõ ràng để tạo cho các em tự tin và
tập trung trong giờ học để hiểu bài và nhớ bài lâu( có hiểu bài mới biết đặt câu hỏi
và trả lời câu hỏi).
Bạn nào biết thì giơ tay để được bạn mình gọi, bạn nào trả lời đúng thì đề
nghị tuyên dương, bạn nào trả lời sai thì bạn đố có nhiệm vụ nhắc lại câu trả lời
đúng để bạn trả lời sai nhớ lại kiến thức mình vừa học. Thế là các em vừa chơi vừa
học , giúp các em nhớ bài lâu hơn.
c.6.Phương pháp trực quan:
Dạy học theo phương pháp trực quan là phương pháp dạy học sử dụng những
phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tư
liệu mới, khi ôn tập, khi củng cô, khi hệ thống hóa kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo…
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu
những hình ảnh,những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc
trong trí nhớ mà hình ảnh học sinh thu được bằng trực quan, đồ dùng trực quan còn
phát triển khả năng quan sát, tí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh.
Để thực hiện tốt phương pháp trực quan đạt hiệu quả cao, bản thân tôi thực
hiện theo từng bước sau:
+ Treo những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa hoặc giới thiệu về các vật
dụng thí nghiệm, máy chiếu,… và nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của học
sinh.
+ Trình bày các nội dung trong lược đồ, sơ đồ, bản đồ,….

+Yêu cầu một số học sinh trình bày lại, giải thích nội dung sơ đồ, biểu đồ, trình
bày những gì thu nhận được qua thí nghiệm, quan sát vật thật, hình ảnh…
 Từ những chi tiết, thông tin học sinh thu được từ phương tiện trực quan, giáo
viên yêu cầu hỏi học sinh rút ra kết luận khái quát về vấn đề mà phương tiện
trực quan cần chuyển tải.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan, đặc biệt là quan sát tranh ảnh, vật thật, nếu
giáo viên không định hướng cho học sinh quan sát sẽ dẫn đến học sinh sa đà vào
những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng nên bản thân tôi phải căn cứ vào nội dung
bài học, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ dùng trực quan tương ứng
thích hợp, vì vậy cần xây dựng hệ thống câu hỏi phong phú, phù hợp với từng bài
học.
Trong quá trình soạn bài, giáo viên cũng cần xem trong bài học đó có những
đồ dùng dạy học nào có sẵn, đồ dùng nào cần phải làm thêm hoặc yêu cầu học sinh
chuẩn bị để tiết học vừa sinh động lại vừa đạt hiệu quả cao và giáo viên cũng cần
xem nên khai thác những đồ dùng dạy học đó như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất,
chứ không phải cho học sinh xem tranh , quan sát vật thật mà không hiểu gì.
* Ví dụ: khi dạy môn Khoa học bài “Chất dẻo”: ngoài học sinh quan sát
tranh ảnh trên máy chiếu, tôi còn tổ chức cho các em quan sát vật thật như thao, xô,
ống nước, áo mưa … làm bằng chất dẻo để các em dễ nhận ra chất dẻo có đặc điểm

17


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

là không thấm nước, có nhiều sắc, có loại cứng, có loại mềm…Còn nếu các em
quan sát không thì các em không hình dung được đồ vật làm bằng chất dẻo loại nào
cứng, loại nào mềm vì các em chưa trực tiếp chạm vào vật thật ( ống nước: có loại
mềm, có loại cứng; áo mưa thì mềm; thao, xô thì cứng) nhưng chúng có đặc điểm
chung là không thấm nước.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học, học sinh tích cực hơn trong học tập, bản
thân tôi phải bỏ ra nhiều công sức để làm thêm đồ dùng dạy học như lược đồ, bản
đồ, phóng to tranh ảnh trong sách ra, tìm thêm những hình ảnh trên mạng, hoặc
chụp ảnh sưu tầm có liên quan đến việc truyền thụ kiến thức cho học sinh.
*Ví dụ: Dạy môn Địa lí “ Châu Đại Dương và Châu nam Cực”, tôi tìm
những ảnh về gấu trúc, các trạm thám hiểm của các nhà khoa học trên châu Nam
Cực thì các em rất thích thú( hoặc dạy địa lí địa phương: tôi phải tìm thêm tranh ảnh
về cột mốc biên giới vì các em ở xã biên giới nên cũng giáo dục cho các em thêm
về chủ quyền lãnh thổ nước ta…
Trong giảng dạy, người giáo viên cũng cần mạnh dạn thay đổi cách dạy, cách
học của học sinh: giáo viên không chỉ dạy những kiến thức trong sách mà phải đầu
tư, nghiên cứu các loại sách báo để nâng cao công tác giảng dạy, sách báo mà tôi
thường xem đó là: thế giới trong ta, toán tuổi thơ; tìm thêm thông tin, hình ảnh trên
mạng, … Bởi vì chúng giúp tôi tìm ra thêm các cách giải toán hay, những cách xử lí
tình huống sư phạm hay, những bài giáo án có hiệu quả cao…Từ đó giúp học sinh
lĩnh hội kiến thức tốt. Bên cạnh đó, đòi hỏi học sinh phải có cách học phù hợp.
Dưới đây là một vài hình ảnh tôi dạy theo phương pháp trực quan:
Tóm lại, trong tất cả các biện pháp dạy học tích cực trên, không phải mỗi
hoạt động là ta vận dụng một phương pháp, chúng ta có thể phối hợp các
phương pháp với nhau:
* Chẳng hạn: Học sinh có thể thảo luận nhóm để giải quyết một tình huống
mà giáo viên đưa ra, sau đó các em phải phân công nhau sắm vai và diễn lại tình
huống mà các em cùng với bạn mình vừa thảo luận: vậy là các em vừa thảo luận
nhóm, vừa giải quyết vấn đề giáo viên đặt ra và cùng nhau sắm vai.
Trong các phương pháp trên, có lẽ phương pháp thảo luận nhóm là áp dụng
thường xuyên, là tổng hợp các phương pháp còn lại. Chẳng hạn, phương pháp sắm
vai, phương pháp giải quyết tình huống, phương pháp quan sát….đều phụ thuộc vào
phương pháp thảo luận nhóm.
Ví dụ: Để giải quyết tình huống và sắm vai để diễn lại tình huống thì cần
nhiều học sinh hợp tác chứ không thể một em thực hiện được, muốn giải quyết một

vấn đề gì có liên quan đến kiến thức cũng cần thảo luận nhóm để có nhiều ý kiến và
xem ý nào hay và đúng nhất thì ta chọn…..
Bên cạnh vận dụng các giải pháp trên, để chất lượng dạy và học đạt hiệu
quả cao, bản thân tôi còn thực hiện các việc làm sau:

d/ Lập góc thư viện của lớp:
Thay vì các em xuống thư viện đọc sách, truyện thì ngay trên lớp các em
cũng có thể đọc được những quyển truyện, sách, báo… của thư viện vì hàng tuần tôi
liên hệ với thư viện thay đổi sách báo 1 lần, những quyển nào các em đọc xong, tôi
trả lại thư viện để mượn những quyển mới.
Chúng ta đã biết, thư viện là nơi thu hút học sinh đến với sách, nâng cao văn
hóa đọc trong học sinh. Nhờ vậy, chất lượng học tập được nâng cao, khả năng đọc
hiểu của các em ngày càng tiến bộ, kiến thức của các em được trao dồi, mở rộng,
18


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

giúp các em dễ dàng nắm bắt thông tin hơn mà không mất thời gian vào thư viện để
mượn. Thông qua cách làm này giúp trẻ có kĩ năng đọc tốt, phát triển lòng
yêu sách và ham đọc sách ở trẻ. Qua đó, rèn cho các em có thêm một số kĩ năng và
giá trị sống cơ bản; tạo điều kiện để trẻ có thêm vốn hiểu biết về thế giới xung
quanh, từ đó mở rộng các mối quan hệ của trẻ, giáo dục trẻ yêu thiên nhiên, yêu
cuộc sống và làm được nhiều việc có ích cho xã hội. Đọc sách giúp trẻ tăng cường
khả năng giao tiếp: đọc sách trong một thời gian lâu, học sinh sẽ biết trình bày vấn
đề một cách mạch lạc, suông sẻ,có đầu có đuôi gọn gàng, dễ hiểu. Rèn luyện năng
lực ngôn ngữ : Học sinh thường viết sai chính tả, viết những câu không đúng ngữ
pháp, vốn từ vựng để viết văn hoặc nói quá ít…Đọc sách là biện pháp hữu hiệu nhất
giúp học sinh khắc phục những sai sót đó trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh
đọc một cuốn sách thấy tác giả dùng những từ ngữ rất hay để miêu tả bầu trời trong

những trạng thái khác nhau để rèn kĩ năng làm văn hoặc học sinh biết cách dùng
những từ ngữ chuyển tiếp như :” Đương nhiên” , “Vả lại”…một cách khéo léo ,
uyển chuyển để diễn đạt vấn đề.
Góc thư viện của lớp tôi rất có ích cho việc học tập của học sinh, có đủ các
loại sách báo: truyện cổ tích, những câu chuyện về Bác Hồ, đồng dao – đố vui, em
yêu khoa học, báo thiếu nhi, tìm hiểu về lịch sử Việt Nam….. Bởi vì học sinh nông
thôn đọc chậm, không có những câu chuyện kể phục vụ cho phân môn kể chuyện
“Kể chuyện đã nghe đã đọc”. Khi đến tiết này, anh em trong tổ đều ngán ngại vì học
sinh không có câu chuyện kể. Nên tuần nào đến tiết này tôi đều liên hệ với cán bộ
thư viện mượn những quyển truyện, sách, báo có liên quan đến yêu cầu của tiết học
và tôi đem về lớp để lên góc thư viện , giới thiệu cho các em để tìm nhũng câu
chuyện phục vụ cho tiết kể chuyện, cũng tạo cho các em rèn kĩ năng đọc, nói ,
viết…

e/ Dạy học theo ứng dụng công nghệ thông tin:
Mục tiêu của ngành giáo dục là không ngừng đổi mới phương pháp giảng
dạy và nâng cao chất lượng dạy và học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học đang được đẩy mạnh và nhân rộng trong toàn ngành.Việc dạy ứng dụng này
có sẽ mang lại những lợi ích:
+ Đối với giáo viên: Giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt
hơn. Cụ thể, giáo viên không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà
còn được tìm hiểu thêm những kĩ năng surd dụng hình ảnh, âm thanh trong thiết kế
bài dạy. Ngoài ra, ứng dụng thông tin trong giảng dạy giúp bản thân trao đổi bài
giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và nâng cao chất lượng giáo án của
mình.
+ Đối với học sinh: Các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn
hơn phương pháp dạy học khác. Ngoài sự tương tác giữa thầy cô và học trò cũng
được cải thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội thể hiện quan điểm cũng như ý
kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp cho các em ngày thêm tự tin mà còn
để cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tích cách và mức độ tiếp thu kiến thức

của học trò, từ đó điều chỉnh phù hợp và khoa học. Hơn thế nữa, việc tiếp xúc nhiều
với công nghệ thông tin trong lớp còn mang đến cho các em những kĩ năng tin học
cần thiết ngay từ khi còn học tiểu học. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực

19


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

giúp học sinh đa dạng và sáng tạo, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông
tin cho bài học của các em.

g/ Tổ chức cho học sinh đi tìm hiểu về lịch sử địa phương để các em hiểu
thêm:
Chùa Bưu Sơn Kỳ Hương là khu di tích lịch sử cách mạng, nơi đây đã có
những công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ…và ở xã Vĩnh
xương đã dựng Bia lưu niệm để tưởng nhớ 108 vị anh hùng đã hi sinh để bảo vệ quê
hương, bảo vệ biên cương…Qua thực tế, các em sẽ tham thích học tập và giáo dục
cho các em nhớ lại công ơn của những người đã ngã xuống cho ta có được cuộc
sống hôm nay, các em phải biết nhớ ơn những người đó và tự hào vì quê hương
mình đã có những người như thế , đồng thời phải biết bảo vệ và giữ gìn những khu
di tích đó…

h/ Tổ chức thi đua học tập: bằng cách cộng điểm, trừ điểm
* Những trường hợp cộng điểm:
- Học sinh hoàn thành giải được bài toán khó, trả lời câu hỏi khó
- Học sinh chưa hoàn thành học có tiến bộ ( đọc, viết, tính toán…)
- Học sinh tham gia tốt phong trào lớp, trường…
- Học sinh giúp bạn bè ( trong học tập, quyên góp tiền giúp bạn bè…)
* Những trường hợp trừ điểm:

- Nghỉ học không phép, đi trễ, phá hoại cây xanh, vứt rác bừa bãi, không làm bài,
thuộc bài, chuẩn bị sách vở không đúng thời khóa biểu…
Cuối tuần : chọn ra 1 tổ có điểm cộng cao nhất trong các tổ và 4 em đạt điểm
cộng cá nhân cao nhất trong cả lớp ( hoặc có những em học chậm mà có cố gắng
nhiều) sẽ được tuyên dương và ghi vào bảng danh dự của lớp.
Cuối học kì I và cuối năm học: chọn ra tổ nào hoặc cá nhân nào có nhiều
tuần được tuyên dương sẽ nhận một món quà nho nhỏ từ tiền quỹ của lớp. Xét khen
thưởng học sinh cuối năm( ngoài điểm thi cũng dựa vào các thành tích đạt được
trong tuần, trong tháng)
Ngoài ra tôi còn cho các em tham gia các hoạt động vui chơi của nhà
trường, của lớp để kích thích niềm đam mê đến trường, đam mê học tập.

V/ Hiệu quả:
NĂM
HỌC

TSHS

2012-2013

34

2013-2014

27

GIỎI

KHÁ


TB

YẾU

4 (11,8 %) 14 (41,2 %)

14 (41,2 %)

2 (5,8 %)

10 (37 % )

7 (26 %)

10 (37 % )
20


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

2014-2015

34

2015-2016

37

HSHT
34 (100 %)

HSHT
37 ( 100 %)

HSCHT
HSCHT
-

Trong năm học 2014 -2015 ; 2015 -2016: thực hiện theo thông tư 30 nên chỉ có
học sinh hoàn thành ( HSHT) và học sinh chưa hoàn thành(HSCHT) ; không có
học sinh giỏi, khá , trung bình, yếu như thực hiện theo thông tư 32.
Kết quả cụ thể:
* Đối với học sinh:
a/ Năm học 2013 -2014
- Duy trì sỉ số : 100%
- Hoàn thành chương trình tiểu học : 100 %
- Học sinh tham gia phong trào trường:
+ 1 em viết chữ đẹp cấp trường
+ 2 em đạt giải học sinh giỏi cấp trường
b/ Năm học 2014 -2015
- Duy trì sỉ số : 100%
- Hoàn thành chương trình tiểu học : 100 %
- Học sinh tích cực tham gia phong trào trường:
+ 2 em viết chữ đẹp cấp trường
+ 2 em đạt giải Nhất và Nhì thi kể chuyện sách cấp trường
+ 1 em đạt giải Violympic Toán cấp trường
c/ Năm học 2015- 2016:
- Duy trì sỉ số : 100%
- Hoàn thành chương trình tiểu học : 100 %
- Học sinh tích cực tham gia phong trào trường:
+ 3 em viết chữ đẹp cấp trường

+ 3 em đạt giải Violympic Toán cấp trường
+ 2 em đạt giải Nhì và Ba môn bơi lội cấp thị xã
Qua bảng thống kê, chúng ta nhận ra rằng, ở năm học 2012 – 2013: số lượng
học sinh giỏi không cao, lại có đến 2 học sinh yếu, ảnh hưởng đến chất lượng dạy
học, hiệu quả đào tạo của trường. Nhưng từ khi tôi thực hiện các giải pháp nầng cao
chất lương dạy và học- chống lưu ban bỏ học, kết quả học tập của lớp từng bước
được nâng lên, năm sau cao hơn năm trước, số lượng học sinh giỏi tăng, không có
học sinh yếu ( học sinh chưa hoàn thành), thực hiện tốt duy trì sỉ số. Bên cạnh kết
quả vừa nêu trên, các em còn tham gia tốt phong trào Giữ vở sạch- viết chữ đẹp,
học sinh giỏi, các phong trào khác đều dẫn đầu trong trường. Các em rất năng nổ
trong học tập, biết giúp đỡ bạn bè, phong trào thể dục thể thao, giúp bạn nghèo vượt
khó đều được tham gia một cách hăng say và tự nguyện.
Những biện pháp sử dụng trên, tôi nhận thấy nhiều em thoải mái, tự tin trong
học tập, tích đi học, thích được đến lớp. Chẳng hạn có 2 anh em trong lớp nhà
nghèo, đi học rất đều, có lần vì hoàn cảnh gia đình đi sang campuchia làm ăn nên
đưa em đi theo nhưng khi được về nhà ở thì em này lại đến trường học và không bỏ
học ngày nào. Có em bị bệnh viêm mũi có lúc nhức đầu nhiều nhưng vẫn nhờ ba,
mẹ đưa đi học. Bên cạnh đó các em cũng không gây gỗ , thưa kiện như trước, các
em có tinh thần giúp đỡ bạn nhiệt tình. Các em luôn biết quan tâm giúp bạn, khi
chuẩn bị thi kể chuyện các em đóng góp cho bạn từng lời kể, điệu bộ, cử chỉ, giọng
21


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

kể trang phục và sẵn sàng phụ họa cho câu chuyện của bạn… một cách nhiệt tình.
Việc học tập của học sinh phần nào đã phát huy tính tích cực. Nhiều em chịu khó
suy nghĩ, soạn bài đầy đủ, hăng hái phát biểu và thích được gọi để phát biểu, thích
tham gia nhận xét bạn, thích tham gia trò chơi. Quan sát lớp tôi thấy gương mặt
nhiều em không vui khi không được cô gọi. Đặc biệt các em tập trung trong giờ học

hơn, không còn hiện tượng nói chuyện riêng trong giờ học. Tóm lại bằng những
biện pháp nói trên, chất lượng dạy và học cũng từng bước nâng cao, góp phần
chống lưu ban , bỏ học.
* Đối với bản thân:
Qua kết quả đạt được, tôi tự thấy đã tìm được hướng đúng, bản thân cũng
không còn cảm thấy ngán ngại hay gặp khó khăn khi nhận lớp, dù học sinh lớp được
phân công như thế nào, các em chưa hoàn thành nhiều, học sinh cá biệt nhiều thì
với những biện pháp đã thực hiện thì việc nâng cao chất lượng dạy và học – chống
lưu, ban bỏ học rất dễ thực hiện. Bên cạnh đó, tay nghề giảng của bản thân ngày
càng được nâng cao thông qua việc nghiên cứu, tòi tòi, học hỏi các phương pháp ,
cách làm hay từ sách báo, đồng nghiệp và bản thân luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao : 3 năm liền là chiến sĩ thi đua, đạt giáo viên dạy giỏi cấp thị xã, giáo
viên chủ nhiệm giỏi cấp thị xã, đồ dùng dạy học giải C cấp thị xã…
* Đối với tổ, khối chuyên môn :
Với trách nhiệm là tổ trưởng chuyên môn, tôi luôn trao đổi những kinh
nghiệm cho đồng nghiệp trong tổ thực hiện và lắng nghe những đóng góp của các
thành viên những hạn chế của bản thân. Từ đó , các thành viên trong tổ đều áp dụng
, trong những năm qua, tất cả các giáo viên đều thực hiện tốt công tác chống lưu ban
bỏ học, hoàn thành chỉ tiêu về hiệu quả đào tạo . Đặc biệt là 3 năm liền, tổ đều đạt
danh hiệu : Tập thể tổ Tiên tiến.

VI/ Mức độ ảnh hưởng
1/ Khả năng áp dụng:
Tuy với sáng kiến này , đối tượng nghiên cứu của tôi là học sinh lớp 5
nhưng với cách làm này có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp và có thể áp dụng
trong tất cả các trường tiểu học. Chẳng hạn, học sinh lớp Một, Hai, Ba có thể sắm
vai ở mức độ đơn giản hơn như: sắm vai để thực hiện việc tặng quà và biết cám ơn;
phát huy khả năng giải toán nhiều cách khác nhau…
Những kinh nghiệm mà tôi đã giới thiệu trên được tôi áp dụng vào lớp học
do mình phụ trách. Thêm vào đó với những lần họp tổ chuyên môn, tôi đã giới thiệu

kinh nghiệm của bản thân với các đồng nghiệp cùng trường, và được sự ủng hộ của
các đồng nghiệp. Tôi nghĩ rằng với lòng yêu trẻ, nhiệt tình trong giảng dạy để ươm
mầm tài năng cho quê hương, cho đất nước thì tôi nghĩ người giáo viên chủ nhiệm
lớp nào cũng có thể thực hiện được .

2/ Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp:
Vậy để thành công trong việc nâng cao chất lượng dạy và học – chống
lưu ban bỏ học, người giáo viên cần:
- Cần chịu khó học hỏi, tìm tòi, đổi mới, phối hợp điều hòa các phương pháp,
vận dụng đổi mới các hình thức dạy học phù hợp, tăng tính sư phạm, giảm nhàm
chán. Cùng với hình thức thảo luận nhóm, giáo viên cần phải sử dụng phương pháp
dạy học thích hợp như tổ chức trò chơi, để học sinh tự tìm ra kiến thức mới.
- Làm đồ dùng dạy học, sưu tầm tài liệu chuyên môn, học tập , trao đổi
chuyên môn trong tổ khối và các tài liệu có liên quan.

22


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

-Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về toán, tiếng việt, văn
nghệ….
- Lên kế hoạch phụ đạo học sinh chưa hoàn thành trong mỗi tiết dạy, đầu tiết
học.
- Tạo điều kiện cho các em hòa nhập với bạn bè trong lớp, trong trường
( tham gia các cuộc thi, trò chơi trong các ngày lễ…).
- Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của nhà trường, địa phương và phụ huynh học
sinh để phục vụ cho hoạt động học tập của học sinh và công tác giáo dục.
- Nắm vững nội dung chương trình giáo dục và mục tiêu đào tạo, nắm chắc
yêu cầu trọng tâm bài giảng kết hợp với việc hệ thống toàn bộ chương trình, không

ngừng học hỏi nâng cao kiến thức.
- Hiểu tâm lí học sinh, nắm chắc hoàn cảnh và khả năng tiếp thu, thực hành
bài học của từng học sinh ( thường xuyên gần gũi, quan sát và lắng nghe học sinh).
- Biên soạn, thiết kế giờ dạy, tổ chức học sinh học tập, rèn luyện và thực
hành hiệu quả trong điều kiện của lớp học và thiết bị dạy học có được (Thường
xuyên thực hành, tích lũy kinh nghiệm và tư duy về đặc điểm cá nhân của học sinh).
- Hiệu quả giáo dục rất cao, nếu ta biết lựa chọn phương pháp dạy học một
cách hợp lí. Đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên cần chú ý đế tất cả đối
trượng học sinh trong lớp: giỏi, khá, trung bình, yếu ( học sinh hoàn thành và chưa
hoàn thành). Căn cứ vào tình hình thực tế và trình độ học sinh của lớp mình, dự
kiến thêm những bổ sung về hướng dẫn học sinh yếu (chưa hoàn thành).Riêng đối
với học sinh quá yếu, giáo viên phải cụ thể hóa yêu cầu, có thể phụ đạo thêm ngoại
giờ, điều này hoàn toàn cần thiết vì nếu chúng ta không can thiệp kịp thời thì các
em sẽ mất căn bản dẫn đến tình trạng chán học và bỏ học là điều tất yếu.
Tóm lại: Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người giáo viên là
nâng cao chất lượng giáo dục – chống lưu ban, bỏ học của học sinh.

VII/ Kết luận:
Những công việc tôi làm bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của một giáo
viên, từ tình yêu đối với học trò của mình. Thành công tôi đạt được phần lớn do nổ
lực của bản thân. Nhưng bên cạnh đó, tôi luôn nhận được những đóng góp chân
thành từ các đồng nghiệp trong trường và các thành viên trong tổ. Bản thân tôi cũng
tự nghiên cứu, tìm tòi trên các trang mạng để kiến thức giảng dạy của mình ngày
càng nâng lên góp phần nâng cao chất lượng dạy và học – chống lưu ban bỏ, học
của lớp nói riêng và của đơn vị nói chung. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, bản
thân có lẽ sẽ gặp những thiếu sót qua từng năm học, bản thân cũng sẽ nhìn nhận lại
để trong quá trình giảng dạy, bản thân mình ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại, muốn trở thành một nhà sư phạm, một giáo viên giỏi, người giáo
viên không ngừng sáng tạo, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong
soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và

đặc biệt trong giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy, chỉ
có giáo viên thật sự tâm quyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình mới
có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nhớ lời Bác dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng tiếp tục thi đua dạy tốt, học
tốt”. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh, nhưng
tôi tin rằng: “ Mỗi giáo viên đều phải vượt qua khó khăn đó và hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao bằng chính sự tận tâm của mình”. Bản thân tôi thấy mình cần phải cố
gắng hơn nhiều hơn nữa trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập, nghiên
cứu tìm hiểu, nâng cao kiến thức. Từ đó đúc kết kinh nghiệm cho bản thân và tìm ra
những giải pháp để hướng tới mục tiêu chung của toàn ngành là nâng cao chất
23


Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học - chống lưu ban, bỏ học của học sinh lớp 5.

lượng dạy và học- chống lưu ban, bỏ học của học sinh. Để thực hiện tốt điều đó,
không phải một ngày một bữa mà đó là cả một quá trình lâu dài cần phải được tiến
hành đồng thời phải có sự ủng hộ, giúp đỡ của các phụ huynh của lớp, nhà trường,
Đội thiếu niên tiền phong, các giáo viên dạy chuyên. Việc thực hiện nâng cao chất
lượng dạy và học- chống lưu ban bỏ học đã trở thành ý chí , niềm tin, động lực và
tình cảm trong lòng tôi nói riêng và cả những giáo viên có tâm quyết với nghề nói
chung.. Với lòng yêu nghề, mến trẻ và nổ lực học hỏi của bản thân cũng như nổ lực
phấn đấu của học sinh lớp 5A, Lớp học chúng tôi đã từng bước nâng cao chất lượng
dạy và học, không còn học sinh lưu ban bỏ học. Tôi tin tưởng rằng, lớp của tôi
giảng dạy sẽ đạt được những thành tích cao hơn trong học tập cũng như các hoạt
động khác nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của lớp tôi nói riêng và
toàn trường nói chung để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học mà nhà trường đã
đề ra.
Tôi xin cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến


24

Người viết sáng kiến



×