Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ MINH HẢO

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ MINH HẢO

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN VĂN LUYỆN

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là đề tài nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi với sự hướng dẫn của PGS. TS Trần Văn Luyện. Các tài liệu, tư liệu trích
dẫn được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, đảm bảo khách quan;
các số liệu, ví dụ trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, trung thực; Các kết quả
nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Minh Hảo


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
Ban Lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội cùng các thầy, cô giáo đã tận tình
giảng dạy, chỉ bảo, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập; Trân
trọng cảm ơn Lãnh đạo VKSND tỉnh Quảng Ninh cùng một số đồng nghiệp
đã giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình xây dựng luận văn
cũng như sự quan tâm, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của
PGS.TS Trần Văn Luyện giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Đề tài này tôi hoàn thành trên cơ sở nỗ lực nghiên cứu của bản thân còn
có sự kế thừa, tổng hợp tài liệu của các Nhà Nghiên cứu đi trước. Nhưng do
tính chất phức tạp của đề tài, trình độ của bản thân còn hạn chế nên luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ và góp ý của các
Nhà Khoa học và các thầy, cô giáo để luận văn hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Trần Thị Minh Hảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY ........................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra tội phạm ................................................................................. 8
1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội
phạm về ma túy ......................................................................................... 16
1.3. Quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy ...... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY CỦA VKSND
TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 29
2.1. Tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ................. 29
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội
phạm về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh ............... 39
2.3. Nhận xét, đánh giá chung về thực trạng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ninh ................................................................................. 51
Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
TỘI PHAM MA TÚY CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
QUẢNG NINH............................................................................................... 59
3.1. Dự báo tình hình tội phạm về ma túy và yêu cầu với công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trong thời gian tới ..................... 59



3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ninh ................................................................................. 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG

Biểu 2.1: Thống kê tình hình tội phạm xảy ra tại tỉnh Quảng Ninh ............... 30
Bảng 2.1: Thống kê kết quả phát hiện, khởi tố tội phạm ma túy trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh (Số liệu từ năm 2014 đến năm 2018) ........................ 32
Bảng 2.2: Kết quả CQĐT xử lý các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh (Số liệu từ năm 2014 đến năm 2018) .............................. 45
Bảng 2.3: Kết quả thực hành quyền công tố trong gia đoạn điều tra tội phạm
về ma túy của VKSND tỉnh Quảng Ninh (giai đoạn 2014 - 2018) ...... 48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị về xây dựng
nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN,
trong những năm qua, ngành KSND đã không ngừng nỗ lực phấn đấu góp
phần xây dựng một nền tư pháp tiến bộ. Hoạt động THQCT và KSHĐTP của
Ngành được mở rộng hơn, chất lượng THQCT và KSHĐTP ngày càng được
nâng cao, gắn với hoạt động điều tra và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Là
một khâu quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự, hoạt động của ngành

KSND là sự khẳng định kết quả của quá trình điều tra và tạo tiền đề đúng đắn
cho quá trình xét xử. Thông qua các bản cáo trạng, bản luận tội sắc bén, có tác
dụng xử lý nghiêm minh, cũng như răn đe, phòng ngừa tội phạm. Qua đó, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống thanh
bình của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm nói chung cũng như tình
hình TPVMT nói riêng tại Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là ở các
tỉnh biên giới, miền núi phía Bắc, trong đó có tỉnh Quảng Ninh. Tại Quảng
Ninh, TPVMT xảy ra nhiều, chiếm 35,5% trong tổng số tội phạm được phát
hiện, khởi tố và luôn có chiều hướng gia tăng về số vụ, về tính chất nguy
hiểm, phương thức hoạt động ngày càng tinh vi và hậu quả gây ra ngày càng
nghiêm trọng.
Để đấu tranh với loại tội phạm này, Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ
đạo kiên quyết đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm ma
túy ra khỏi đời sống xã hội bằng việc ban hành Luật và nhiều văn bản hướng
dẫn luật tạo thành một hệ thống pháp luật về phòng, chống TPVMT.

1


Thực hiện chỉ đạo của Ngành KSND, VKSND tỉnh Quảng Ninh chủ
động tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
TPVMT nói riêng. Trong đó, tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 21CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”; Kế
hoạch số 88/KH-VKSTC ngày 13/9/2012 của VKSND Tối cao về “Chiến
lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030 trong ngành Kiểm sát nhân dân”. Đồng thời, triển
khai có hiệu quả Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của VKSND Tối
cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công
tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm”.

Trải qua chặng đường phát triển, VKSND tỉnh Quảng Ninh đã góp
phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đấu tranh có
hiệu quả đối với các TPVMT, nhất là triệt phá các ổ nhóm, đường dây buôn
bán ma tuý lớn, góp phần kiềm chế sự gia tăng của TPVMT cũng như các loại
tội phạm khác. Hoạt động THQCT và KSHĐTP được đổi mới, chất lượng
THQCT, trong đó THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các TPVMT được
nâng cao; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết
nghiêm minh, đúng pháp luật các TPVMT xảy ra trên địa bàn, hạn chế tình
trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô
tội; đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp
phần không nhỏ trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Từ đó làm
chuyển biến đáng kể về trật tự trị an- xã hội, tạo môi trường an toàn, thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, được chính
quyền địa phương và nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tuy nhiên, trên thực tế việc đấu tranh với các TPVMT gặp nhiều khó
khăn vì lợi nhuận từ tội phạm mang lại quá cao, thủ đoạn phạm tội tinh vi xảo
quyệt, đối tượng phạm tội sẵn sàng manh động, liều lĩnh, khi bị phát giác có

2


thể chống trả quyết liệt, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, vì nhiều lý do mà
hoạt động THQCT trong các giai đoạn đối với các vụ án hình sự, trong đó có
THQCT trong giai đoạn điều tra các TPVMT còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu
sót như: Việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm; một số KSV chưa thực sự chủ động trong hoạt động THQCT
ngay từ giai đoạn đầu, việc đề ra yêu cầu điều tra trong một số vụ án còn sơ
sài, chưa cụ thể nên việc định hướng cho hoạt động điều tra còn hạn chế; còn

để xảy ra tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc phải gia hạn thời hạn điều
tra, vấn đề hợp tác quốc tế trong việc xử lý loại tội phạm này còn nhiều bất
cập... Đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều tra, xử lý các vụ án về ma túy.
Những hạn chế, thiếu sót nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó cơ bản là do nhận thức về công tác THQCT và KSĐT của VKSND
đối với các TPVMT còn chưa đầy đủ và thiếu thống nhất. Lý luận về hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra các TPVMT chưa được xem xét,
nghiên cứu đầy đủ và toàn diện. Thực tiễn công tác THQCT ở giai đoạn điều
tra các TPVMT chưa được tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài "Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ninh" làm luận văn thạc sĩ luật học, nhằm đáp ứng phương diện lý luận và
thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các
TPVMT tại VKSND tỉnh Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
THQCT và các TPVMT. Cụ thể:
- Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở
Việt Nam từ 1945 đến nay, của VKSND tối cao, năm 1999.

3


- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra của TS. Lê Hữu Thể (chủ biên), năm 2008.
- Hiểm họa ma túy và cuộc chiến mới của PGS.TS. Nguyễn Xuân Yêm
và TS Trần Văn Luyện, năm 2002.
- Đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy có yếu tố nước ngoài của
PGS.TS. Trần Văn Luyện và ThS. Nguyễn Xuân Tất Hòa, năm 2011.
- Luận văn thạc sĩ của Cao Việt Cường về Một số lý luận và thực tiễn

về THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND, năm 2012.
- Luận văn thạc sĩ của Hà Minh Loan về THQCT trong giai đoạn điều
tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, năm
2017.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng đã có một số tác giả có công trình
nghiên cứu liên quan đến các TPVMT như:
- Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hải Yến về Điều tra các tội phạm về ma
túy trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, năm 2012.
- Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Thanh về Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn
thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, 2012;
Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngành và
nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án ma túy trong tình hình hiện
nay của TS. Trần Công Phàn (Tạp chí Kiểm sát số 20, 2015); Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy của tác giả Bùi Sơn Cường (Tạp chí Kiểm sát
số 21, 2015); Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra trước yêu cầu cải cách tư pháp" của PGS. TS.
Nguyễn

Hòa

Bình

(Báo

Người

bảo


vệ

quyền

lợi,

, 2016); Những điểm mới về thực hành quyền

4


công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của ThS. Hoàng Xuân Đàn (Tạp
chí Khoa học kiểm sát số 01, 2016); Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác phối hợp trong giải quyết vụ án ma túy của TS. Nguyễn Minh Đức
(Tạp chí Kiểm sát số 09, 2017)...
Các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đề cập đến những khía
cạnh hoặc những vấn đề lý luận chung. Tuy nhiên, tại địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, dưới góc độ lý luận, chưa có nghiên cứu nào đi sâu về thực trạng
THQCT trong giai đoạn điều tra các TPVMT. Đây là vấn đề cần được tập
trung nghiên cứu bởi THQCT trong giai đoạn điều tra có vị trí rất quan trọng
và có ý nghĩa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm đảm bảo cho hoạt
động điều tra được thực hiện nhanh chóng, đúng pháp luật, phát hiện và xử lý tội
phạm kịp thời, không làm oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Mặt khác, Quảng Ninh
hiện là một trong những địa bàn nóng, phức tạp về tội phạm ma túy và hiện
quá trình giải quyết các TPVMT tiếp tục nảy sinh những vấn đề vướng mắc
mới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác
phòng, chống các TPVMT và tiếp tục nâng cao chất lượng THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với các TPVMT của VKSND tỉnh Quảng Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích: Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, những
quy định của pháp luật về hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các
TPVMT. Đánh giá thực trạng của hoạt động này trên địa bàn Tỉnh; Dự báo
tình hình TPVMT và đề xuất các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng
THQCT ở giai đoạn điều tra các TPVMT tại VKSND tỉnh Quảng Ninh.
Về nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản như
khái niệm, đối tượng, nội dung, phạm vi của QCT, THQCT trong giai đoạn
điều tra của VKSND; khái niệm, đặc điểm, vai trò của THQCT trong giai
đoạn điều tra các TPVMT và các hoạt động khi THQCT trong giai đoạn này.

5


Đánh giá thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra TPVMT của
VKSND tỉnh Quảng Ninh, nêu lên những thành quả đạt được, những hạn chế,
vướng mắc và nguyên nhân. Dự báo tình hình TPVMT và yêu cầu với công
tác đấu tranh phòng, chống các TPVMT. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm đảm
bảo đảm, nâng cao chất lượng THQCT ở giai đoạn điều tra các TPVMT của
VKSND tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của việc THQCT ở giai đoạn điều tra các TPVMT trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc THQCT trong giai
đoạn điều tra các TPVMT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong 05 năm, từ năm
2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu :
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và ngành Kiểm sát

nhân dân về đấu tranh phòng, chống TPVMT; đặc biệt là quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận là Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tội phạm; Các
phương pháp nghiên cứu cụ thể là các khoa học chuyên ngành khác, trong đó
đặc biệt chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối tượng, phạm
vi và nội dung của quyền công tố và THQCT trong giai đoạn điều tra các

6


TPVMT; Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận THQCT trong giai đoạn điều tra
các TPVMT của VKSND
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá kết quả
THQCT ở giai đoạn điều tra các TPVMT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, dự
báo tình hình TPVMT và yêu cầu với công tác đấu tranh phòng, chống các
TPVMT, tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
THQCT trong giai đoạn điều tra các TPVMT của VKSND tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian tới. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học
tập, nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo chức danh Kiểm sát viên và áp dụng trong
công tác thực hành quyền công tố các vụ án hình sự.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các TPVMT.

Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các TPVMT ở VKSND tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT trong giai
đoạn điều tra các TPVMT của VKSND tỉnh Quảng Ninh.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra tội phạm
1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Công tố là một biện pháp chuyên chính của mọi Nhà nước trong lịch
sử. Thực hiện đầy đủ quyền công tố nhà nước nhằm bảo vệ chế độ, trật tự kỉ
cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo Đại từ
điển tiếng Việt, “Công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư”,
còn “Tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách
công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”,“Công tố” có
nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa
án” [51, tr 459]. Theo Từ điển Luật học thì “Quyền công tố là quyền buộc tội
nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội… Quyền công tố chỉ được xem xét
trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn
liền, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền)
chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố
tụng hình sự” [50, tr 188].
Như vậy, công tố thể hiện mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời với
pháp luật hình sự. Trong đó, Nhà nước là chủ thể quyền lực (quyền lực công),
thực hiện việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. QCT, vì thế

được hiểu là việc nhân danh công quyền (Nhà nước) thực hiện việc buộc tội đối
với người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Ở Việt Nam, nói đến QCT và THQCT là đề cập đến chức năng của
VKSND. Hiến pháp năm 1980, tại Điều 138 lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Thực
hành quyền công tố” [25]. Nội dung này tiếp tục được đề cập tại các Điều 1,
Điều 3 Luật Tổ chức VKSND các năm 1981 và 2002. Hiến pháp năm 2013 được
Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 và Luật tổ chức VSKND sửa đổi,

8


bổ sung được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2014, có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/6/2015 tiếp tục khẳng định chức năng của VKSND là THQCT và
KSHĐTP. Tuy nhiên, kể từ khi xuất hiện, nhận thức về QCT còn có nhiều quan
điểm khác nhau, thể hiện:
Quan điểm thứ nhất khẳng định, “Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố” [23, tr.17] .
Quan điểm này dựa trên quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 1981 và
đã đánh đồng QCT với hoạt động KSTTPL. Theo đó, công tố không phải là một
chức năng độc lập mà chỉ là một hình thức thực hiện chức năng KSTTPL của
VKS. Tuy nhiên, quan điểm này chưa chính xác vì trong thực tiễn hoạt động của
VKS, mặc dù hai chức năng công tố và KSTTPL có sự liên hệ chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau nhưng đây là hai chức năng độc lập cả về phạm vi áp dụng
và nội dung.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích
Nhà nước, xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [10, tr.84]. Theo quan
điểm này, QCT xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu
tiên trong lĩnh vực TTHS. Cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành luật
nên QCT được mở rộng sang các lĩnh vực như tố tụng dân sự, tố tụng khác như

một quyền năng nhằm thực hiện chức năng KSTTPL, nhằm đảm bảo mọi hành
vi vi phạm pháp luật và tội phạm đều bị phát hiện, xử lý theo pháp luật. Quan
điểm này đã đánh đồng giữa khái niệm QCT Nhà nước với thẩm quyền của VKS
trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự… dẫn tới việc xác định quá rộng
khái niệm, nội dung và phạm vi của QCT, làm mất đi ranh giới, tính đặc thù của
TTHS và các lĩnh vực tố tụng khác. Đây cũng là quan điểm đã được đưa vào
chương trình giảng dạy chính thức tại trường Cao đẳng kiểm sát.
Với quan điểm thứ ba thì “Quyền công tố là quyền của Nhà nước, được
Nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan VKS) thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố

9


có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội
phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ
sự buộc tội trước phiên tòa” [36, tr40]. Theo quan điểm này, QCT chỉ có trong
TTHS, là quyền nhân danh Nhà nước nhằm phát hiện tội phạm và truy cứu
TNHS đối với người phạm tội.
Tác giả đồng tình quan điểm thứ ba về khái niệm QCT, vì quan điểm này
đã xác định được QCT chỉ có thể do một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam là cơ
quan VKS); QCT tồn tại song song, độc lập với quyền tài phán của Tòa án, là
quyền truy cứu TNHS đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước
phiên tòa.
Như vậy có thể hiểu: Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, do
VKSND thực hiện, thể hiện ở việc phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội bằng các hoạt động cụ thể như thu thập chứng cứ buộc tội,
truy tố bị can và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa.
Đối tượng của quyền công tố
Vì QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực hiện

việc truy cứu TNHS) đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó nên đối
tượng của quyền công tố chính là tội phạm và người phạm tội.
Nội dung của quyền công tố
Trong chức năng buộc tội, với tư cách là một chức năng tố tụng luôn
nhằm chống lại một cá nhân cụ thể và bản chất của nó là hoạt động truy cứu
TNHS đối với người phạm tội. Xuất phát từ quan điểm QCT là quyền nhân
danh Nhà nước truy cứu TNHS đối với người phạm tội, là sự buộc tội nhân
danh Nhà nước. Do vậy, nội dung của QCT chính là sự buộc tội đối với người đã
thực hiện hành vi tội phạm.
Phạm vi quyền công tố
Phạm vi về không gian: QCT là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu TNHS nên có phạm vi trong lĩnh vực TTHS.

10


Phạm vi về thời gian: QCT bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết
thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Vì ngay khi hành vi phạm tội được thực
hiện thì cơ quan công tố (VKS) có quyền và nghĩa vụ tiến hành ngay các hoạt
động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện tội phạm xác định các
căn cứ để buộc tội người phạm tội trước phiên tòa. Như vậy, QCT phát sinh từ
khi tội phạm xảy ra và chấm dứt khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, không
bị kháng cáo, kháng nghị, tức là quyền tài phán chấm dứt thì quyền công tố cũng
bị triệt tiêu.
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội
phạm
QCT là quyền được nhân danh quyền lực Nhà nước trong hoạt động
truy tố người vi phạm pháp luật ra xét xử. Nhà nước thông qua việc trao lại
quyền công tố cho một cơ quan độc lập để bảo đảm việc truy tố những tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác hoặc xâm phạm tới hoạt động
quản lý Nhà nước. Xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung
QCT theo luật định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội chính là THQCT.
Ở nhiều nước trên thế giới, QCT được giao cho Viện Công tố thực
hiện, riêng nước ta và một số nước theo đường lối XHCN, QCT được giao
cho VKSND cùng với chức năng KSTTPL. Căn cứ vào quy định của Hiến
pháp và pháp luật nước ta cũng như trong thực tiễn, QCT được giao duy nhất
cho VKSND và chủ thể THQCT ở Việt Nam là VKSND. Cụ thể, Điều 107
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp" [29]. Thể chế hóa quy định của Hiến
pháp, tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã xác định “Thực hành
quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ
khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá

11


trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [30]. Điều 20 BLTTHS
năm 2015 cũng quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát
hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [31]. Như vậy, THQCT là
hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội. Việc VKSND sử dụng các quyền năng pháp lý nhằm
truy cứu TNHS đối với người phạm tội chính là THQCT.

Từ những nội dung trên, có thể kết luận: THQCT là việc VKSND sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện các
hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật TTHS để truy cứu TNHS
người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó.
Phạm vi hoạt động THQCT của VKSND là trong tất cả các giai đoạn
TTHS, từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố cũng như trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
(bao gồm cả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm) để truy cứu TNHS
đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước tòa án.
Hoạt động THQCT của VKSND được thực hiện thông qua thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng trong TTHS, bao
gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên (điểm
b, khoản 2 Điều 34 BLTTHS năm 2015). Đây cũng chính là chủ thể của hoạt
động THQCT vụ án hình sự.
Như vậy QCT và THQCT là hai khái niệm khác nhau. Nói đến QCT là
nói đến phạm trù lý luận, đó chính là là quyền của Nhà nước, nhân danh
quyền lực công thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội, còn

12


THQCT là một phạm trù thực tiễn, là việc tổ chức thực hiện QCT. Có thể
thấy QCT là sơ sở của THQCT, phải có QCT thì mới có THQCT. Như đã nêu
trên, phạm vi QCT xác lập từ khi tội phạm được thực hiện còn THQCT chỉ
phát sinh từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng
nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, nhiều
trường hợp mặc dù có tội phạm xảy ra nhưng không được phát hiện, khởi tố
do nhiều nguyên nhân khác nhau. Khoa học pháp lý gọi đó là “tội phạm ẩn”.

Đối với các trường hợp này, cơ quan tố tụng không được áp dụng các biện
pháp THQCT. Như vậy, phạm vi THQCT hẹp hơn so với phạm vi QCT.
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự theo TTHS Việt Nam có nhiều
giai đoạn. Trong quá trình này, giai đoạn điều tra là giai đoạn thứ hai góp
phần quan trọng trong việc phát hiện chính xác, kịp thời mọi tội phạm và
người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, điều tra là “tìm hiểu, xét hỏi để biết rõ sự
thật” [51, tr 638]; còn theo Từ điển Luật học thì “Điều tra là công tác trong
tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ” [50, tr 257]. Có thể hiểu điều tra vụ án hình
sự là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào
các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các
biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các
tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng
như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu TNHS, đồng
thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và
trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là chuyển toàn
bộ các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị
truy tố bị can.

13


Cũng theo TTHS, trong giai đoạn điều tra, VKS có nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc THQCT và KSHĐTP. Trong giai đoạn này, thường có sự nhầm lẫn
giữa hoạt động THQCT và KSHĐTP hoặc nhầm tưởng VKS chỉ tiến hành
KSHĐTP trong giai đoạn này. Theo quy định của pháp luật và trên thực tiễn,
THQCT trong giai đoạn điều tra là các hoạt động nhằm vào việc buộc tội và
các biện pháp tác động vào quyền nhân thân của người phạm tội như hạn chế

hoặc tước bỏ một số quyền tự do của người phạm tội như yêu cầu bắt, tạm
giữ, tạm giam hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác. Đây là hoạt động
có vị trí rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc thực hiện vai trò của VKSND
trong quá trình điều tra vụ án hình sự, thể hiện quyền buộc tội của Nhà nước
đối với người phạm tội mà đại diện là VKS. Còn KSHĐTP trong giai đoạn
điều tra (kiểm sát điều tra) là hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát sinh trong giai
đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật. Đây là hoạt động hướng tới sự tuân thủ pháp luật
của CQĐT trong giai đoạn này, nhằm đảm bảo mọi hoạt động điều tra, xác minh
sự thật khách quan của vụ án của CQĐT đều được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, VKS sẽ tiến hành kháng nghị,
kiến nghị yêu cầu chấm dứt, khắc phục ngay vi phạm.
Như vậy, cùng với KSHĐTP, THQCT trong giai đoạn điều tra là hai chức
năng quan trọng, độc lập của VKS, có mối quan hệ biện chứng hết sức mật thiết,
chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra được thực hiện nhanh chóng,
đúng pháp luật, phát hiện và xử lý tội phạm kịp thời, không làm oan, sai và bỏ
lọt tội phạm.
Từ những nội dung trình bày trên, có thể kết luận: THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự là việc VKSND trực tiếp thực hiện quyền năng
do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.

14


Nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự bao bồm:
THQCT trong việc KTVA, KTBC; Hoạt động THQCT tiếp tục được thực hiện
trong giai đoạn điều tra, như yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định
KTVAHS, khởi tố bị can; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành

điều tra; khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra; Quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp
ngăn chặn khác; Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; Hủy bỏ
các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT. Cuối cùng là những
hoạt động kết thúc THQCT trong giai đoạn điều tra, gồm việc ra quyết định truy
tố bị can hoặc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Phạm vi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự: Việc xác
định đúng phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra là rất cần thiết,
đó là cơ sở quan trọng để phân biệt với hoạt động KSHĐTP và các hoạt động
thực hiện chức năng khác nhằm thực hiện đúng thẩm quyền trong quá trình
điều tra vụ án hình sự. Theo điều 165 BLTTHS quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra, bên cạnh việc thực hiện
những hoạt động của giai đoạn điều tra, VKS còn thực hiện những hoạt động
của giai đoạn khởi tố (quyết định khởi tố). Theo đó phạm vi THQCT của
VKS trong giai đoạn điều tra bao trùm lên hoạt động khởi tố, điều tra. Như
vậy phạm vi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu từ khi tiếp
nhận thông tin tội phạm, KTVA và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều
tra, đề nghị VKS truy tố người phạm tội hoặc đình chỉ điều tra vụ án theo quy
định của pháp luật.
THQCT trong giai đoạn điều tra mang ý nghĩa quan trọng, thể hiện vai
trò của VKSND trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Hoạt động này nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp
thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các
quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và

15


nhân phẩm một cách trái pháp luật; đảm bảo việc truy cứu TNHS đối với bị

can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
tội phạm về ma túy
1.2.1 Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về ma túy
Trên thế giới cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về ma túy
hay chất ma túy. Theo các Công ước quốc tế về kiểm soát ma túy mà Việt
Nam là thành viên (Công ước quốc tế 1961, 1971, 1988); Luật Phòng, chống
ma túy năm 2000 (được sửa đổi bổ sung năm 2008); các Nghị định quy định
danh mục chất ma túy và tiền chất ma túy (Nghị định số 67/2001/NĐ-CP;
Nghị định số 133/2003/NĐ-CP; Nghị định số 163/2007/NĐ-CP; Nghị định số
17/2011/NĐ-CP; và Nghị định số 73/2018/NĐ-CP) đều sử dụng phương pháp
liệt kê để xác định các chất ma túy để kiểm soát. Theo Nghị định số
73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 thì ở nước ta hiện nay, danh mục các chất
ma túy và tiền chất do Chính phủ ban hành và kiểm soát gồm 515 chất, chia
làm 03 danh mục và 44 tiền chất [14].
Chất ma túy được hiểu là các chất gây nghiện, chất hướng thần, có
nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, được quy định trong các danh mục do
chính phủ ban hành. Các chất này khi xâm nhập vào cơ thể người, nó sẽ làm
thay đổi trạng thái, ý thức và sinh lý, có thể dẫn đến nghiện, gây tác hại về
nhiều mặt đối với xã hội [19,tr 10].
Do tính chất nguy hiểm và tác hại hết sức to lớn của ma túy cũng như
việc vi phạm các quy định về chế độ quản lý chất ma túy mà ở Việt Nam cũng
như các nước trên thế giới đều quy định Nhà nước thống nhất quản lý các chất
ma túy, nghiêm cấm việc trông cây thuốc phiện và các cây khác chứa chất ma
túy; nghiêm cấm các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm
đoạt, sử dụng chất ma túy và các hành vi vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép các chất ma túy [21, tr 6,7].

16



Quán triệt quan điểm này và để cụ thể hóa các hành vi phạm tội về ma
túy, BLHS của Việt Nam dành một chương riêng với các điều luật tương ứng
với các tội danh cụ thể. Trải qua quá trình vận dụng, thi hành, BLHS đã được
sửa đổi, bổ sung nhiều lần để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung và phòng, chống tội phạm về ma túy nói riêng. Ngày
27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS, có
hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016, trong đó tội phạm về ma túy được quy định tại
Chương XX với 13 điều luật, từ Điều 247 đến Điều 259.
Qua nghiên cứu cho thấy, các TPVMT gồm nhiều loại hành vi khác
nhau được quy định trong BLHS nhưng đều có chung hai đặc điểm, đó là:
- Tính nguy hiểm cho xã hội của các TPVMT thể hiện ở sự đe dọa
nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của con người, cũng
như đe dọa đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng nói chung;
- Đối tượng là các chất ma túy (hoặc liên quan đến chất ma túy), các
chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính
phủ ban hành.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về các TPVMT như
sau: Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm đến chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước ta về các chất ma túy, các
tiền chất để sản xuất chất ma túy và những hoạt động liên quan trực tiếp đến
quá trình quản lý, sử dụng các chất ma túy và các tiền chất đó.
Cấu thành tội phạm của các TPVMT giống nhau ở các dấu hiệu về khách
thể, chủ thể và mặt chủ quan. Giữa chúng chỉ khác nhau về mặt khách quan.
- Về khách thể của các TPVMT: Các TPVMT xâm phạm đến hai khách
thể quan trọng, đó là xâm phạm đến chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về
các chất ma túy, các tiền chất để sản xuất chất ma túy và những hoạt động liên
quan trực tiếp đến quá trình quản lý, sử dụng các chất ma túy và các tiền chất
đó và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội [21, tr.488].


17


- Về chủ thể của các TPVMT: Là những người có năng lực TNHS và đạt
độ tuổi theo quy định của BLHS. Trong 13 điều luật quy định về các TPVMT,
chỉ có tội trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa và các loại cây khác có
chứa chất ma túy (Điều 247) là tội phạm nghiêm trọng nên chủ thể của tội phạm
là người từ đủ 16 tuổi trở lên; 11 tội khác (từ Điều 248 đến Điều 258) là tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nên chủ thể của tội phạm là
người từ đủ 14 tuổi trở lên. Ngoài ra, chủ thể của tội Vi phạm các quy định về
quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 259) là
người có trách nhiệm trong công tác này [21, tr.489].
- Về mặt chủ quan của các TPVMT: Đều được thực hiện với lỗi cố ý.
Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này
[21, tr.489].
- Về mặt khách quan của các TPVMT: Tuy có khác nhau về hình thức thể
hiện nhưng đều là những hành vi vi phạm chế độ thống nhất quản lý các chất ma
túy của Nhà nước. Các TPVMT bao gồm năm nhóm hành vi, đó là: Trồng cây
thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa và các cây khác có chứa chất ma túy; Sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy, tổ chức,
chứa chấp, lôi kéo, cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy; Tàng
trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy; Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện,
dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; Hành vi vi
phạm các quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy
khác. Đối tượng tác động của tội phạm là các chất ma túy và các tiền chất để sản
xuất ra chất ma túy [21, tr.490].
1.2.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các tội phạm về ma túy

Khái niệm THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy:
Từ những sự phân tích về khái niệm THQCT và tội phạm về ma túy nêu
trên, có thể xác định: THQCT trong giai đoạn điều tra các TPVMT chính là việc

18


×