Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh nam định)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 112 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TH HNG GIANG

KIểM SáT Và THựC HàNH QUYềN CÔNG Tố
TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA CáC Vụ áN XÂM PHạM TìNH DụC
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TH HNG GIANG

KIểM SáT Và THựC HàNH QUYềN CÔNG Tố
TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA CáC Vụ áN XÂM PHạM TìNH DụC
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS NGUYN NGC CH

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐỖ THỊ HƢƠNG GIANG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VÀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM TÌNH DỤC ....................................................................................... 6
1.1.

Khái quát về kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra và các tội phạm xâm phạm tình dục ............................................6

1.1.1.

Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra ..................................................................................6

1.1.2.

Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tình
dục trong Bộ luật hình sự Việt Nam ............................................................14

1.2.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, nội dung hoạt động kiểm sát
và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm
phạm tình dục..............................................................................................18

1.2.1.

Khái niệm, vai trò, ý nghĩa hoạt động kiểm sát và thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ...................18

1.2.2.

Đặc điểm của thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ................................21

1.2.3.


Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ................................23

Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................27
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ..................................28


2.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm tình dục ..........................................................................28

2.1.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến trước năm 2003 về
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ................................28

2.1.2.

Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động kiểm sát và thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục theo
Bộ Luật tố tụng hình sự 2003.......................................................................32

2.1.3.


Quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động kiểm sát và thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục theo
Bộ Luật tố tụng hình sự 2015.......................................................................48

2.2.

Thực tiễn hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp và thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục
trên địa bàn tỉnh Nam Định ......................................................................49

2.2.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định và tình hình tội phạm về xâm
phạm tình dục ở tỉnh Nam Định...................................................................49

2.2.2.

Tình hình hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn
tỉnh Nam Định ..............................................................................................59

2.2.3.

Nhận xét, đánh giá .......................................................................................67

Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................79
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG
TÁC KIỂM SÁT VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .........................................................80
3.1.

Dự báo những yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kiểm sát và thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm
tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định .......................................................80

3.1.1.

Dự báo về tội phạm tình dục trong thời gian tới ..........................................80


3.1.2.

Yêu cầu đặt ra đối với công tác điều tra, thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm
phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định ..................................................81

3.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án
xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định ....................................83

3.2.1.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm xâm
phạm tình dục ...............................................................................................83


3.2.2.

Giải pháp tiếp tục hoàn thiện và triển khai pháp luật tố tụng về thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra ..........................................................................................................84

3.2.3.

Nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục ..........89

Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................98
KẾT LUẬN ..............................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

KSHĐTP:


Kiểm sát hoạt động tư pháp

KSV:

Kiểm sát viên

THQCT:

Thực hành quyền công tố

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang


Bảng 2.1: số vụ án hình sự đã xảy ra từ năm 2011- 2015 trên địa
bàn tỉnh Nam Định
Bảng 2.2: Số vụ án và bị can phạm tội xâm phạm tình dục trên
địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2011 – 2015

54
55

Bảng 2.3: Số vụ và người phạm tội bị khởi tố theo từng tội xâm
phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm
2011 -2015

55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
thành lập trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1960. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động
của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên tắc
tổ chức, hoạt động của VKSND nói riêng, đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng nên từ
khi thành lập Ngành đến nay, việc tăng cường trách nhiệm, nâng cao chất lượng
công tố của VKSND trong quá trình điều tra là chủ trương nhất quán, xuyên suốt
cuả Đảng và Nhà nước ta trong suốt hơn 50 năm qua.
Các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp trong những năm gần đây có
những chủ trương hết sức quan trọng về trách nhiệm công tố của VKS trong giai

đoạn điều tra. Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh:
VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi phát hiện
có dấu hiệu tội phạm xảy ra và diễn ra trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời
các trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ [6].
Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” đặt ra nội dung “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra” [7]; Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của
Đảng xác định: “Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ lấy cải cách hoạt động xét
xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [8]. Tại Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm tốt hơn các
điều kiện để VKSND thực hiện hiệu quả các chức năng thực hành quyền công tố và

1


kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [9].
Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện các nghị quyết trên của Đảng,
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của ngành
kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Với số lượng lớn các vụ án
hình sự được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng kịp thời bảo đảm sự
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đã khắc phục phần nào trong
việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai, tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao,
công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh phòng chống tội phạm đã được đẩy
nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang giải quyết được nhiều vụ án tham
nhũng gây hậu quả nghiêm trọng.
Những năm vừa qua, trên địa bàn Nam Định tình hình tội phạm nói chung,

tội xâm phạm tình dục nói riêng có diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng về
số lượng và tính chất nghiêm trọng gây ra những hậu quả lớn không những đối với
nạn nhân mà còn cho xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, thực tiễn hoạt động tố tụng giải quyết vụ án đã chỉ ra: Vai trò, quyền hạn,
trách nhiệm của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT còn nhiều hạn chế … dẫn
đến hiện tượng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, chưa phát hiện, uốn nắn kịp
thời các vi phạm trong hoạt động điều tra đối với loại tội phạm này. Vì vậy, tăng
cường hiệu quả kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra của VKSND về loại tội
phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong
giai đoạn hiện nay.
Chính vì lý do trên học viên chọn đề tài: “Kiểm sát và thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục (trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Nam Định)” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta hiện nay, liên quan đến hoạt động THQCT và KSĐT, tác giả cũng
đã tiếp cận, tham khảo được một số công trình nghiên cứu sau:
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra” của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản tư pháp, 2005;

2


- Luận án tiến sĩ Luật học “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị tuyết
Hoa; Hà Nội, năm 2002;
- Luận văn thạc sỹ luật học của các tác giả như: Nguyễn Hải Phong (1999)
“Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam”; Nguyễn Hiệp
Phố (1999), “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra hình sự”.
Về vấn đề các tội phạm về xâm phạm tình dục có thể kể đến các công trình
nghiên cứu như sau: Luận văn thạc sỹ luật học (2014) của Nguyễn Minh Hương:
“Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam”.

Như vậy, qua đánh giá khái quát chủ yếu các công trình nghiên cứu và bài
viết mang tính khái quát, toàn diện về chức năng THQCT và KSĐT của ngành kiểm
sát nhân dân mà chưa có nhiều chuyên khảo nghiên cứu về THQCT và KSĐT các
loại tội cụ thể. Điều này càng khẳng định thêm ý nghĩa khi chọn đề tài của tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý
luận về hoạt động kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của
VKSND, thực tiễn áp dụng đối với các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh
Nam Định nói riêng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra, đặc biệt là
các vụ án về xâm phạm tình dục.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai
đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định, đồng thời
phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSHĐTP trong

3


giai đoạn điều tra, đặc biệt là trong việc THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều
tra các vụ án xâm phạm tình dục.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, luận văn tập

trung nghiên cứu hoạt động kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các
vụ án xâm phạm tình dục.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động kiểm sát và THQCT các
vụ án xâm phạm tình dục trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước về cải cách tư pháp nói chung và tổ chức,
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống
kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
Luận văn đã khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt
động kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục.
Luận văn đánh giá kết quả, phân tích những hạn chế trong hoạt động của
VKSND khi kiểm sát và THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục,
thông qua đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của VKSND trong hoạt
động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Nam Định.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết quả của luận văn góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về hoạt
động của VKSND khi THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm
phạm tình dục, góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học luật hình
sự, luật tố tụng hình sự và khoa học điều tra hình sự.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các
nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự
tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc
trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan điều điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát và thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục.
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn hoạt động thực hành công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát và thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn
tỉnh Nam Định

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT
VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC
1.1. Khái quát về kiểm sát và thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra và các tội phạm xâm phạm tình dục
1.1.1. Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra
1.1.1.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
a. Khái niệm quyền công tố
Để hiểu rõ về thực hành quyền công tố, trước hết cần tìm hiểu: Quyền công
tố là một hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng đối với người phạm tội đã được biết
đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Quyền công tố là một khái
niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và
không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà
nước, nó ra đời, tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà
nước, quyền công tố chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của
giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và
lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có
những thay đổi. Lợi ích cá nhân liên quan đến lợi ích công, tác động qua lại với
nhau, chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống cá nhân. Từ đó
vai trò của công tố càng được đề cao trong xã hội.
Ở nước ta, về mặt lập pháp, thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” được ghi
nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp 1980 khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ của
VKSND. Từ đó đến nay, trong khoa học và trong thực tiễn có nhiều ý kiến, quan
điểm khác nhau về khái niệm cũng như các vấn đề có liên quan: Đối tượng, phạm
vi, nội dung, chủ thể thực hành của quyền công tố và theo đó là thực hành quyền
công tố nhưng chưa có quan điểm nào được các cơ quan có thẩm quyền chính thức

6


công nhận và cũng chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn
một cách chính thức các vấn đề này.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc

tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án” [51, tr. 453].
Theo từ điển luật học định nghĩa về “quyền công tố” như sau: “Quyền công
tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội” [41, tr. 188].
Trong giới nghiên cứu khoa học, có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều quan
điểm khác nhau như:
Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKSND (trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa
đổi, bổ sung năm 2001). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKSND để xem xét
quyền công tố, theo đó tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là
THQCT. Điều này có nghĩa ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu cơ quan nhà nước sửa
chữa những vi phạm trên lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội cũng là THQCT. Quan
điểm này cho rằng: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình
thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [35, tr. 85-87]. Theo tôi
khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên là chưa chính xác vì đã đánh đồng
quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật đồng thời cũng không
phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các luật. Theo quy định của pháp luật
nước ta trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi thì VKS có hai chức năng:
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng THQCT. Hai chức năng
này có một số nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau,
nhưng về nội dung và phạm vi áp dụng thì giữa chúng vấn có sự độc lập với nhau.
Vì vậy không thể đồng nhất hai chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của VKS.
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS truy
tố kẻ phạm tội ra trước Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà (THQCT). Quan
điểm này cho rằng việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm hình sự. Quan điểm này thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của

7



quyền công tố (hoạt động khởi tố, điều tra không đề cập đến chức năng này) [46,
tr.19]. Về lý luận cũng như trên thực tế, hoạt động THQCT của VKS tại Toà án chỉ
là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng THQCT của VKS.
Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt Nhà nước bảo
vệ lợi ích công, do vậy quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự
mà có trong lĩnh vực tố tụng dân sự, hành chính [35, tr. 84-87]. Quan điểm này đã
mở rộng khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố, đồng nhất quyền công tố với
quyền năng khác của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, dân sự, hành
chính… Những người theo quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi
có Nhà nước và pháp luật được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng
hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, các ngành luật, quyền công tố được mở
rộng sang lĩnh vực tố tụng dân sự và lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành
vi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội
phạm. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã
được đưa vào giáo trình giảng dạy của trường Đại học kiểm sát Hà Nội và thường
xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng
kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo tôi, quan điểm này quá mở rộng cả khái
niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với các
quyền năng khác của VKS trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải
quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…)
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội [46, tr.10]. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên và những
người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội, cũng như
các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội. Theo quan
điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố không chỉ có ở VKS mà còn có ở các
cơ quan tiến hành tố tụng khác (cơ quan điều tra, toà án, thi hành án). Quan điểm này
đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc tố tụng hình sự, đã xoá nhòa
ranh giới giữa các chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự.


8


Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các
cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm Luật hành chính, Luật dân
sự, Luật kinh tế, luật hình sự và quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự
cáo buộc đó[ 46, tr.11]. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước,
Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người
ban hành pháp luật, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời là chủ thể tham gia
vào nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Như vậy, quyền công tố được thực hiện
trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật: Tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự tồn tại quyền công
tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan, vì Nhà nước
không thể không thực hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm
pháp luật và sự hiện diện công tố như một điều kiện bảo đảm tính hiệu quả của việc
giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ quan tài phán. Do đó quyền công tố được
thể hiện ở nhiều phương diện như quyền khởi tố vụ án dân sự, hành chính, kinh tế,
lao động, hình sự và tham gia tố tụng ở bất cứ giai đoạn nào khi thấy cần thiết…
Theo tôi, quan điểm này không phù hợp với thực tế vì trong lĩnh vực dân sự, hành
chính, kinh tế, lao động phải tôn trọng nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự. Chỉ khi nào cần thiết (theo quy định tố tụng từng lĩnh vực) thì VKS
mới tham gia theo thẩm quyền.
Những quan điểm nêu trên về quyền công tố, mỗi quan điểm trong số đó đều
có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là coi
quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của
quyền công tố như là hoạt động độc lập của VKSND; hoặc là đánh đồng quyền
công tố với các chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, dẫn đến mở
rộng quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự như dân sự, hành
chính, kinh tế, lao động; hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công

tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện việc buộc tội tại
phiên toà hình sự sơ thẩm.

9


Như vậy, có thể hiểu:
Quyền công tố: là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố được thực hiện bởi một cơ
quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập
đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó
quyết định việc truy tố bị can ra trước Toà án bằng bản Cáo trạng và bảo vệ sự buộc
tội tại phiên toà. Vì vậy, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự, với đối
tượng là tội phạm và người phạm tội [12, tr. 40].
Quan điểm này đã thể hiện bản chất của quyền công tố, thứ nhất nó phù hợp
với truyền thống nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật về quyền công tố.
“Quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Quan điểm này cũng phù hợp với quy
định của pháp luật Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau về quyền công tố như:
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta đều khẳng định VKSND thực hành quyền
công tố…”.
Như vậy, từ những nội dung trình bày trên, tác giả đi đến kết luận: Quyền
công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện các quyền năng
theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, trên cơ sở bảo đảm việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và
người phạm tội.
Với nhận thức quyền công tố như đã nêu trên, theo tôi đối tượng của quyền
công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Bởi vì, trong bất kỳ xã hội nào cũng vậy,
tội phạm luôn là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm
đến lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước, đến an ninh chung của

xã hội. Khi có tội phạm xảy ra, Nhà nước (thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng
gánh những hậu quả bất lợi do các chế tài luật hình sự đặt ra. Đây là những chế tài
nghiêm khắc nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ và những người khác ý
thức tuân thủ pháp luật.
Đối với nội dung quyền công tố, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng: nội
dung của quyền công tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm.

10


Phạm vi quyền công tố bắt đầu khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi
bản án có hiệu lực pháp luật.
b. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra:
THQCT ở giai đoạn điều tra là một bộ phận cấu thành hoạt động THQCT
của VKSND. Bởi vậy, trước tiên chúng ta làm rõ khái niệm THQCT nói chung.
Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu TNHS
đối với người có hành vi phạm tội, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình
sự, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, tiếp diễn từ khởi tố,
điều tra, truy tố bị can ra Toà, tranh tụng tại phiên toà và kết thúc bằng một bản án
có hiệu lực pháp luật (hoặc khi có một căn cứ làm triệt tiêu quyền công tố theo quy
định của pháp luật). Để thực hiện được quyền công tố đó, Nhà nước ban hành pháp
luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Cơ quan nào
được Nhà nước giao thực hiện các quyền năng pháp lý này để phát hiện tội phạm và
truy cứu TNHS đối với người phạm tội được gọi là cơ quan có trách nhiệm
THQCT. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực
tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho duy nhất là hệ thống cơ quan
VKS. Vậy chủ thể THQCT ở nước ta là VKSND.
Từ những nhận thức nêu trên, tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: “Thực
hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [46, tr.27].
Phạm vi thực hành quyền công tố:
Để xác định được chính xác phạm vi THQCT, cần xem xét đến phạm vi của
quyền công tố, bởi vì quyền công tố là cơ sở, là nền tảng để THQCT. Ở phần trên
đã làm rõ, cứ có tội phạm xảy ra thì phát sinh quyền công tố. Vậy phạm vi thực
hành quyền công tố bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Việc xác
định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ như: Tin báo, tố giác của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức; Cơ quan có thẩm quyền tiến

11


hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu vết tội phạm; Người phạm tội tự thú. Phạm vi
thực hành quyền công tố kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp
vụ án đình chỉ). Tùy từng giai đoạn tố tụng hình sự mà VKS thực hiện chức năng
THQCT cho phù hợp với quy định của pháp luật như: THQCT trong việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự; THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Qua các nội dung đã phân tích ở trên có thể khái niệm: THQCT trong giai
đoạn điều tra là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, được thực
hiện ngay từ khi khởi tố và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa
án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
1.1.1.2. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
a) Hoạt động tư pháp.
Cơ quan tư pháp ở nước ta bao gồm: cơ quan điều tra, VKS, Tòa án và cơ
quan thi hành án. Vậy hoạt động tư pháp phải được tiến hành bởi các cơ quan tư
pháp. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là tất cả mọi hoạt động do cơ quan tư
pháp tiến hành đều là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt động tư pháp nếu hoạt động

đó gắn liền với việc giải quyết một vụ án, một tranh chấp cụ thể. Như vậy, hoạt
động tư pháp phải hội tụ đủ hai yếu tố: Hoạt động đó phải do các cơ quan tư pháp
thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, mục đích
của hoạt động là nhằm đảm bảo việc giải quyết một vụ án hình sự, vụ tranh chấp cụ
thể một cách có căn cứ, đúng pháp luật.
b) Kiểm sát hoạt động tư pháp.
Theo quy định của pháp luật, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các lĩnh vực khác nhau bao
gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và tố tụng tư
pháp khác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động. Gắn liền với TTHS là các khâu công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra- kiểm sát

12


điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án
và các quyết định của Tòa án nhân dân. Cả ba hợp thành kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự là hoạt động thực hiền quyền lực Nhà nước do Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện nhằm đảm bảo pháp chế trong tố tụng hình sự.
Đối tượng của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự
là hành vi xử sự trong hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành và tham gia tố
tụng hình sự.
Phạm vi của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự:
Như đã phân tích ở trên Quyền công tố được phát động thì mặc nhiên phát sinh hoạt
động của các chủ thể tiến hành tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ và áp
dụng pháp luật để bổ trợ cho hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Nói một cách khác hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng

hình sự bắt đầu khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và chấm dứt khi kết thúc các
hoạt động tố tụng và mục đích của tố tụng hình sự đã đạt được.
c) Kiểm sát điều tra
Như đã phân tích ở trên, kiểm sát điều tra là một bộ phận cấu thành của kiểm
sát hoạt động tư pháp. Phạm vi của kiểm sát điều tra chỉ ở giai đoạn điều tra, nó bắt
đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi VKS xử lý vụ án và bị can (Quyết định truy
tố hoặc đình chỉ điều tra vụ án, bị can).
Theo tôi có thể đưa ra khái niệm: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt
động của VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho
quá trình điều tra vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành thì VKSND có chức

13


năng THQCT và KSHĐTP. Những biện pháp mà VKS trực tiếp quyết định và chịu
trách nhiệm thì thuộc nội dung của THQCT, còn các biện pháp mà VKS không trực
tiếp quyết định mà chỉ thực hiện việc kiến nghị, kháng nghị và yêu cầu các cơ quan
tư pháp khác khắc phục các vi phạm trong hoạt động tư pháp thì được hiểu là nội
dung của hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp [40, tr.14]. Mặt khác, hai chức
năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau, chỉ có một số hoạt động mang tính độc
lập tương đối, còn lại phần nhiều chúng đan xen nhau và hỗ trợ qua lại với nhau.
Tùy từng giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố và các
giai đoạn tố tụng, các chức năng này thể hiện ở những mức độ và phạm vi khác
nhau với các nội dung khác nhau nhưng dù ở giai đoạn nào thì chúng cũng thể hiện
mối quan hệ gắn bó hữu cơ, đan xen nhau, tác động qua lại và bổ sung một cách
tích cực cho nhau.

Trong giai đoạn điều tra, mối quan hệ giữa THQCT và KSĐT bắt đầu từ thời
điểm vụ án hình sự được khởi tố, trong suốt quá trình điều tra cho đến khi cơ quan điều
tra bản án kết luận điều tra đề nghị truy tố (hoặc cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ
điều tra). Mục đích của THQCT trong giai đoạn điều tra là nhằm chứng minh tội phạm
và xác định người phạm tội, còn mục đích của KSĐT là nhằm đảm bảo cho các hoạt
động điều tra được đúng đắn, khách quan theo quy định của pháp luật. Hoạt động
THQCT trong giai đoạn điều tra tạo tiền đề cho KSĐT. Mặt khác, làm tốt hoạt động
KSĐT là bảo đảm để phát huy hiệu lực, hiệu quả chức năng THQCT.
1.1.2. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm
tình dục trong Bộ luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm về tình dục là những hành vi mang tính nguy hiểm rất cao,
người phạm tội bằng hành vi của mình xâm hại đến quyền tự do về tình dục và
quyền bất khả xâm phạm về tình dục đã được pháp luật bảo vệ hay chính là quyền
tự do về thân thể, danh dự nhân phẩm của một con người cụ thể. Người thực hiện
hành vi phạm tội đó là nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý của mình nhưng nhu cầu ấy
trái với ý muốn của người bị hại (người bị xâm hại). Vì thế, hành vi ấy đã vi phạm
đến các quyền cơ bản của con người và cách cư xử của một cá nhân trong một môi

14


trường xã hội văn minh không cho phép hành vi ấy xảy ra, bởi lẽ hành vi ấy chỉ có
trong cách cư xử của thú vật, của thời kỳ mông muội [2, tr.32].
Các tội phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
nhân phẩm, danh tự, tự do tình dục của người khác. Hành vi này phải là hành vi của
con người, do con người thực hiện phải thực sự gây thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp
gây thiệt hại cho nhân phẩm, danh dự, quyền tự do tình dục của người khác. Các tội
phạm tình dục được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp với mục đích giao cấu để thỏa
mãn về mặt tình dục. Dấu hiệu lỗi của người phạm các tội phạm về tình dục con
người nói lên thái độ tâm lý chủ quan của họ. Chỉ đối với những người có lỗi, việc

áp dụng hình phạt và các chế tài hình sự khác mới thực sự có ý nghĩa trừng trị, giáo
dục và cải tạo, làm cho họ có ý thức và trách nhiệm hơn đối với sức khỏe của người
khác trước khi thực hiện một xử sự cụ thể nào đấy. Mặt khác thì các loại tội phạm
tình dục này do những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện. Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam, năng lực trách
nhiệm hình sự được hiểu là khả năng của một người nhận thức cũng như điều khiển
được hành vi của mình khi tham gia các quan hệ xã hội. Còn độ tuổi do luật định
đối với người phạm các tội phạm tình dục được xác định tùy thuộc vào từng tội
phạm xâm phạm tình dục con người cụ thể. Có trường hợp từ 18 tuổi trở lên, có
trường hợp 16 tuổi trở lên, có trường hợp đủ 14 tuổi trở lên. Tùy theo dấu hiệu pháp
lý đặc trưng của các tội phạm tình dục cụ thể mà BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) quy định các tội phạm tình dục đó là:
- Tội hiếp dâm (Điều 111)
- Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)
- Tội cưỡng dâm (Điều 113)
- Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114)
- Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115)
- Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116)
- Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256)
Từ sự phân tích về các đặc điểm chủ yếu của nhóm tội phạm tình dục của

15


con người nêu trên, tham khảo quan điểm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã
công bố, có thể nêu khái niệm các tội phạm tình dục như sau:
Các tội phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định
trong BLHS, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện bằng lỗi
cố ý trực tiếp, xâm phạm quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh dự, tự do tình dục
của con người được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ.

Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm xâm phạm tình dục trong
BLHS Việt Nam
 Khách thể của tội phạm
Khách thể của nhóm tội phạm này được Luật hình sự bảo vệ đó chính là
quyền bất khả xâm phạm về tình dục và quyền tự do về tình dục của cá nhân và đây
chính là các quyền liên quan mật thiết đến cá nhân mà chỉ mỗi cá nhân mới có
quyền định đoạt nó. Những hành vi của người nào trực tiếp hay gián tiếp xâm phạm
đến đều bị pháp luật trừng trị. Quyền này phát sinh từ khi cá nhân sinh ra cho đến
khi các nhân chết đi, ở đây chính là sự thể hiện một cách cư xử chuẩn mực của xã
hội mà bất cứ một cá nhân nào sống trong xã hội phải tuân theo và có ý thức để tôn
trọng nó [26, tr.34].
Khách thể nữa mà pháp luật bảo vệ đối với các tội này là quyền được tôn
trọng về danh dự, nhân phẩm của con người. Đó là giá trị của mỗi cá nhân đã được
xã hội nhìn nhận và coi trọng, việc hành vi xâm phạm đến tình dục chính là hành vi
coi thường phẩm giá, danh dự của một con người. Hành vi ấy có thể gây ra một hậu
quả rất xấu đến danh dự, nhân phẩm của người bị hạn, có thể làm cho mọi người
xung quanh xa lánh, khinh rẻ, để lại những tin đồn xấu mà biết rằng người đó cũng
chỉ là người bị hại, có khi còn không nhận được sự cảm thông của gia đình, bạn bè,
chồng, con, những người mà coi là thân thiết với họ.Vì thế, đây được coi là khách
thể quan trọng nhất được Luật hình sự bảo vệ.
 Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi phạm tội khách quan nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm tình dục
đều thể hiện dưới dạng hành vi hành động. Người phạm tội đã trực tiếp bằng hành vi
của mình xâm hại đến người bị hại nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý của mình.

16


Có thể là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân trái ý

muốn của họ (đối với tội Hiếp dâm – Điều 111, tội Hiếp dâm trẻ em – Điều 112);
hành vi dùng mọi thủ đoạn người khác lệ thuộc vào mình hoặc người đang ở trong
tình trạng quẫn bách để họ phải miễn cưỡng giao cấu với mình (đối với tội Cưỡng
dâm – Điều 113, tội cưỡng dâm trẻ em - Điều 114); hành vi của người đã thành niên
giao cấu với trẻ em (từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi) có sự thuận tình của các em (đối với
tội Giao cấu với trẻ em - Điều 115); hành vi sờ, mó, hôn hít… bộ phận sinh dục trẻ
em và hành vi bắt trẻ em làm những việc đồi bại đối với mình (đối với tội Dâm ô
đối với trẻ em – Điều 116); hành vi mua dâm người chưa thành niên (đối với tội
Mua dâm người chưa thành niên - Điều 256) [40,tr.102-124].
Hậu quả của tội phạm: Các tội phạm tình dục là các tội có cấu thành hình thức,
tức là chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội (giao
cấu, dâm ô) là tội phạm được coi là hoàn thành, có nghĩa không cần người phạm tội
thỏa mãn về mặt sinh lý. Tuy nhiên trong thực tiễn hậu quả của các tội phạm này có thể
gây ra là nghiêm trọng như gây đau đớn về mặt thể xác, tinh thần, gây chết người, gây
thương tích, dẫn đến nạn nhân có thai, tự sát hoặc khủng hoảng về tinh thần hay bắt
gặp ở nạn nhân như sự sợ hãi, mặc cảm, xa lánh mọi người [1, tr.45]. Những hậu quả
đó tùy từng tội được coi là tình tiết tăng nặng định khung hoặc tình tiết tặng TNHS
quy định tại Khoản 1 Điều 48 BLHS.
 Mặt chủ quan của tội phạm
Các tội phạm tình dục đều được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp, người
phạm tội nhận thức được hành vi nguy hiểm do mình gây ra là xâm phạm đến
quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người khác, song vẫn cố ý thực hiện hành
vi phạm tội của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý của bản thân mà không cần
quan tâm đến thái độ của người bị hại.
Động cơ phạm tội của các tội này đều xuất phát từ động cơ cá nhân của bản
thân người phạm tội. Đó là sự ham muốn, sự mong muốn thỏa mãn nhu cầu sinh lý.
Động cơ này xuất phát từ trong bản chất con người của mỗi cá nhân và từ đó thúc
đẩy cá nhân đến hành vi phạm tội.

17



×