Về trang phục của nhân vật trong "Mây và Mặt trời" của Targore
Ths. Lê Thanh Huyền
Khoa Ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên
Nói đến văn học Ấn Độ hiện đại, người ta nhắc nhiều nhất đến Tagore. Được
giải Nobel văn học năm 1913 với tập Thơ dâng (Gitanjiali), tên tuổi của
Rabindranath Tagore đã vượt ra ngoài Ấn Độ và được thế giới biết đến như một
nghệ sỹ đa tài. Văn xuôi Tagore đang là mảnh đất giầu tiềm năng với các nhà nghiên
cứu. Trong số các tác phẩm văn xuôi của Tagore, Mây và mặt trời
(1)
là tập truyện
ngắn được giới thiệu sớm nhất ở nước ta. Đây là tác phẩm thể hiện khá tập trung bút
lực dồi dào mà tinh tế của Tagore. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật là một
trong những thành tựu nghệ thuật đặc sắc của tập truyện ngắn này. Khi miêu tả
ngoại hình nhân vật, ngoài các yếu tố về khuôn mặt, vóc dáng…, Tagore còn rất
dụng công trong cách miêu tả trang phục. Qua trang phục của nhân vật, chúng ta có
thể thấy được quan niệm nhân sinh, quan niệm nghệ thuật về con người, tình cảm
của Tagore với nhân dân, đất nước Ấn Độ cũng như tài năng nghệ thuật của ông ở
một lĩnh vực khác, ngoài thơ.
Thông thường trong một tác phẩm văn học, trang phục thường là phương tiện
để phản ánh địa vị, đẳng cấp, khẳng định tính cách chính diện hay phản diện của
nhân vật hoặc tôn vinh cho vẻ đẹp của họ. Truyện ngắn của Tagore cũng vậy. Tuy
nhiên cách miêu tả trang phục nhân vật của Tagore, còn cho ta thấy ông có dụng ý
riêng. Người đọc có thể cảm nhận được thái độ của ông với những giá trị truyền
thống của văn hoá Ấn Độ trong một thời kỳ mà nó chịu sự ảnh hưởng nhiều mặt,
theo nhiều chiều hướng khác nhau của nền văn minh kỹ trị phương Tây.
Tagore rất yêu thích hình ảnh người phụ nữ truyền thống vì thế trong tổng số 56
lần miêu tả trang phục của người phụ nữ thì có tới 53 lần người phụ nữ đều hiện lên
theo lối phục sức truyền thống. Xuất hiện nhiều nhất là hình ảnh những chiếc xari -
“y phục duyên dáng của phụ nữ Ấn Độ gồm một mảnh vải dài khoảng 5m, có thể
quấn quanh người theo nhiều kiểu. Màu sắc và cách vận thay đổi theo từng địa ph-
ương”. Những chiếc xari với nhiều màu sắc khác nhau đã giúp cho người phụ nữ trở
nên duyên dáng hơn trong con mắt nam giới: Giribala với chiếc “xari kẻ sọc”,
Arunlêkha “diện chiếc xari hồng và đeo nữ trang lấp lánh”, cô gái trong Bộ xương
lại mặc “xari màu hoàng yến”, Mahamaya với “tấm xari bằng lụa đỏ”, Xurêtơra thì
đặc biệt thích những chiếc “xari trắng viền đen”…
Người phụ nữ với vẻ đẹp tự nhiên mà tạo hoá ban tặng, khi biết tô điểm cho
mình bằng cách ăn mặc tinh tế thì họ sẽ càng đẹp hơn. Hơn thế nữa, sự chăm chút
trong cách ăn mặc cũng là cách họ dâng tặng tình yêu cho người bạn đời: “Xunêtơra
biết rằng một tấm xari trắng nhẹ gợi ra nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo từng lúc
và mặc nó, nàng sẽ gây một ấn tượng thay đổi mà vẫn không có vẻ ăn mặc cầu kỳ.
Nàng biết chân trời tiềm thức của tôi sẽ bừng sáng khi thấy nàng ăn mặc duyên dáng
như vậy...”.
Khuôn mặt người phụ nữ e lệ sau những vạt xari hay thấp thoáng sau tấm mạng
mỏng gợi nên một vẻ đẹp thật kín đáo, dịu dàng, đầy nữ tính. Trước khi trở thành cô
dâu, Mrinmayi tinh nghịch như con trai. Cô thường xuất hiện như một cơn lốc nhỏ,
đem bao rắc rối đến cho Apơcbô. Đến khi Apơcbô đi Cancơta, anh đòi cô th ưởng
công một nụ hôn. Tuy nụ hôn còn dang dở bởi Mrinmayi cứ “chìa mặt ra để hôn
nhưng rồi lại bật cười”, nhưng ngay sau đó hình ảnh cô gái “dấu mặt sau vạt xari”
đã báo hiệu “bản năng phụ nữ hiền dịu, sâu sắc, rộng lớn” đã bắt đầu thâm nhập vào
thể xác và tâm hồn cô. Trong Đá đói, “chiếc mạng mỏng tang từ rìa mũ rủ xuống
mặt” đã khiến hình ảnh cô gái Batư trở nên đẹp một cách huyền bí, kỳ ảo, gợi bao
khao khát.
Người phụ nữ thật đẹp khi dịu dàng e ấp nhưng khi họ quá nhút nhát, quá giấu
mình thì những chiếc xari hay mạng che mặt lại là thứ che khuất mất vẻ đẹp của họ,
khiến họ tự đánh mất bản thân. Vì vậy, Tagore không miêu tả những người phụ nữ
ăn vận quá kín đáo như vậy với giọng điệu ca ngợi. Có khi ông miêu tả họ với một
giọng điệu trung tính: “Thỉnh thoảng, những người Bengan khăn quàng quấn kín cả
mũi lẫn miệng, qua lại nhìn tôi với vẻ tò mò”. Có khi ông nói về họ với một vẻ đầy
xót thương:
“ Cô nhấc vạt xari lên che mặt, ngồi xuống bậc bến ngay chân khất sư và
khóc”.
“… nhưng cuộc sống của hai người không có một chút hạnh phúc nào. Tấm
khăn trùm ngăn cách người nọ với người kia có đáng gì đâu, thế nhưng tấm khăn đó
vĩnh viễn như cái chết và còn thảm khốc hơn chính cái chết. Nỗi tuyệt vọng dịu dần
với thời gian như nỗi đau của sự cách biệt âm dương, còn hy vọng sống động thì
hằng ngày, hằng giờ bị tiêu tan về sự cách biệt mà tấm khăn này đặt ra giữa hai
người"…
Tagore còn kín đáo phê phán cách ăn mặc ấy qua việc ông để nó đi liền với thái
độ vô duyên của người phụ nữ. Trong Những bậc bến tắm bên sông, tật xấu hay bàn
tán, đưa chuyện của đám đàn bà con gái đã được tác giả gắn với chiếc mạng che
mặt: “Một chị khác lấy hai ngón tay hơi tách chiếc mạng che mặt, hé ra một tí ở
giữa, kêu lên... Người thứ ba, chẳng kể gì đến cái mạng che mặt của mình nữa,
bôbô…”. Trong Cô dâu bé nhỏ, Tagore đã dùng hình ảnh "các bà phụ nữ lấy xari
trùm kín lên đầu, che mặt đến tận chỏm mũi” để làm nền tương phản với hình ảnh
Mrinmayi không che mặt, tay bế một đứa bé trần truồng ra đón vị lãnh chúa làng,
nhằm nhấn mạnh tính cách hồn nhiên, bạo dạn của Mrinmayi. Như vậy, cách ăn vận
"kín mít" còn gắn liền với sự sợ sệt quá mức của những con người đã bao đời chịu
nhiều sự đè nén, bất công.
Những chiếc mạng che mặt, khăn trùm đầu còn được sử dụng như một biểu
tượng của sự chia cắt, xa cách giữa người với người. Có khi Tagore gắn chúng với
thói ganh ghét của người phụ nữ: "Bà cho đấy là một âm mưu thâm hiểm của
Haralan nhằm quyến rũ con trai bà để anh được mãi mãi giữ cái chân gia sư. Một
hôm, bà nói với Haralan qua tấm mạng che mặt...”. Có khi chúng còn đáng sợ hơn
cái chết bởi nó gây ra sự chia cắt tuyệt đối, vĩnh viễn của lứa đôi ngay khi tim họ
vẫn đang rộn ràng những nhịp đập thanh xuân: “Anh đã mất đi rồi cô gái Mahamaya
quen thuộc và trong khi ấy, người đàn bà trùm khăn kín mít, lúc nào cũng ngồi lặng
lẽ bên cạnh, không để cho anh đưa vào cuộc sống của mình những kỷ niệm êm đềm
anh còn giữ được về nàng hồi nhỏ”.
Trang sức của người phụ nữ cũng là thứ để tôn vinh vẻ đẹp của họ. Tagore đặc
biệt chú ý tới những chiếc vòng chân, vòng tay của người phụ nữ. Âm thanh mà ông
sử dụng nhiều nhất (13 lần) khi nhắc tới nhân vật nữ là tiếng vòng tay, vòng chân
của các cô gái. Những chiếc vòng tay, vòng chân cùng âm thanh của nó đã gieo chất
thơ quanh vẻ đẹp của họ: “Thốt nhiên hai cánh tay êm ái với tiếng vòng xuyến lanh
tanh ôm quàng lấy cổ anh”; “Tiếng xủng xoẻng của các đồ trang sức, tiếng lanh tanh
của các vòng chân… tạo nên quanh tôi một thứ nhạc kỳ dị huyền ảo”… Có lúc nó
lại gợi nên cảm giác của một sự chăm sóc ân cần: “Trong cảnh sống một mình ở nơi
xa nhà, lại vào lúc mưa ảm đạm, thầy cần chút chăm sóc dịu dàng. Thầy tha thiết
muốn nhớ lại đôi bàn tay dịu dàng, đeo vòng xúng xính sờ lên trán thầy để hình
dung sự có mặt của những người đàn bà thân thương”.
Sự trang điểm quá cầu kỳ bằng nhiều đồ trang sức, kể cả khi nó thuộc về cách
phục sức truyền thống thì vẫn gây phản cảm. Đây là quan niệm rất riêng của Tagore.
Nó là biểu hiện cụ thể cho sự coi trọng vẻ đẹp tự nhiên trong quan niệm nghệ thuật
về con người của Tagore. Ông rất coi trọng những nét cổ truyền của văn hoá Ấn Độ
nhưng ông cũng không mù quáng ca ngợi tất cả những gì thuộc về nó. Ông biết gạn
đục khơi trong để tìm ra những tinh hoa thật sự cần được giữ gìn. Khi đeo quá nhiều
đồ trang sức, người phụ nữ sẽ đánh mất vẻ đẹp tự nhiên của mình. Tagore kín đáo
phê phán kiểu trưng diện này khi biến nó thành chi tiết dự báo tai hoạ. Haralan trước
khi bị Vênu lấy mất tiền, chàng đã mơ thấy mẹ Vênu: “Lời bà nói nghe không rõ
nhưng từ những đồ trang sức bà đeo, những tia sáng đủ màu sắc cứ xuyên qua rèm
cửa như những chiếc kim rung thật mạnh mẽ”.
Tagore rất coi trọng vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ. Vì thế, nếu một người
phụ nữ hội tụ ba yếu tố mà Tagore kiêng kị: một khuôn mặt đầy son phấn, cách ăn
vận “kín mít” và đeo quá nhiều đồ trang sức thì không còn phương thuốc nào có thể
cứu chữa cho vẻ đẹp của họ. Họ lúc này đã trở thành một thứ “manơcanh” vô hồn.
Trong toàn tập truyện, chỉ duy nhất có một lần ta bắt gặp vẻ vô hồn ấy ở “cô dâu
hụt” của Apơcbô trong Cô Dâu bé nhỏ: “Cô dâu sắp cưới tắm rửa sạch sẽ, tô son
điểm phấn, quấn một chiếc xari mầu được dẫn ra, run bần bật trước Apơcbô. Cô
lặng lẽ ngồi vào xó nhà, vạt xari choàng lên đầu rủ xuống tận cằm, cúi khom người
đến mức đầu gần chạm đến gối... Cái khối hình e lệ mặc quần áo, đeo đồ nữ trang ấy
không thốt ra một câu trả lời nào”.
Trong Mây và mặt trời, Tagore còn miêu tả trang phục của người phụ nữ với
một số dụng ý khác. Có thể là dụng ý xác nhận hoàn cảnh, hoặc khẳng định một vị
thế khác xưa của họ. Đó là trường hợp cô gái Ba Tư trong Đá đói: “mặc chiếc quần
trùng pijama vàng sẫm, đôi chân nõn nà và trắng hồng đi đôi hài mũi cong đi kim
tuyến, chiếc áo lót dát vàng bó sát lấy thân, đầu đội chiếc mũ đỏ có hàng diềm vàng
rủ xuống vầng trán và đôi má trắng muốt như tuyết”. Cô là nạn nhân đau thương của
lịch sử, vượt qua thời gian hai trăm năm mươi năm và sự chôn vùi của những nấm
mồ tối đen ẩm ướt để đi tìm một trái tim đồng cảm nơi dương thế. Hay như Giribala,
lúc gặp lại Xasibuxan, khi anh ra tù thì cô đã là một goá phụ “mặc áo trắng”, “không
một thứ trang sức”. Hoặc như Kuxum trong Những bậc bến tắm bên sông, khi trở về
ngôi nhà cũ trong vai trò một goá phụ thì “đôi chân ấy giờ đây không còn đeo vòng
nữa” và “chiếc áo xám xịt… lặng lẽ phủ một tấm màn lên tuổi xuân của cô và giấu
nó khỏi con mắt đàn ông”.
Cũng có khi Tagore muốn dùng yếu tố trang phục để biến họ thành một nỗi ám
ảnh trong lòng các nhân vật nam. Chiếc “áo vàng nhà tu khổ hạnh” khiến người phụ
nữ ngồi khóc bên vệ đường Đajilinh trở thành một hiện tượng lạ, buộc “tôi” phải lên
tiếng. Cô gái với “Bộ ngực trần” là một hình ảnh táo bạo. Nền văn hoá Ấn Độ cũng
như nhiều nước chịu ảnh hưởng của loại hình văn hoá nông nghiệp rất đề cao vấn đề
nhục cảm. Từ xa xưa, vẻ đẹp không che đậy của cơ thể người phụ nữ đã được ca
ngợi và tái hiện qua những bức phù điêu về hình ảnh các tiên nữ Atsara, ở những
kiệt tác về điêu khắc và kiến trúc như Khajuraho. Tuy nhiên, hình ảnh người phụ nữ
“xé nát chiếc áo lót, đấm tay vào bộ ngực trần của mình trong lúc gió rít lùa qua
khung cửa sổ nhỏ và mưa ào ào như thác đổ làm ướt sũng người nàng”, thể hiện sự
giằng xé, niềm khát khao mãnh liệt như vậy thì lần đầu tiên trong văn học Ấn Độ ta
bắt gặp ở Tagore. Nó đã biến người phụ nữ thành nỗi ám ảnh với mức độ cao nhất
khiến chàng trai được chứng kiến phải bỏ chạy dưới trời mưa như một người hoá
điên.
Cũng có khi tác giả sử dụng thủ pháp tương phản khi miêu tả trang phục của
các nhân vật để nói lên sự thay đổi số phận của nhân vật ấy. Cô bé Giribala xuất
hiện ở đầu câu chuyện với chiếc xari kẻ sọc. Đến cuối câu chuyện cô lại xuất hiện
với bộ đồ trắng của một goá phụ. Cô gái trong Bộ xương lúc đang yêu và được yêu
thường mặc chiếc xari màu hoàng yến. Đến khi thất tình, cô lại chọn cho mình cái
chết trên chiếc giường cưới, trong bộ đồ cô dâu. Cô bé Mini mới ngày nào còn mặc
chiếc xari mà chiếc vạt của nó còn chứa đầy hạnh nhân, nho khô - những món quà
của bác Ramun. Vậy mà mấy năm sau khi bác ra tù, đứng trước mặt bác đã là cô gái
Mini bẽn lẽn trong bộ đồ cưới... Số phận của người phụ nữ dù đổi thay theo chiều
hướng nào thì cách nắm bắt của Tagore cũng nhanh nhạy và thật tinh tế.
Đối với phái đẹp, trang phục là thứ vô cùng quan trọng. Nó có thể làm cho họ
trở nên đẹp hơn, đáng yêu hơn nhưng nếu quá lạm dụng hay ăn vận theo truyền
thống một cách cực đoan thì sẽ dẫn đến sự tổn hại cho vẻ đẹp của chính họ. Sự miêu
tả trang phục các nhân vật nữ đã góp phần tạo nên quan niệm nghệ thuật về con
người đầy tính nhân bản của Tagore.
Tình cảm của Tagore với những nét đẹp cổ truyền của văn hoá Ấn Độ còn thể
hiện qua cách ông miêu tả trang phục của các nhân vật nam. Chúng tôi thống kê
được 16 lần Tagore miêu tả trang phục của các nhân vật nam. Trong đó, tác giả tỏ ra
không có cảm tình với kiểu ăn mặc theo lối phương Tây hoặc có sự pha trộn lố lăng
giữa hai lối ăn mặc phương Tây và lối ăn mặc truyền thống. Cách ăn mặc này
thường xuất hiện ở những tên tay sai xu nịnh, bợ đỡ bọn người Anh có chức quyền
như Harakuma trong Mây và mặt trời: “Harakuma được cử làm uỷ viên danh dự hội
đồng huyện. Ông thường mặc chiếc áo đuôi tôm nhàu bẩn, đội một cái khăn nhem
nhuốc, ra thành phố hầu các quan người Anh”. Hay như Nabenđu Xêkha trong
Chúng tôi xin tôn anh lên làm vua: “Nabendu đóng bộ quần áo bảnh nhất, đeo đồng
hồ có dây chuyền và quấn một cái khăn xếp to tướng lên đầu”. Cũng trong câu
chuyện trên, trang phục của nhân vật Pramathanat được miêu tả qua hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất, khi đi du học ở Anh về: “Trong thời gian ở đó, anh được đối đãi
tử tế đến nỗi anh mê mẩn quên cả nỗi đau buồn tủi nhục của đất nước, và đã trở về
trong bộ âu phục. Điều đó thoạt đầu có phần làm cho các em trai, em gái của anh hơi
buồn, song vài tuần sau, họ nghĩ âu phục hợp với anh hơn cả và dần dần họ cũng
chia sẻ niềm tự hào, thái độ đường hoàng của anh”. Khi đã nhận ra đất nước đang
trong vòng nô lệ và tủi nhục, anh như người chợt tỉnh cơn mê. Về đến nhà, “anh
nhóm một đóm lửa lên rồi lần lượt ném tất cả những âu phục của mình vào”.
Cách ăn mặc theo lối truyền thống ở nam giới thường là biểu hiện của một tâm
hồn trong sáng, giản dị, một nhân cách cao thượng. Tara - chú bé Bàlamôn thuần
khiết kể cả khi “chỉ mặc độc một chiếc đhoti (tấm vải dài khoảng 4 mét người đàn
ông Bengan dùng để quấn vào người thay cho quần) đã sờn lắm, mình để trần” thì
chú vẫn nổi bật lên với dáng vóc “cân xứng như một kiệt tác điêu khắc”. Cách ăn
mặc gọn gàng sạch sẽ nhưng lịch sự và sáng sủa càng làm tôn thêm vẻ đẹp của cậu
bé: “Làm xong, Tara nhẩy ùm xuống sông tắm rồi rút trong tay nải ra một tấm đhoti