Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ tại ngân hàng thương mại ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.45 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HỒNG
PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


PHẠM THỊ HỒNG
Chuyên ngành: Luật Kinh tê
Mã số: 60 38 01 07

PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hồng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...........................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..............................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................2
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài..............................................2
5. Kết cấu của luận văn.........................................................................................3
CHƯƠNG 1:............................................................................................................4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ....... THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI...........................................................................................4
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại.......................4
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.............................................................4

1.1.2 Hoạt động của Ngân hàng thương mại......................................................5
1.2 Khái quát về quyền đòi nợ và pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ tại Ngân hàng
thương mại............................................................................................................ 12
1.2.1 Khái quát về quyền đòi nợ......................................................................12
1.2.2 Khái quát pháp luật thế chấp quyền đòi nợ.............................................28
1.2.3. Khái quát chung về hoạt động thế chấp quyền đòi nợ tại Ngân hàng
thương mại…………………………………………………………………………………..28

CHƯƠNG 2............................................................................................................ 31
PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ VÀ THỰC TIỄN THẾ CHẤP
QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.............31
2.1. Quy định của pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ......................31
2.1.1. Quy định chung vể thế chấp quyền đòi nợ.............................................31
2.1.2 Quy định của pháp luật về Hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ.................37


2.1.3 Quy định của pháp luật về việc xử lý quyền đòi nợ khi bên vay vi phạm
nghĩa vụ thanh toán..........................................................................................44
2.2 Thực tiễn về thế chấp quyền đòi nợ để đảm bảo tiền vay tại các Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam hiện nay...........................................................................52
2.2.1. Quy định về thế chấp quyền đòi nợ để bảo đảm tiền vay của một số Ngân
hàng thương mại tại Việt Nam..........................................................................52
2.2.2 Thực tiễn về thế chấp quyền đòi nợ tại các Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam hiện nay....................................................................................................57
CHƯƠNG 3............................................................................................................ 70
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM................................................................................................70
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thê chấp quyền đòi nợ.............................70
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ để khắc phục hạn chế,

vướng mắc của pháp luật hiện hành.................................................................70
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ để đáp ứng yêu cầu từ
thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng thương mại........................................71
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ để đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế.....................................................................................................72
3.2. Giải pháp, kiên nghị về hoàn thiện pháp luật..............................................73
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành.........................73
3.2.2. Tăng cường năng lực của tổ chức tín dụng và nâng cao nhận thức của
khách hàng.......................................................................................................81
3.2.3. Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng nói chung và
hoạt động nhận thế chấp quyền đòi nợ nói riêng..............................................82
KẾT LUẬN.............................................................................................................84


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời gian gần đây, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói
riêng gặp rất nhiều khó khăn, khủng hoảng, một trong những lĩnh vực chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế là lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Bằng chứng là hoạt động sáp nhập và tái cấu trúc các ngân hàng thương mại diễn ra
khá mạnh mẽ trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, có thể kể đến một vài
điển hình như thương vụ hợp nhất giữa Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí
Việt Nam (PVFC) và Ngân hàng TMCP Phương Tây (Western bank) thành Ngân
hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcombank), thương vụ sáp nhập Ngân hàng cổ
phần Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB).
Trước tình hình kinh tế khó khăn, để duy trì hoạt động và phát triển, các tổ chức tín
dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng đang nỗ lực đưa ra thị
trường các sản phẩm, dịch vụ mới nhằm thu hút khách hàng và nâng cao doanh số.
Một trong những phương án được các ngân hàng lựa chọn đó là đa dạng hóa sản
phẩm tín dụng, mở rộng đối tượng tài sản có thể nhận làm tài sản bảo đảm. Nếu như

trước đây đối tượng tài sản được các ngân hàng ưa chuộng và hướng tới là các bất
động sản thì những năm gần đây tài sản bảo đảm lại đa đạng, phong phú hơn rất
nhiều, nó không chỉ bao gồm tài sản hiện hữu mà còn bao gồm cả tài sản hình thành
trong tương lai; không chỉ bao gồm tài sản hữu hình mà còn bao gồm cả tài sản vô
hình; không chỉ bao gồm vật mà còn bao gồm cả quyền tài sản. Một trong những
quyền tài sản đang được khá nhiều các ngân hàng thương mại quan tâm và nhận
làm tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ đặc biệt là biện pháp thế chấp quyền đòi nợ để
bảo đảm tiền vay của khách hàng.
Mặc dù quyền đòi nợ đã và đang trở thành một loại tài sản bảo đảm được các
ngân hàng thương mại ưa chuộng nhưng các quy định của pháp luật về loại tài sản
còn đang khá hạn chế và nhiều vướng mắc. Xuất phát từ lý do nêu trên, việc nghiên
cứu đề tài “Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ tại các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam hiện nay” nhằm chỉ ra các vướng mắc mà các ngân hàng thương mại gặp

1


phải khi nhận bảo đảm bằng quyền đòi nợ, đồng thời đưa ra các biện pháp, phương
án khắc phục các bất cập của quy định pháp luật liên quan đến việc nhận bảo đảm
loại tài sản này là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Quyền đòi nợ
được dùng để thế chấp đảm bảo rất nhiều nghĩa vụ của khách hàng với Ngân hàng
thương mại như: cho vay, L/C tài trợ bên bán/ bên nhập khẩu hoặc L/C giáp lưng…
Trong phạm vi luận văn này, tác giả luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu vấn đề thế chấp
quyền đòi nợ để đảm bảo nghĩa vụ vay vốn của khách hàng tại Ngân hàng thương
mại vì đây đây là hình thức cấp tín dụng cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn tại các Ngân
hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như đã nêu ở trên, việc nhận bảo đảm bằng quyền đòi nợ mới diễn ra phổ biến
trong một vài năm trở lại đây, do đó, đây vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ và
phức tạp. Bởi vậy, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này còn

khá hạn chế. Các nội dung được tác giả đề cập đến trong luận văn này chủ yếu được
xây dựng trên cơ sở đúc rút từ kinh nghiệm làm việc thực tế và tham khảo thực tế
hoạt động của các ngân hàng thương mại.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải …
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
4.1.

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền đòi nợ, nội
dung các quy định của pháp luật hiện hành về quyền đòi nợ và nhận thế chấp quyền
đòi nợ. Trên cơ sở đó thấy được các vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành và
đề xuất một số giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ tối đa quyền lợi của
các chủ thể tham gia vào giao dịch thế chấp quyền đòi nợ.
4.2.

Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Với mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra như sau:

2


-

Làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền đòi nợ, thế chấp quyền đòi nợ như:
khái niệm, đặc điểm của quyền đòi nợ, thế chấp quyền đòi nợ; sự phát triển

của các quy định pháp luật về quyền đòi nợ, thế chấp quyền đòi nợ; phân
tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về quyền đòi nợ, thế

-

chấp quyền đòi nợ;
Nêu lên thực trạng của hoạt động nhận thế chấp quyền đòi nợ tại các ngân
hàng thương mại, trên cơ sở đó chỉ ra các bất cập của pháp luật hiện hành về

-

quyền đòi nợ, thế chấp quyền đòi nợ;
Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về quyền đòi nợ, thế chấp quyền đòi nợ và đảm bảo tối đa quyền lợi của
các chủ thể tham gia giao dịch thế chấp quyền đòi nợ.

5. Kêt cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 phần: Lời mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm: 03 Chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về thế chấp quyền đòi nợ tại Ngân hàng
thương mại.
- Chương II: Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ và thực tiễn thế chấp quyền
đòi nợ tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
- Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về
thế chấp quyền đòi nợ tại các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.

3



CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền
kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn nền
kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những
định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng
thương mại đã tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng
thông qua chênh lệch lãi suất.
Tại các nước khác nhau trên thế giới, cách hiểu thuật ngữ ngân hàng thương mại
cũng có sự khác biệt, ví dụ:
Tại Mỹ, Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng
tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính".
Tại Việt Nam, trước khi Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 (Sau đây
viết tắt là “Luật các TCTD năm 2010”) ra đời cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về
thuật ngữ ngân hàng thương mại. Trong đó, đa số các chuyên gia kinh tế, các nhà
đầu tư cho rằng “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”.


4


Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 thì: “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận”.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 thì: “Ngân hàng
là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình
ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác xã”.
Như vậy, căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, thì Ngân hàng thương mại là
một loại hình tổ chức tín dụng và là loại hình ngân hàng có phạm vi hoạt động rộng
nhất trong số các loại hình ngân hàng, vì nó không chỉ được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng mà còn được thực hiện “các hoạt động kinh doanh khác” theo
quy định của Luật các TCTD năm 2010.
1.1.2 Hoạt động của Ngân hàng thương mại
Như đã nêu tại mục 1.1, Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng có phạm
vi hoạt động rộng nhất, theo đó, hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác được phép theo quy định của
Luật các TCTD năm 2010.
1.1.2.1 Hoạt động ngân hàng của Ngân hàng thương mại
Khoản 7 Điều 20 Luật các TCTD năm 1997 được sửa đổi bổ sung theo Luật số
20/2004/QH11 quy định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này
để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Theo quy định tại Khoản 12 Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 thì: “Hoạt động
ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp

vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;

5


c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
Như vậy, so với Luật các TCTD cũ, khái niệm hoạt động ngân hàng trong Luật
các TCTD năm 2010 đã có sự thay đổi lớn về mặt nội hàm, cụ thể: hoạt động ngân
hàng bao gồm một trong ba hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản thay vì phải thực hiện đồng thời cả ba hoạt động trên. Sự
thay đổi này là phù hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam và phù hợp với quy định
của các nước trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và thể hiện sự
hội nhập của pháp luật Việt Nam với pháp luật thế giới.
a) Hoạt động nhận tiền gửi
Khoản 13 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Nhận tiền gửi là
hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu
và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc,
lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”.
Hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động đặc thù của loại hình tổ chức tín dụng là
ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có thể nhận tiền gửi của cả tổ chức và cá nhân, nhận
tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn hoặc không kỳ hạn tùy thuộc vào thỏa
thuận giữa ngân hàng và người gửi tiền. Để kiểm soát hoạt động nhận tiền gửi của
các ngân hàng, đảm bảo sự phát triển an toàn của hoạt động ngân hàng, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam với vai trò là Ngân hàng Trung ương đã có những biện pháp
nhất định và một trong các biện pháp hữu hiệu đó là quy định trần lãi suất gửi tiền.
Biện pháp này của Ngân hàng Nhà nước khi mới đưa vào áp dụng đã gây ra không
ít khó khăn cho các Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện,

rõ ràng biện pháp này đã có những tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng nói
riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung, bằng chứng là hoạt động ngân hàng diễn
ra một cách minh bạch hơn, lãi suất cho vay giảm mạnh tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư.
b) Hoạt động cấp tín dụng

6


Khoản 14 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Cấp tín dụng là
việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp
tín dụng khác”.
So với quy định tại Luật các TCTD năm 1997 (được sửa đổi bổ sung theo Luật
số 20/2004/QH11), khái niệm cấp tín dụng được mở rộng hơn, theo đó bao gồm cả
nghiệp vụ bao thanh toán. Tuy vậy, đến Luật các TCTD năm 2010, hoạt động bao
thanh toán vẫn còn là một nghiệp vụ khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại.
Trong số các nghiệp vụ cấp tín dụng, cho vay là nghiệp vụ cấp tín dụng cơ bản,
phổ biến, có ý nghĩa sống còn đối với các Ngân hàng thương mại và được các Ngân
hàng thương mại chú trọng nhất. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI), trong năm 2014, tỷ lệ dư nợ cho vay chiếm tới 42,85% tỷ
lệ dư nợ cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Khoản 16 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Cho vay là hình
thức cấp tín dụng theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Cho vay bao gồm các hình
thức cho vay ngắn hạn (thời hạn cho vay đến 12 tháng), cho vay trung hạn (thời hạn
cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng), cho vay dài hạn (thời hạn cho vay trên 60
tháng). Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng được điều chỉnh bởi Quy chế cho

vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN. Quy chế này đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần bằng Quyết
định số 127/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN và đến nay
các văn bản này vẫn đang có hiệu lực thi hành. Sau một thời gian dài áp dụng, Quy
chế cho vay hiện hành đã bộc lộ những điểm bất cập và không còn phù hợp với tình
hình thực tế. Trong điều kiện hoạt động cấp tín dụng nói chung và cho vay nói riêng
có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, để đáp ứng tình hình thực tế, Ngân hàng

7


nhà nước đang dự thảo văn bản thay thế cho Quy chế cho vay hiện hành, nhằm góp
phần giải quyết được các vướng mắc mà hoạt động tín dụng hiện nay đang gặp phải.
Ngoài hình thức cho vay, bảo lãnh ngân hàng cũng là một trong các hình thức
cấp tín dụng truyền thống.
Khoản 18 Điều 4 Luật Các Tổ chức tín dụng 2010 quy định:
“Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam
kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng
theo thỏa thuận”.
Như vậy, nếu cho vay là nghiệp vụ mà ngân hàng gần như chắc chắn phải giao
cho khách hàng một khoản tiền thì bảo lãnh ngân hàng lại là nghiệp vụ phát sinh
nghĩa vụ trong tương lai của ngân hàng và có thể nghĩa vụ này (nghĩa vụ trả nợ
thay) sẽ không phát sinh (trong trường hợp bên được bảo lãnh không vi phạm nghĩa vụ).
Ngoài các hình thức cấp tín dụng phổ biến nêu trên, các hình thức cấp tín dụng
khác như chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán cũng đang được các Ngân
hàng thương mại ngày càng chú trọng nhằm đa dạng hóa sản phẩm tín dụng để có
thể đáp ứng mọi nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng.
c) Hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản

Khoản 15 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch
vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư
tín dụng và các dịch vụ thông qua tài thanh toán khác cho khách hàng khoản của
khách hàng”.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản có thể nói là hoạt động ngân hàng
đặc thù nhất, đây là hoạt động nghiệp vụ mà chỉ các ngân hàng mới được quyền
thực hiện, cung ứng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, dịch vụ thanh toán
qua tài khoản là dịch vụ thiết yếu, mang lại cơ hội đầu tư, kinh doanh cho cả người

8


sử dụng tài khoản (khách hàng) và các Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, sự phát
triển của hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản cũng đặt ra cho các
Ngân hàng thương mại không ít thách thức, đó là áp lực nâng cao chất lượng dịch
vụ để cạnh tranh với các đối tác, áp lực về vấn đề an ninh thông tin, bảo mật đặc
biệt là trong điều kiện tội phạm công nghệ cao đang gia tăng và diễn biến một cách
phức tạp như hiện nay. Ngoài ra, vấn đề phòng, chống rửa tiền cũng là một thách
thức rất lớn với các Ngân hàng thương mại, vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến
hoạt động, có nguy cơ gây thiệt hại về vật chất cho các Ngân hàng thương mại mà
còn là điều kiện để các Ngân hàng thương mại hội nhập kinh tế thế giới.
1.1.2.2. Các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng thương mại
a) Góp vốn, mua cổ phần
Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến các lĩnh
vực khác của nền kinh tế xã hội, vì vậy, sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước đối với
lĩnh vực này cũng chặt chẽ hơn so với các lĩnh vực khác. Nếu như ở các lĩnh vực,
ngành nghề kinh tế khác, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có thể thực hiện những
hoạt động mà pháp luật không cấm thì riêng đối với lĩnh vực ngân hàng các tổ chức,

cá nhân, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các hoạt động mà pháp luật cho phép.
Do đặc thù ngành nghề nên hoạt động góp vốn, mua cổ phần của Ngân hàng thương
mại cũng phải tuân thủ những điều kiện, quy định pháp luật nhất định, cụ thể là:
-

Ngân hàng thương mại chỉ được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp

hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại
hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung
gian thanh toán, thông tin tín dụng. Trường hợp muốn góp vốn, mua cổ phần của
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác ngoài các lĩnh vực nêu trên thì phải
được sự chấp thuận trước bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại
khoản 4 Điều 103 Luật các Tổ chức tín dụng 2010.
- Mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại và các công ty
con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại đó (trừ trường hợp công ty con,
công ty liên kết là công ty quản lý quỹ góp vốn, mua cổ phần từ nguồn vốn của các
quỹ do công ty quản lý) vào một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm,
9


chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ
tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng không
được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp theo quy định tại
khoản 1 Điều 18 Thông tư 36/2014/TT – NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn
trong hoạt động của Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại vào các
doanh nghiệp, bao gồm cả mức vốn cấp, vốn góp vào các công ty con, công ty liên
kết của ngân hàng thương mại đó không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự
trữ của ngân hàng thương mại theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Thông tư
36/2014/TT – NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân

hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài .
- Ngân hàng thương mại không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh
nghiệp, tổ chức tín dụng khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính ngân hàng
thương mại đó; không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức
tín dụng khác là người có liên quan của cổ đông lớn, của người quản lý của ngân
hàng thương mại đó theo quy định tại khoản 5 Điều 18 Thông tư 36/2014/TT –
NHNN quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng thương
mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Như vậy, mặc dù pháp luật cho phép Ngân hàng thương mại được thực hiện hoạt
động góp vốn, mua cổ phần, nhưng để có thể thực tế thực hiện được hoạt động này,
các Ngân hàng thương mại phải đáp ứng khá nhiều các điều kiện chặt chẽ và tuân
thủ nghiêm ngặt các giới hạn về tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp do Ngân hàng
nhà nước quy định.
b) Tham gia thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động của cung
và cầu nguồn vốn ngắn hạn. Hiện nay, thị trường tiền tệ được chia thành thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua,
bán lần đầu các loại giấy tờ có giá. Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các hoạt động
mua, bán từ lần thứ 2 trở đi các loại giấy tờ có giá, thị trường này còn được gọi là

10


thị trường liên ngân hàng vì chủ thể tham gia thị trường này chủ yếu là các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng.
Theo Điều 104 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thì việc tham gia thị trường tiền
tệ của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các hoạt động tham gia đấu thầu tín
phiếu Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá khác.
Giao dịch mua, bán giấy tờ có giá được chia thành hai loại là giao dịch mua bán

thông thường và giao dịch mua bán có kỳ hạn. Giao dịch mua bán thông thường là
giao dịch mua bán mà theo đó quyền sở hữu giấy tờ có giá được chuyển từ người
bán sang người mua và các bên không có thỏa thuận về việc bên bán sẽ mua lại giấy
tờ có giá. Giao dịch mua, bán có kỳ hạn là giao dịch mà một tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài mua và nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá chưa đến
hạn thanh toán (bên mua) từ một tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
khác (bên bán), đồng thời bên bán cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó sau một
khoảng thời gian nhất định.
c) Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 thì sau khi
được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, ngân hàng thương mại được
kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản
phẩm sau đây:
-

Ngoại hối;
Phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác.

Hoạt động ngoại hối của tổ chức tín dụng được phép là hoạt động kinh doanh
ngoại hối, cung ứng dịch vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng được phép với người cư
trú, người không cư trú trong giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch
khác liên quan đến ngoại hối trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
d) Nghiệp vụ ủy thác
Ủy thác là việc một bên (bên ủy thác) giao vốn bằng tiền cho một bên khác (bên
nhận ủy thác) để thực hiện một số hoạt động theo quy định của pháp luật đối với đối
tượng ủy thác, bên ủy thác chịu mọi rủi ro, bên nhận ủy thác được hưởng phí ủy
11


thác. Hiện nay, Thông tư số 30/2014/TT-NHNN quy định Ngân hàng thương mại

chỉ được thực hiện ủy thác, nhận ủy thác đối với các hoạt động cho vay; góp vốn,
mua cổ phần; mua trái phiếu doanh nghiệp và chỉ được triển khai thực hiện hoạt
động ủy thác, nhận ủy thác nếu các hoạt động này đã được ghi nhận trong Giấy
phép hoạt động của Ngân hàng thương mại.
e) Các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng thương mại
Ngoài các hoạt động kinh doanh nêu trên, Ngân hàng thương mại còn được phép
thực hiện các hoạt động kinh doanh khác như:
-

Dịch vụ quản lý tiền mặt, tư vấn ngân hàng, tài chính; các dịch vụ quản lý,

bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an toàn.
- Tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập doanh
nghiệp và tư vấn đầu tư.
- Mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
- Dịch vụ môi giới tiền tệ.
- Lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác
liên quan đến hoạt động ngân hàng sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận
bằng văn bản.
Tuy nhiên, các hoạt động kinh doanh nêu trên không phải là hoạt động kinh
doanh trọng yếu của các Ngân hàng thương mại.
1.2 Khái quát về quyền đòi nợ và pháp luật về thê chấp quyền đòi nợ tại
Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái quát về quyền đòi nợ
1.2.1.1Khái niệm quyền đòi nợ
Mặc dù quyền đòi nợ không phải phạm trù quá mới mẻ nhưng cho đến hiện nay,
pháp luật thực định chưa có văn bản nào ghi nhận chính thức về khái niệm này.
Quyền đòi nợ là quyền yêu cầu một chủ thể khác thanh toán một khoản tiền theo
hợp đồng/thỏa thuận đã được xác lập giữa các bên. Do đó, quyền đòi nợ được coi là
một loại thuộc quyền tài sản.

Quyền đòi nợ (debt claim, money claim, debt) có tính chất khá đặc biệt vì nó
phản ánh việc một nghĩa vụ vừa là một mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại
là một loại tài sản.
12


Dưới góc độ của pháp luật về nghĩa vụ dân sự, quyền đòi nợ (khoản nợ, quyền
yêu cầu thanh toán) là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc
quy định tại Ðiều 291 của Bộ luật dân sự năm 2005, cụ thể là phải thanh toán một
khoản tiền cho bên có quyền tại một thời điểm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Thời điểm thỏa thuận này có thể là một thời điểm nhất định trong tương lai, nhưng
quyền đòi nợ có thể được thanh toán khi bên có quyền yêu cầu hay khi phát sinh một
sự kiện tương lai nhất định mà các bên đã thỏa thuận. Bên có quyền chỉ có thể yêu
cầu việc thanh toán này từ phía bên có nghĩa vụ chứ không thể yêu cầu một bên thứ
ba làm việc này bởi quyền đòi nợ chỉ thiết lập các mối quan hệ giữa bên có quyền và
bên có nghĩa vụ mà thôi. Ðiều này minh họa cho tính chất tương đối của quyền đòi nợ.
Dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản
(Khoản 1 Ðiều 322, Bộ luật Dân sự năm 2005) và quyền tài sản lại là một trong bốn
loại tài sản theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Như vậy, có
thể hiểu rộng hơn quyền đòi nợ là một tài sản. Ðối tượng của quyền đòi nợ chính là
khoản tiền sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất định.
Trong khuôn khổ pháp luật giao dịch bảo đảm, Ðiều 322 của Bộ luật Dân sự
năm 2005 phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng (rights
under a contract) theo hướng đây là hai loại quyền tài sản độc lập với nhau. BLDS
công nhận một khái niệm pháp lý khác là quyền yêu cầu (các Ðiều từ 309 đến Ðiều
314). Khoản 4 và 5, Ðiều 22, Nghị định 163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã được bổ sung, sửa đổi theo Nghị định
11/2012/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 163/2006/NĐ-CP) coi quyền đòi nợ là một
loại quyền yêu cầu. Trước đây, khoản 1.1, điểm d, Thông tư số 04/2007/TT-BTP
ngày 17/5/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng

ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản,
hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ đã định nghĩa
quyền đòi nợ theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp
đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn
cứ hợp pháp khác. Song, quy định này đã được thay thế bởi Thông tư số

13


05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về
đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên
tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung
tâm Ðăng ký giao dịch, tài sản của Cục Ðăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc
Bộ Tư pháp. Thay vào đó, Ðiều 2, khoản 2, điểm 2.4 Thông tư 05/2011/TT-BTP
quy định: "Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ bao gồm quyền đòi nợ hiện có hoặc
quyền đòi nợ hình thành trong tương lai". Dường như các nhà làm luật muốn mở
rộng hơn căn cứ phát sinh quyền đòi nợ khi không giới hạn ở các hợp đồng nhất
định nữa. Tuy nhiên, không có quy định nào của BLDS giải thích nội hàm của các
quyền phát sinh từ hợp đồng. Có thể hiểu quyền đòi nợ là một quyền yêu cầu mang
tính chắc chắn có thể được thực thi trong khi quyền phát sinh từ hợp đồng là quyền
yêu cầu ít chắc chắn hơn, có tính chất ngẫu nhiên hơn, tức là phụ thuộc vào các tình
huống nhất định để chuyển một quyền tiềm năng thành một quyền có thể thực thi
được. Quyền phát sinh từ hợp đồng bao gồm rất nhiều loại quyền, chẳng hạn như
quyền chọn (options), quyền phát sinh từ một hợp đồng cho thuê tàu biển, quyền
phát sinh từ vận đơn, quyền phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền phát
sinh từ hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp hay quyền thuê phát sinh từ
hợp đồng thuê: Quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng là hai loại quyền yêu
cầu tiêu biểu.
Quyền đòi nợ có thể chia thành hai loại là quyền đòi nợ đã hình thành và quyền
đòi nợ hình thành trong tương lai. Cách phân loại này được đa số các nhà khoa học,

các tổ chức, cá nhân thừa nhận và đồng tình. Tuy nhiên, cách hiểu về “quyền đòi nợ
đã hình thành” và “quyền đòi nợ hình thành trong tương lai” lại là vấn đề gây khá
nhiều tranh cãi.
Theo tác giả ý kiến của tác giả Bùi Đức Giang đăng trên mục Kiến thức pháp
luật ngày 18/6/2013 thì quyền đòi nợ tương lai là quyền đòi nợ chưa trở thành tài
sản của bên thực hiện giao dịch. Nó có thể còn chưa phát sinh do giao dịch hay sự
kiện pháp lý có thể làm phát sinh quyền đòi nợ này còn chưa diễn ra [6]. Chẳng hạn
đối với một công ty hàng không, thu nhập từ việc bán các vé máy bay hiện còn chưa

14


được bán nhưng sắp được bán là các quyền đòi nợ hình thành trong tương lai vì
giao dịch bán chưa diễn ra. Các khoản phải thu tương lai (future account
receivables) là các khoản phải thu phát sinh từ các hợp đồng với khách hàng của
doanh nghiệp mà các hợp đồng này còn chưa được ký kết. Tiền phạt vi phạm hợp
đồng khi một cầu thủ vi phạm nghĩa vụ với một câu lạc bộ bóng đá cũng là một
quyền đòi nợ tương lai vì sự kiện pháp lý (việc cầu thủ vi phạm nghĩa vụ quy định
trong hợp đồng) chưa diễn ra. Cần lưu ý một khoản nợ sẽ được thanh toán trong
tương lai theo quy định tại một hợp đồng đã được ký kết là một quyền đòi nợ hiện
tại chứ không phải là một quyền đòi nợ tương lai. Tuy vậy, một quyền đòi nợ tương
lai có thể đã tồn tại nhưng chưa thuộc khối tài sản của bên thực hiện giao dịch.
Chẳng hạn, một hợp đồng mua bán tài sản đã được ký kết và việc thanh toán được
thực hiện theo nhiều đợt. Bên bán có quyền đòi nợ đối với bên mua và có thể
chuyển giao quyền đòi nợ này[6].
Trong khi đó, tác giả Trần Anh Tuấn đăng trong bài viết “Các chế định pháp luật
về quyền đòi nợ” trên Tạp chí Luật học số 323 lại cho rằng, quyền đòi nợ đã hình
thành là quyền đòi nợ phát sinh từ các hợp đồng đã được ký kết và bên có quyền đã
thực hiện tất cả các nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ (ví dụ nghĩa vụ giao hàng, nghĩa
vụ cung ứng dịch vụ …) hoặc bên có quyền đã hoàn thành một phần nghĩa vụ bàn

giao hàng hóa/cung cấp dịch vụ và bên có nghĩa vụ sẽ phải thực hiện thanh toán
theo tiến độ giao hàng/cung cấp dịch vụ. Quyền đòi nợ hình thành trong tương lai là
quyền đòi nợ phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa/cung cấp dịch vụ đã
được ký kết nhưng bên có quyền chưa hoàn thành nghĩa vụ bàn giao hàng hóa/cung
ứng dịch vụ theo hợp đồng mua bán hàng hóa/cung cấp dịch vụ hoặc chưa hoàn
thành nghĩa vụ khác và chưa được thanh toán [19].
Như vậy, nếu tác giả Bùi Đức Giang căn cứ vào việc Hợp đồng/giao dịch phát
sinh quyền đòi nợ đã được xác lập, giao kết hay chưa để xác định quyền đòi nợ đó
là hình thành trong tương lai hay đã hình thành thì tác giả Trần Anh Tuấn lại căn cứ
vào việc bên có quyền đã thực hiện các nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ thanh toán hay
chưa để xác định quyền đòi nợ đó là đã hình thành hay hình thành trong tương lai.

15


Về vấn đề này, tác giả Luận văn cho rằng quan điểm của tác giả Trần Anh Tuấn
là khá hợp lý và cũng đồng tình với quan điểm này. Thực tế tham khảo quy định về
nhận thế chấp quyền đòi nợ của các Ngân hàng thương mại như Ngân hàng TMCP
Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
(VPBank), Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)… cho thấy tất cả các Ngân
hàng thương mại này đều đồng tình với quan điểm của tác giả Trần Anh Tuấn.
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả, quyền đòi nợ là quyền tài sản của một bên
đối với bên có nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng được ký kết giữa các bên,
theo đó một bên có quyền yêu cầu bên còn lại thực hiện thanh toán khi đến hạn
thanh toán.
1.2.1.2 Đặc điểm của quyền đòi nợ
Như đã nêu ở trên, quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản, do đó, nó có đầy đủ
các đặc trưng, đặc điểm của một quyền tài sản đó là (i) trị giá được bằng tiền; và (ii)
có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác thông qua giao dịch dân sự.
Một trong những đặc điểm nổi bật của quyền đòi nợ nói riêng và quyền tài sản

nói chung đó là trị giá được bằng tiền, tức là phải tương đương với một lượng vật
chất nhất định. Quyền đòi nợ là quyền yêu cầu một chủ thể (một bên trong quan hệ
hợp đồng) thanh toán một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định và
khoản tiền đó đã được xác định rõ trong hợp đồng đã được ký kết giữa các bên. Đây
là yếu tố thể hiện rõ nét nhất đặc trưng “trị giá được bằng tiền” của quyền đòi nợ.
Điều 322 Bộ luật Dân sự 2005 quy định các quyền tài sản thuộc quyền sở hữu cảu
bên bảo đảm bao gồm: quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, quyền khai thác tài nguyên
thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác
giả, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong
doanh nghiệp. Tất cả các quyền tài sản nêu trên đều có thể được nhận làm tài sản
bảo đảm, khi đó, ngoài việc phải tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự, các
chủ thể tham gia giao dịch còn phải tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên
ngành như: Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Khoáng sản … Trường hợp được
nhận làm tài sản bảo đảm để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng cấp tín

16


dụng, đặc trưng “trị giá được bằng tiền” của quyền đòi nợ còn được thể hiện ở việc
bên nhận bảo đảm sẽ căn cứ vào giá trị của quyền đòi nợ được xác định theo hợp
đồng mà quyền đòi nợ đó phát sinh để xác định số tiền mà bên nhận bảo đảm sẽ cấp
tín dụng cho bên vay.
Đặc điểm thứ hai của quyền đòi nợ là có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ
thể khác thông qua giao dịch dân sự. Quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản, do đó,
nó cũng là tài sản và chủ sở hữu tài sản ấy sẽ có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt đối với tài sản ấy như một tài sản thông thường. Vì vậy, chủ sở hữu
tài sản hoàn toàn có quyền quyết định chuyển giao sở hữu quyền đòi nợ cho một
chủ thể khác thông qua giao dịch dân sự, dưới các hình thức như mua, bán, tặng cho

Như đã phân tích ở trên, bản chất của quyền đòi nợ chính là quyền yêu cầu chủ

thể khác thanh toán một khoản tiền nhất định, như vậy, quyền đòi nợ là một dạng
quyền yêu cầu. Do đó, các chế định pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu cũng
được áp dụng với chuyển giao quyền đòi nợ. Việc chuyển giao quyền yêu cầu được
quy định tại các Điều từ 309 đến 314 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó,
chuyển giao quyền yêu cầu là việc bên có quyền yêu cầu thực hiện chuyển giao
quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận. Khác với khi chuyển giao
nghĩa vụ, khi chuyển giao quyền yêu cầu, bên có quyền không cần sự đồng ý, chấp
thuận của bên có nghĩa vụ mà chỉ cần thông báo cho bên có nghĩa vụ về việc mình
đã chuyển giao quyền yêu cầu. Trên cơ sở thông báo của người có quyền, kể từ thời
điểm quyền yêu cầu được chuyển giao cho người thế quyền, bên có nghĩa vụ sẽ tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ dân sự với người thế quyền. Do quyền đòi nợ là tài sản khá
đặc thù – tài sản vô hình nên việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản này cũng có sự
khác biệt so với chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hữu hình. Nếu như đối với
các loại tài sản hữu hình khi chuyển giao quyền sở hữu bên chuyển giao sẽ phải bàn
giao tài sản hiện hữu cho bên nhận chuyển giao thì đối với tài sản là quyền đòi nợ,
bên chuyển giao chỉ có thể bàn giao cho bên nhận chuyển giao các giấy tờ, tài liệu
chứng minh quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ đó là các hợp đồng đã được ký kết,

17


các văn bản tài liệu chứng minh bên chuyển giao đã hoàn thành nghĩa vụ với bên có
nghĩa vụ (nếu có).
Tóm lại, mặc dù có các điểm khác biệt so với việc chuyển giao, chuyển nhượng
quyền sở hữu các loại tài sản hữu hình nhưng việc chuyển giao quyền sở hữu quyền
đòi nợ hoàn toàn có thể thực hiện được và đang ngày càng trở nên phổ biến trong
nền kinh tế hiện nay.
Ngoài 02 đặc điểm nêu trên, quyền đòi nợ còn một điểm đặc trưng khác đó là
tính chất hỗn hợp của nó. Quyền đòi nợ không chỉ là một tài sản mà nó còn phản
ánh, thể hiện một mối quan hệ trong giao dịch dân sự. Khi nói tới các tài sản thông

thường khác, người ta chỉ liên tưởng đến bản thân tài sản đó và chủ sở hữu tài sản,
không có sự xuất hiện của một chủ thể khác cho đến khi gắn tài sản đó với một giao
dịch cụ thể như cho thuê, cho mượn, tặng cho, chuyển nhượng; nhưng khi nhắc tới
quyền đòi nợ, chúng ta luôn liên tưởng đến sự tồn tại của 2 chủ thể là bên có quyền
yêu cầu và bên có nghĩa vụ thanh toán, trong đó bên có quyền là chủ sở hữu của tài
sản còn bên có nghĩa vụ thanh toán là yếu tố không thể thiếu để góp phần tạo nên
quyền đòi nợ.
1.2.1.3 Các giao dịch có đối tượng là quyền đòi nợ tại Ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày
càng khốc liệt, điều này khiến các Ngân hàng thương mại phải đẩy mạnh việc đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Đồng thời với việc đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ là sự đa dạng hóa các loại tài sản bảo đảm. Nếu như
trước đây các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng
chủ yếu nhận bảo đảm bằng các loại tài sản thông dụng như quyền sử dụng đất, nhà
ở, công trình xây dựng trên đất, ô tô, nhà xưởng thì đến nay các loại tài sản được
các ngân hàng thương mại chấp nhận nhận làm tài sản bảo đảm đã đa dạng hơn, bao
gồm cả các loại tài sản như cổ phần, phần vốn góp, các loại tài sản hình thành trong
tương lai và đặc biệt là cả các tài sản vô hình như quyền đòi nợ, quyền khai thác
khoáng sản và các loại quyền tài sản khác.

18


Để có thể phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng đồng thời bảo vệ tối đa quyền lợi của mình, đa số các Ngân hàng
thương mại đều xây dựng quy định riêng về việc nhận bảo đảm bằng quyền đòi nợ.
Theo đó, xác định cụ thể các loại quyền đòi nợ nhận bảo đảm, đối tượng khách
hàng, mục đích cấp tín dụng có thể được bảo đảm bằng quyền đòi nợ, điều kiện đối
với khách hàng vay vốn có bảo đảm bằng quyền đòi nợ, quy trình nhận bảo đảm
bằng quyền đòi nợ, cách thức định giá, thẩm quyền tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ,

tỷ lệ cho vay tối đa tính trên giá trị quyền đòi nợ … Sự ra đời của sản phẩm cho vay
thế chấp bằng quyền đòi nợ là hoàn toàn phù hợp với xu thế kinh tế hiện nay, đáp
ứng kịp thời nhu cầu vay vốn ngày càng tăng cao của các nhà đầu tư.
Đa số các Ngân hàng thương mại không hạn chế hình thức cấp tín dụng được
nhận bảo đảm bằng quyền đòi nợ, tức là khách hàng có thể sử dụng quyền đòi nợ
làm tài sản bảo đảm cho mọi loại nghĩa vụ tín dụng của mình, bao gồm nhưng
không giới hạn nghĩa vụ trả nợ phát sinh từ hợp đồng vay vốn, hợp đồng cấp bảo
lãnh, hợp đồng phát hành thư tín dụng.
Tại ngân hàng thương mại, các hoạt động có đối tượng là quyền đòi nợ không
chỉ bao gồm hoạt động bảo đảm tiền vay mà còn có các hoạt động khác như bao
thanh toán, chiếu khấu hối phiếu đòi nợ. Trong mỗi hoạt động nêu trên, vai trò, tính
chất của quyền đòi nợ có sự khác biệt nhất định.
a. Giao dịch bao thanh toán
Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Bao thanh toán là hình thức
cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo
lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc
mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ”.
Như đã nêu tại Mục 1 Chương 1 của Luận văn này, hoạt động ngân hàng là hoạt
động khá đặc thù, nhạy cảm. Do đó, quy định của pháp luật đối với lĩnh vực này
cũng khá chặt chẽ, các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói
riêng chỉ được thực hiện các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh

19


khác ghi trong Giấy phép được Ngân hàng nhà nước cấp. Vì vậy, hoạt động bao
thanh toán cũng không phải là một ngoại lệ, ngân hàng thương mại chỉ được thực
hiện hoạt động bao thanh toán sau khi hoạt động đó được ghi nhận trong Giấy phép
hoạt động của ngân hàng thương mại.

Tương tự các hình thức cấp tín dụng khác như cho vay, bảo lãnh, hoạt động bao
thanh toán cũng bao gồm ba phương thức là bao thanh toán từng lần, bao thanh toán
theo hạn mức và đồng bao thanh toán. Mỗi phương thức bao thanh toán nêu trên
đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, tùy thuộc vào tình hình kinh doanh và
nhu cầu về nguồn vốn mà khách hàng có thể thỏa thuận với Ngân hàng thương mại
để lựa chọn phương thức bao thanh toán phù hợp và có lợi nhất.
Từ các phân tích trên đây có thể thấy rằng, đối tượng của hoạt động bao thanh
toán chính là các khoản phải thu hoặc khoản phải trả và bản chất của hoạt động bao
thanh toán chính là việc mua lại quyền yêu cầu bên mua hàng/bên nhận cung ứng
dịch vụ thanh toán giá trị hàng hóa/dịch vụ được cung ứng khi các khoản thanh toán
này chưa đến hạn. Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế, sự hạn chế, eo hẹp về
nguồn vốn đòi hỏi các nhà đầu tư phải hết sức linh hoạt, việc quay vòng nguồn vốn
trở thành yếu tố sống còn đối với một doanh nghiệp. Giữa thực trạng ấy, bao thanh
toán trở thành một giải pháp, một lựa chọn tối ưu đối với các nhà đầu tư, hoạt động
này đã phần nào giải quyết được nhu cầu vốn của các nhà đầu tư. Thay vì phải chờ
đợi một khoảng thời gian nhất định (theo thỏa thuận tại hợp đồng mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ) để có thể nhận được tiền thanh toán của bên mua/bên sử
dụng dịch vụ, bên bán có thể bán lại quyền đòi nợ bên mua cho Ngân hàng thương
mại để thu hồi vốn và tái đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
b. Giao dịch chiết khấu hối phiếu đòi nợ
Khoản 19 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2014 quy định: “Chiết khấu là việc
mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng,
giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán”.
Khoản 2 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 quy định: “Hối phiếu
đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán

20



×