Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN VĂN THẠC SỸ - LIÊN KẾT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY DU LỊCH VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.27 KB, 106 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----***-----

PHAN THỊ THU

LIÊN KẾT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY
DU LỊCH VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH THƯƠNG MẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ

Người hướng dẫn khoa học:

TS. ĐINH LÊ HẢI HÀ


HÀ NỘI-2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật.
Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và
không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật
Tác giả

Phan Thị Thu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ, HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LIÊN KẾT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
CÔNG TY DU LỊCH.............................................................................................12
1.1 Cơ sở hình thành liên kết hoạt động của các công ty du lịch.......................12
1.2 Các hình thức liên kết hoạt động của các công ty du lịch.............................24
1.3 Du lịch trong cộng đồng kinh tế Asean..........................................................38
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG LIÊN KẾT HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC CÔNG TY DU LỊCH VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN (AEC)......................................................................................45
2.1 Tổng quan về hoạt động các công ty du lịch Việt Nam trong điều kiện cộng
đồng kinh tế ASEAN.............................................................................................45
2.1.1. Một số bài học kinh nghiệm về liên kết hoạt động của các doanh nghiệp du
lịch trong nước....................................................................................................47
2.2.2 Xu hướng liên kết hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam......63
2.3 Đánh giá thực trạng liên kết hoạt động giữa các công ty du lịch Việt Nam
trong điều kiện cộng đồng kinh tế ASEAN..........................................................65
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DU LỊCH
TRONG ĐIỀU KIỆN CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN.........................................70
3.1 Định hướng, dự báo sự phát triển của ngành du lịch trong điều kiện cộng
đồng kinh tế Asean (AEC).....................................................................................70
3.1.1 Định hướng phát triển du lịch trong cộng đồng kinh tế Asean ( AEC).....70
3.2 Các chính sánh định hướng phát triển của nhà nước...................................81
3.3 Một số khuyến nghị thúc đẩy tăng cường liên kết hoạt động của các công ty
du lịch Việt Nam trong điều kiện cộng đồng kinh tế Asean................................86
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................93



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNTT

Công nghệ thông tin

Công ty DL/LH

Công ty Du lịch Lữ hành

CSLT

Cơ sở lưu trú

DL

Du lịch

DNLH

Doanh nghiệp Lữ hành

ĐT

Đối tác

KQKD

Kết quả kinh doanh


LK

Liên kết

LKHD

Liên kết hoạt động

NLCT

Năng lực cạnh tranh

QHĐT

Quan hệ đối tác

DN

Doanh nghiệp


DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ, HÌNH
BẢNG

Bảng 2.3: Khách đến các nước ASEAN giai đoạn 2011-2015....................42
Bảng 2.4: Khách đến Asean từ các quốc gia, khu vực giai đoạn 2011-2015
.........................................................................................................................44
Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2010-2015..45
Bảng 2.2:Tổng thu từ khách du lịch giai đoạn 2010-2015.........................46
BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 2.1: Số lượt khách các nước Asean đến Việt Nam từ 2010-2015. 43
HÌNH

Hình 1.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết hoạt động của công ty du
lịch...................................................................................................................23
Hình 1.2: Mô hình các hình thức liên kết....................................................24
Hình 1.3: Mô hình các hình thức liên kết hoạt động của các công ty du
lịch...................................................................................................................27
Hình 1.4 Biểu đồ lượng khách quốc tế đến các quốc gia năm 2016...................44


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên kết là xu hướng tất yếu của phát triển. Sự phát triển của ngành Du lịch
cũng không nằm ngoài quy luật này. Liên kết đang là vấn đề được nhắc đến nhiều
trong thời điểm gần đây như là liên kết ngành, liên kết vùng hay là liên kết giữa các
doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp với người nông dân, liên kết giữa các doanh
nghiệp chế biến gỗ với nhà cung cấp nguyên liệu, liên kết trong các ngành dệt may,
lắp ráp chế tạo, ngân hàng bảo hiểm…Vấn đề liên kết phát triển trong lĩnh vực du
lịch cũng được đề cấp đến nhiều trong các cuộc hội thảo họp báo cũng như trong
chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, trong
đó Thủ tướng đã nêu rõ quan điểm: “Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực
cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển du lịch; phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế
quốc gia về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền
trong cả nước; tăng cường liên kết phát triển du lịch”. Vì vậy nghiên cứu về vấn đề
liên kết trong lĩnh vực Du lịch là cần thiết trong thời điểm hiện nay. Du lịch là ngành
kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa. Sản phẩm du lịch sử

dụng các yếu tố đầu vào từ nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau (Theo Báo cáo
chuyên đề Du lịch Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, 2014)” nên mỗi một doanh nghiệp không thể tự mình cung ứng
được hết mọi yêu cầu của khách hàng mà đòi hỏi doanh nghiệp phải liên kết hợp tác
cùng với các đối tác trong ngành. Vì vậy muốn cho ngành này phát triển trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn cần phải tăng cường các mối quan hệ liên kết giữa các đơn vị
làm du lịch với nhau, vai trò của việc liên kết vô cùng quan trọng, bởi nó ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến khả năng phục vụ du khách và kết quả kinh
doanh. Thông qua việc liên kết với các đối tác trong ngành (liên kết theo chiều
ngang) các công ty du lịch có khả năng đáp ứng được các đơn hàng lớn hơn, khả
năng cung cấp sản phẩm du lịch đa dạng và đồng bộ hơn, tận dụng được lợi thế của
từng doanh nghiệp cũng như gia tăng lợi ích từ quy mô kinh tế. Tuy nhiên ở nước ta


2

các nghiên cứu về đề tài này còn hạn chế, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào mối
quan hệ với các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng.
Bên cạnh đó, Ngày 22/11/2015, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 27 diễn
ra ở Thủ đô Kuala Lumpur, Malaysia, Lãnh đạo của 10 quốc gia thành
viên ASEAN đã đặt bút ký văn kiện lịch sử Tuyên bố hình thành Cộng đồng
ASEAN 2015, trong đó nêu rõ “sự hình thành của Cộng đồng ASEAN đã tạo ra một
dấu mốc trong tiến trình liên kết, bảo đảm hòa bình, an ninh và tự cường dài lâu
trong một khu vực hướng ra bên ngoài, với các nền kinh tế năng động, cạnh tranh
và liên kết sâu rộng, và một cộng đồng thu nạp dựa trên ý thức mạnh mẽ về sự gắn
kết và bản sắc chung”. Hội nhập AEC là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập khu
vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, qua đó mang lại những
tác động tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Du lịch nói riêng.
Qua quá trình hợp tác lâu dài cũng như những kết quả và lợi ích mang lại, có
thể khẳng định rằng ASEAN cũng như AEC có vai trò đặc biệt quan trọng đối với

Du lịch Việt Nam. Với dân số hơn 500 triệu dân, trong những năm qua, các thị
trường nguồn du lịch thuộc khu vực ASEAN đóng góp khoảng 20% tổng số khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam. Một số nước ASEAN như Thái Lan, Singapore,
Malaysia vừa là thị trường nguồn, vừa đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng để khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hợp tác du lịch với các nước ASEAN là quan hệ
cùng có lợi khi các nước cùng hợp tác, bổ sung cho nhau về tất cả các khía cạnh
trong phát triển du lịch, hỗ trợ nhau đồng thời cũng là hỗ trợ chính mình. Tuy nhiên,
đây là quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, theo đó lợi ích đối với mỗi nước phụ
thuộc vào nỗ lực và khả năng của từng nước.
Việc Việt Nam chính thức gia nhập AEC sẽ có những tác động trực tiếp và
gián tiếp đến tất cả các đối tượng trong ngành Du lịch, từ cơ quan quản lý nhà nước
đến doanh nghiệp kinh doanh du lịch, cơ sở đào tạo, người lao động và thậm chí cả
khách du lịch nội khối cũng như khách du lịch quốc tế đến khu vực. Khi Việt Nam
gia nhập AEC, Du lịch Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức đan
xen.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tận dụng được các cơ hội đồng thời vượt qua


3

những khó khăn, thách thức để phát triển với tốc độ cao và tránh được nguy cơ tụt
hậu, nhất là so với các nước có ngành Du lịch phát triển trong khu vực.
Đặc tính chung của doanh nghiệp du lịch Việt Nam là quy mô nhỏ, nên
việc kinh doanh còn manh mún, phân tán và sức cạnh tranh yếu, năng lực có hạn,
nhân lực thiếu chuyên nghiệp, liên kết còn lỏng lẻo, chưa tạo được sức mạnh chung
để cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy việc Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới nói chung, trong điều kiện cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) nói riêng đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải liên kết với nhau để không
chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài mà còn giữ vững và phát triển thị
phần thị trường trong nước, cùng nhau hợp tác để tạo nên những mối liên kết chặt
chẽ vững mạnh hơn.

Trước những yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn và khoảng trống trong các công
trình nghiên cứu liên quan đã thực hiện trước đây, việc nghiên cứu tìm hiểu về “liên
kết họat động của các công ty Du lịch Việt Nam trong điều kiện cộng đồng kinh tế
ASEAN” là cần thiết để thông qua đó tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến liên kết
giữa các doanh nghiệp và đưa ra một số đề xuất khuyến nghị để tăng cường sự liên
kết giữa các công ty du lịch.
2. Tổng quan nghiên cứu:
Vấn đề liên kết giữa các doanh nghiệp đã được nhiều tác giả trên thế giới
nghiên cứu. Cụ thể theo Cravens và cộng sự (1996) đã đưa ra vấn đề nghiên cứu
là: liệu có nên kéo dài mối quan hệ giữa các doanh nghiệp hay không? quan hệ như
thế nào? với những doanh nghiệp nào? hay theo Christopher (1998), Sahay
(2003) đề cập về những lợi ích của việc tương tác trong phạm vi chuỗi cung ứng .
Theo Corbett và cộng sự (1999), Horvath (2001) cả về mặt học thuật và thực tiễn
thì cả hai đều thừa nhận những lợi ích tiềm tàng của việc tương tác chuỗi cung ứng.
Tuy nhiên, qua tra cứu, tác giả chưa tìm thấy một nghiên cứu hoàn chỉnh để chỉ
rõ được kết quả cũng như vai trò của liên kết hoạt động trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp khi tiến hành liên kết. Cụ thể khi nghiên cứu về
sự hợp tác trong chuỗi cung ứng bằng nhiều cách thức và phương pháp khác


4

nhau, các tác giả đã chứng minh rằng dù là chuỗi nội bộ hay chuỗi mở rộng,
một khi các thành viên càng hợp tác liên kết với nhau thì chuỗi mới bền vững
và phát huy hiệu quả.
Whipple và Russell nghiên cứu về “Xây dựng sự hợp tác chuỗi cung ứng
theo hướng tiếp cận hợp tác” trong đó tác giả đã thử nghiệm các đặc điểm, yêu cầu,
lợi ích và các rào cản theo các giả định về hệ thống tiếp cận hợp tác và các mối
quan hệ hợp tác khác nhau. Tác giả đã dùng phương pháp nghiên cứu định tính
thông qua việc thảo luận bên trong và quan sát từ các cuộc phỏng vấn khám phá 21

nhà quản lý từ 10 doanh nghiệp sản xuất và bán lẻ khác nhau. Kết quả cho thấy một
hệ thống gồm ba loại tiếp cận hợp tác được giả định là: quản lý giao dịch hợp tác,
quản lý sự kiện hợp tác và quản lý quá trình hợp tác. Ba cách tiếp cận hợp tác được
so sánh và đối chiếu với nhau, kết quả cho thấy mỗi loại hợp tác có những lợi ích và
những hạn chế nhất định. Để đo lường và đánh giá mức độ hợp tác của mỗi loại, tác
giả của công trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính theo
hướng dựa vào lý thuyết (GTA – Grounded Theory Approach). Trong nghiên cứu
này, tác giả thực hiện phỏng vấn khám phá nhằm hiểu rõ hơn những đặc điểm của
các hoạt động hợp tác trong môi trường chuỗi cung ứng ngày nay. Thông qua việc
phỏng vấn đã đưa ra các giả định liên quan đến sự hợp tác chuỗi cung ứng theo 3
loại: hợp tác theo quá trình, hợp tác theo sự kiện và hợp tác theo giao dịch – đây là
kiểu hợp tác phổ biến trên thực tiễn.
Togar và Sridharan trong công trình nghiên cứu về “Chỉ số hợp tác: một
thước đo về sự hợp tác chuỗi cung ứng” đã đưa ra các giả định hướng dẫn để đo
lường sự mở rộng về hợp tác của chuỗi cung ứng cụ thể là sự hợp tác của 2 thành
phần chính trong chuỗi là nhà cung cấp và nhà bán lẻ. Mô hình giả định về sự
hợp tác kết hợp chặt chẽ các thói quen hợp tác trong việc chia sẻ thông tin, thống
nhất trong việc ra quyết định và chính sách động viên. Một danh mục hợp tác
được đưa ra nhằm đo lường mức độ thói quen hợp tác. Một khảo sát về nội
dung danh mục hợp tác tại các doanh nghiệp ở New Zealand đã thực hiện và
được kiểm định, đánh giá thông qua việc phân tích dữ liệu thu thập được. Kết


5

quả khảo sát xác nhận độ tin cậy và giá trị các giả định về danh mục hợp tác tỷ lệ
thuận với các kỹ thuật hoạt động. Đóng góp của nghiên cứu này về mặt lý
thuyết đã giới thiệu một danh mục mới nhằm đo lường sự mở rộng hợp tác
chuỗi cung ứng. Việc đo lường có thể được sử dụng bất kỳ thành viên nào trong
chuỗi để xác định mức độ hợp tác và tìm kiếm sự cải tiến.

Handfield và Bechtel khi nghiên cứu về “Vai trò của sự tín nhiệm và mức độ
quan hệ trong việc cải tiến trách nhiệm chuỗi cung ứng” đã đưa ra mô hình
nhằm xây dựng các mối quan hệ chủ yếu giữa nhà cung cấp và người mua dựa
vào sự tín nhiệm, các nhà cung cấp buộc phải đầu tư vào tài lực và nguồn nhân
lực, những người mua phải vận dụng các hợp đồng một cách thận trọng để kiểm
soát các mức độ phụ thuộc liên quan đến mối quan hệ. Mô hình đưa ra biến phụ
thuộc là trách nhiệm của các thành viên trong chuỗi cung ứng thông qua các biến
độc lập là mức độ tín nhiệm và sự phụ thuộc vào người mua, hợp đồng, mức độ
đầu tư vào tài sản cố định, nguồn nhân lực… Các tác giả cũng đưa ra giả định
rằng tất cả các biến phụ thuộc có quan hệ thuận với trách nhiệm chuỗi cung ứng
ngoại trừ sự phụ thuộc của người mua thông qua 9 giả thuyết. Kết quả cho thấy
rằng thậm chí trong những trường hợp khi lượng cầu vượt quá khả năng cung ứng
của nhà cung cấp (lượng cung), sự khan hiếm xảy ra và khi đó hợp tác để xây
dựng lòng tin – sự tín nhiệm (trust) trong mối quan hệ chuỗi có thể cải tiến được
trách nhiệm nhà cung cấp và nâng cao sự hợp tác trong chuỗi cung ứng.
Backtrand nghiên cứu về “Các mức độ tương tác trong các quan hệ chuỗi
cung ứng”. Trong công trình nghiên cứu của mình, Backtrand đã đi vào nghiên
cứu 2 nội dung lớn: (i) Các nền tảng của chuỗi cung ứng, bao gồm: các vấn đề
về chuỗi cung ứng; sự tương tác trong chuỗi cung ứng; mức độ tương tác của
chuỗi cung ứng. (ii) Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tương tác trong chuỗi
cung ứng. Bằng phương pháp nghiên cứu tiếp cận từ lý thuyết và tổng luận từ
các cơ sở lý thuyết đã có từ các công trình nghiên cứu về sự hợp tác trong
chuỗi cung ứng. Tác giả công trình đã đưa ra mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi
nghiên cứu, gồm:


6

(i) Mục tiêu nghiên cứu để xác định rõ được các đặc điểm cốt lõi của việc
tương tác chuỗi cung ứng nhằm phát triển một khung tương tác, qua đó lựa chọn

một mức độ tương tác thích hợp.
(ii) Các câu hỏi nghiên cứu bao gồm: các đặc điểm của sự tương tác chuỗi
cung ứng là gì? Những đặc điểm nào sẽ ảnh hưởng lên mức độ tương thích của
sự tương tác chuỗi cung ứng? Các đặc điểm cốt lõi có thể được diễn dịch theo
một cách so sánh nhằm tạo điều kiện thuận lợi để ứng dụng như thế nào?
Sau khi đưa ra rất nhiều lập luận, so sánh và tổng kết các lý thuyết đã
được công bố của Handfield, Lambert, Harland, Menzent, tác giả công trình
nghiên cứu - Backtrand - đã kết luận có 5 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ các quan
hệ chuỗi cung ứng, gồm: tín nhiệm, quyền lực, khung thời gian, độ thuần thục và
tần suất giao dịch.
Nghiên cứu sự hợp tác trong chuỗi cung ứng tại các tập đoàn lớn trên
phạm vi toàn cầu hiện nay có các tác giả gồm: công trình nghiên cứu của Barrat
và Oliveria (2001) với mô hình chuỗi của Hewlett-Packard, công trình nghiên
cứu của Callioni và Billington (2001) với mô hình chuỗi của IBM, công trình
nghiên cứu của Dell và Fredman (1999) với mô hình chuỗi cung ứng của Dell
và công trình nghiên cứu của Paks (1999) với mô hình chuỗi cung ứng hiệu của
Procter & Gamble. Tất cả các công trình nghiên cứu của các tác giả tại các tập
đoàn trên đều cho thấy rằng cách thức tổ chức hoạt động của tập đoàn rất chặt chẽ,
gắn bó với các đối tác bởi vì các tập đoàn trên đã nhìn nhận được lợi ích của
việc hợp tác trong chuỗi cung ứng sẽ mang lại cho doanh nghiệp của họ.
Theo Baratt và Oliveria (2001), Mentzer và cộng sự (2000) thì sự chấp
thuận rộng rãi về sự hợp tác trong chuỗi cung ứng đòi hỏi một thước đo khoa học
đánh giá các giá trị nhằm chứng minh rằng các mức độ hợp tác khác nhau trong
số các thành tố chuỗi cung ứng được chỉ rõ. Vì vậy các nghiên cứu về sự hợp
tác chuỗi cung ứng mô tả các nỗ lực nhằm phát triển các phạm vi đo lường thực
tiễn hợp tác trong chuỗi cung ứng. Một hướng dẫn để đo lường sự hợp tác chuỗi
cung ứng đã được chấp nhận đó là sử dụng ba hướng gồm chia sẻ thông tin cụ


7


thể, sự đồng bộ hóa trong các quyết định và khích lệ liên kết (Simatupang và
Sridharan, 2004). Để đánh giá về sự hợp tác chuỗi cung ứng, nghiên cứu của
Barrat và Oliveria (2001) đã giả định đơn giản trong chuỗi gồm ba thành phần cơ
bản là nhà cung cấp, nhà sản xuất và nhà bán lẻ. Đánh giá sự hợp tác thông qua
mối quan hệ song phương theo từng cặp trong đó nhà sản xuất đóng vai trò
trung tâm, nghĩa là: mức độ hợp tác giữa nhà sản xuất và nhà cung cấp và mức
độ hợp tác giữa nhà sản xuất và nhà phân phối/khách hàng
* Các công trình nghiên cứu ở trong nước về sự hợp tác trong lĩnh vực du
lịch có luận án tiến sĩ của tác giả: Nguyễn Thị thu Mai nghiên cứu về “ Chất lượng
quan hệ đối tác và sự tác động đối với kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp lữ
hành Việt Nam. Luận án đã xác định và kết luận về sự ảnh hưởng của 2 yếu tố Vị
thế/vai trò củ đối tác và Quan hệ cá nhân đến Chất lượng quan hệ đối tác của doanh
nghiệp lữ hành trong bối cảnh kinh doanh ở Việt Nam, bổ sung vào hệ thống các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quan hệ đối tác. Luận án phát triển mô hình các
yếu tố ảnh hương đến chất lượng quan hệ đối tác trong điều kiện Việt Nam, theo đó
2 yếu tố riêng biệt trong lý thuyết có ảnh hưởng đến chất lượng mối quan hệ là sự
chia sẻ thông tin va sự phụ thuộc lẫn nhau trên thực tiễn nghiên cứu lại một thành
phần đơn hướng. Công trình nghiên cứu của Ts Phùng Thế Tám về: " Liên kết du
lịch - hàng không giá rẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam", trong nghiên
cứu này tác giả đã chứng minh được tính khách quan kinh tế của liên kết du lịch và
các hãng hàng không giá rẻ, xây dựng được mô hình và cơ chế liên kết du lịchhàng không giá rẻ tối ưu và sử dụng lý thuyết này vào khảo sát thực trạng tiến trình
liên kết ở Việt Nam cũng như chỉ ra được vai trò của liên kết du lịch - hàng không
trong bản thân sự phát triển của hai ngành và đối với hoạt động của toàn bộ nền
kinh tế.
Tóm lại: các công trình nghiên cứu trên thế giới theo nhiều hướng tiếp cận
khác nhau, cả định tính và định lượng với mục đích tìm ra một thang đo về sự hợp
tác trong chuỗi cung ứng hay các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tương tác
chuỗi cung ứng trong nhiều ngành nghề khác nhau trong đó có cả du lịch. Tuy



8

nhiên theo kết quả của từng công trình đã công bố thì hầu như các công trình
nghiên cứu đều đi sâu vào tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hợp tác, đo
lường và đánh giá sự tác động của nó đến chất lượng đối tác, tuy nhiên chưa có
công trình nào đi vào phân tích các mối quan hệ liên kết trong các doanh nghiệp
cụ thể, hay các công ty du lịch cụ thể để vận dụng cũng như minh chứng cho các
lý thuyết được đưa ra và tất cả chỉ dừng lại ở việc lập luận hoặc khảo sát để tìm ra
các nhân tố có ảnh hưởng đến sự hợp tác trong chuỗi. Ngoài ra khi nghiên cứu cơ
sở lý thuyết về hợp tác chuỗi cung ứng, mặc dù không hình thành một công
trình nghiên cứu hoàn chỉnh, nhưng một số chuyên gia trong ngành quản lý
chuỗi cung ứng cũng đã đề cập đến một số nhân tố khác cũng có ảnh hưởng đến
hợp tác chuỗi cung ứng. Nghiên cứu về liên kết hoạt động của các công ty Du lịch
Việt Nam – thông qua việc hệ thống lại một số lý thuyết về hợp tác đã được công
bố trên các tạp chí có uy tín trên thế giới, trong công trình nghiên cứu luận văn
tổng kết lại một số yếu tố ảnh hưởng đến việc liên kết của các công ty du lịch như:
liên kết thông qua sự cam kết, niềm tin, sự hài lòng và sự hợp tác nhằm nghiên
cứu hàn lâm lặp lại kết hợp nghiên cứu ứng dụng với mong muốn tìm ra một
mô hình phù hợp với điều kiện kinh doanh còn khá mới mẻ tại thị trường Việt Nam
trong điều kiện cộng đồng kinh tế Asean.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích tình hình liên kết hoạt động của các công ty du lịch Việt Nam
- Nghiên cứu các nội dung, hình thức liên kết hoạt động của các công ty du
lịch Việt Nam,
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết hoạt động của các công ty du
lịch trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN.
- Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy liên kết hoạt động của các công ty du lịch.
4. Câu hỏi nghiên cứu:
1) Liên kết là gì? Cơ sở hình thành liên kết hoạt động, nội dung và các

hình thức liên kết hoạt động giữa các doanh nghiệp nói chung và các công ty du
lịch nói riêng?


9

2) Đặc điểm của cộng đồng kinh tế Asean, thực trạng liên kết hoạt động của
các công ty Du lịch Việt Nam trong điều kiện cộng đồng kinh tế Asean ?
3) Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết hoạt động của các công ty du lịch trong
điều kiện cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
5) Cần những giải pháp gì để thúc đẩy liên kết hoạt động của các công ty du
lịch hiện nay?
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đồng thời giúp giải quyết những câu hỏi
nghiên cứu, luận văn phải giải quyết được những nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Tổng quan được tình hình nghiên cứu ở trong nước cũng như nước ngoài
có liên quan đến vấn đề liên kết hoạt động của các công ty du lịch, các yếu tố tác
động liên kết hoạt động, tất cả những nội dung này sẽ được dùng làm cơ sở để xây
dựng mô hình nghiên cứu.
+ Thu thập phân tích những nhận định và đánh giá của các nhà quản lý doanh
nghiệp du lịch về các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ liên kết hoạt động kinh
doanh của các công ty du lịch
+ Thu thập phân tích đánh giá của các nhà quản lý doanh nghiệp lữ hành Việt
Nam về sự ảnh hưởng của liên kết tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Liên kết hoạt động của các công ty du lịch Việt
Nam trong điều kiện cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) cụ thể là nội dung, hình
thức và các yếu tố ảnh hưởng tới liên kết hoạt động của các công ty du lịch.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: đề tài tập trung nghiên cứu liên kết hoạt động của các công ty

du lịch Việt Nam và các đối tác trong nước cũng như trong khuôn khổ khu vực
Asean.
+ Về thời gian nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2010 cho đến nay, Sử
dụng số liệu thứ cấp trong khoảng thời gian từ 2010-2017
- Nghiên cứu sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp từ tháng 11/2016 đến tháng 4/2017


10

6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu và thực hiện được các nhiệm vụ nghiên
cứu nêu trên, đề tài luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông
qua hình thức phỏng vấn các chuyên gia trong các doanh nghiệp lữ hành như
trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng marketing, giám đốc doanh nghiệp,…
- Phỏng vấn chuyên gia:
Lý thuyết liên kết hoạt động chưa được phát triển hoàn thiện nên các cuộc
phỏng vấn sâu được thực hiện với một số chuyên gia trong ngành để tìm hiểu và
khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ liên kết hoạt động của các công ty du
lịch trong bối cảnh kinh doanh ở Việt Nam cũng như trong điều kiện cộng đồng
kinh tế ASEAN. Đồng thời, phương pháp phỏng vấn chuyên gia được vận dụng
nhằm tìm hiểu về thực trạng liên kết hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành
Du lịch cũng như xem xét khả năng tác động của nó đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu tình huống thực tiễn
Nghiên cứu một số tình huống thực tiễn để tìm ra những yếu tố ảnh hưởng
đến liên kết hoạt động của các công ty du lịch Việt Nam trong điều kiện cộng đồng
kinh tế ASEAN.
- Phân tích và tổng hợp thông tin
Phân tích và tổng hợp thông tin thứ cấp từ các nguồn tài liệu sẵn có trong

nước và quốc tế về các nội dung liên quan đến nghiên cứu. Tiến hành thu thập, phân
tích, so sánh và đánh giá một số nội dung nghiên cứu về liên kết hoạt động của các
công ty du lịch Việt Nam và một số vấn đề liên quan để hình thành khung lý thuyết
và mô hình nghiên cứu của luận văn.
7. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã khái quát lại được thực trạng liên kết hoạt động của các công ty
du lịch lữ hành Việt Nam hoạt động trong điều kiện cộng đồng kinh tế ASEAN.
Thông qua đó chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết hoạt động của doanh nghiệp,
các điều kiện cần thiết để tiến hành liên kết cũng như tác động của liên kết hoạt


11

động tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, dùng nó làm căn cứ để đưa ra một
số biện pháp nhằm thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các Công ty du lịch Việt Nam
trong điều kiện cộng đồng kinh tế Asean .
8. Kết cấu đề tài
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý thuyết về liên kết hoạt động của các công ty du lịch.
+ Chương 2: Nghiên cứu thực trạng liên kết hoạt động của các công ty du lịch
Việt Nam trong điều kiện cộng đồng kinh tế Asean (AEC).
+ Chương 3: Khuyến nghị, giải pháp thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các
công ty du lịch Việt Nam trong điều kiện cộng đồng kinh tế Asean (AEC).


12

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LIÊN KẾT HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC CÔNG TY DU LỊCH.

1.1 Cơ sở hình thành liên kết hoạt động của các công ty du lịch.
Liên kết hoạt động là một hình thức biểu hiện của liên kết kinh tế.
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế (Mai Hữu Khuê, 2001), liên kết kinh tế được
định nghĩa như sau: ”Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp do các đơn vị
kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo
hướng có lợi nhất, trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Mục tiêu là tạo ra mối quan
hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế họat động để
tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên
kết hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, bảo vệ lợi ích cho nhau.”
Thông qua việc tận dụng tiềm năng hoặc những điểm mạnh của các bên tham
gia, các hoạt động liên kết được thực thi nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc
phục những điểm yếu của các doanh nghiệp. Giải thích theo một cách khác, liên kết
kinh tế giống như tạo ra một tổ chức có qui mô lớn hơn với nhiều sức mạnh hơn khi
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Liên kết kinh tế được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi thông qua hoặc thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và
trong khuôn khổ pháp luật của các nhà nước. Mục tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra mối
quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để
tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm
năng của từng đơn vị tham gia liên kết; hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân
định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản
phẩm nhằm bảo vệ lợi ích của nhau, cùng giúp nhau để có khoản thu nhập cao nhất.
Liên kết kinh tế không phải là một khái niệm mới. Lịch sử kinh tế cho thấy liên
kết kinh tế hình thành và phát triển dựa vào các tiền đề kinh tế nhất định và gắn liền


13

với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Khi con người bước ra khỏi thời kỳ sản
xuất tự cung tự cấp, có trao đổi hàng hóa, có phân công lao động trong xã hội thì

những liên kết kinh tế cũng được hình thành, tuy nhiên những liên kết này còn giới
hạn trong những phạm vi hẹp.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát
thành các ngành nghề khác nhau, phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn
hóa lao động, do đó dẫn đấn chuyên môn hóa sản xuất.
Từ thế kỷ IX xuất hiện tiền đề nền kinh tế hàng hóa, phân công lao động xã
hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản
phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm. Thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp, và tách khỏi lãnh địa, hàng hóa bán ra thị trường một
cách tự do, quá trình phân công lao động giữa nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
hình thành những thành thị phong kiến, nơi đây tập hợp những người làm nghề thủ
công, thương nhân và những người cho vay lấy lãi. Để bảo vệ quyền lợi của mình,
mỗi nghề đều có các tổ chức nghề nghiệp riêng như phường hội của những người
làm nghề thủ công, hội buôn của những nhà buôn. Đây là những hình thức liên kết
chính thống đầu tiên và hình thức này vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay và
thường được tổ chức thành các hiệp hội ngành nghề.
Đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra, nền kinh tế thế
giới đã đạt mức độ tương đối phát triển, đặc biệt ở các nước tư bản phương Tây. Để
đáp ứng nhu cầu ngày một tăng, thị trường ngày càng mở rộng đòi hỏi hệ thống
thông tin liên lạc và giao thông vận tải cũng phát triển theo. Cơ sở hạ tầng phát triển
giúp cho hệ thống phân phối ra đời hàng loạt. Trước sự phát triển của thương mại,
bản thân các doanh nghiệp sản xuất cũng phải phát triển để đáp ứng. Sự cung ứng
hàng loạt yêu cầu phải có sự sản xuất hàng loạt. Muốn vậy, các doanh nghiệp sản
xuất phải đổi mới, phát triển để có thể vừa sản xuất hàng loạt sản phẩm, vừa giảm
giá thành trên cơ sở kết hợp với các doanh nghiệp sản xuất khác cùng ngành và các
nhà cung cấp nguyên vật liệu. Khi đã tiến hành sản xuất hàng loạt, để ổn định và
mở rộng thị trường các công ty sản xuất phải nắm lấy đầu ra, nắm lấy khách hàng.


14


Vì vậy, công tác tiếp thị, quảng cáo, vận chuyển được chú trọng và hình thành hệ
thống phân phối mới. Đồng thời để giảm chi phí và ổn định đầu vào, các công ty có
nhu cầu phối hợp tất cả các công đoạn từ nguyên liệu đầu vào, sản xuất, tiếp thị và
phân phối. Từ đó, liên kết kinh tế theo chiều dọc hình thành, chuỗi giá trị của sản
phẩm ra đời, quản lý theo chuỗi kinh tế được hình thành. Ở đây, mỗi doanh nghiệp
chỉ là một mắt xích trong toàn bộ hệ thống từ khâu cung cấp đầu vào, tiến hành sản
xuất đến khâu tiêu thụ đầu ra nhằm đảm bảo sao cho chi phí giao dịch là tối thiểu.
Đến thập niên 80 của thế kỷ XX, quá trình toàn cầu hóa lần thứ 3 bắt đầu với quy
mô và sắc thái mới, các liên kết kinh tế cũng phát triển nhanh chóng. Để đáp ứng thị
trường toàn cầu, các doanh nghiệp không thể tự mình sản xuất toàn bộ mà phải đặt
hàng gia công (outsourcing) từ những nơi có lợi thế cạnh tranh tốt nhất. Đây là cơ
hội lớn cho các nước đang phát triển, cơ hội này càng có ý nghĩa hơn khi những
nước này hầu hết đang theo đuổi các chính sách thay thế hàng nhập khẩu, hướng về
xuất khẩu nhằm phát triển nền sản xuất trong nước. Tuy nhiên do là những nước đi
sau, quá trình tính lũy tư bản mới bắt đầu nên mô hình phổ biến nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ này vừa phải liên kết với nhau
theo chiều ngang nhằm đáp ứng các đơn đặt hàng lớn và học hỏi kinh nghiệm lẫn
nhau, đồng thời phải liên kết với nhau theo chiều dọc để tham gia vào chuỗi giá trị
sản phẩm. Các liên kết đan xen ấy hình thành khái niệm về liên kết mạng lưới
(industrial cluster).
Ở Việt Nam, liên kết kinh tế cũng được hình thành từ lâu. Tục ngữ Việt Nam có
câu “buôn có bạn, bán có phường” chỉ sự liên kết của những người kinh doanh từng
ngành nghề. Việc tổ chức buôn bán theo phường tạo ra được liên kết giữa những người
bán, tạo điều kiện giúp đỡ nhau trong việc định giá, giữ giá, vay mượn hàng hóa, giới
thiệu khách hàng, bảo vệ lẫn nhau. Liên kết giữa những nhà sản xuất để đáp ứng thị
hiếu khách hàng và học hỏi kinh nghiệm. Các liên kết khác như liên kết người bán và
người sản xuất, liên kết giữa người sản xuất và nhà cung cấp nguyên liệu cũng được
hình thành. Các liên kết trên góp phần tạo nên sự khác biệt của từng phường ngành
nghề. Từ thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 19, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai



15

đoạn suy thoái và khủng hoảng. Do chính sách kinh tế lạc hậu và bảo thủ (vd. chính
sách bế quan tỏa cảng thời Nguyễn) Việt Nam không có điều kiện phát triển các liên
kết lên tầm cao mới như ở các nước phương tây thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ
hai. Trong thời kỳ Pháp thuộc các liên kết sản xuất trong nước cũng kém phát triển một
phần do chế độ thuộc Pháp kiểm soát chặt chẽ tất cả các liên kết trong xã hội để chống
lại các phong trào cách mạng.
Các liên kết kinh tế chỉ thực sự phát triển trở lại cùng quá trình đổi mới của đất
nước kể từ năm 1986. Quá trình đổi mới này cùng với tiến trình toàn cầu hóa đã mang
lại cho Việt Nam cơ hội hình thành các liên kết với đầy đủ các đặc điểm giống như ở
các nước khác trên thế giới. Ngày này trong bối cảnh toàn cầu hóa, người ta dễ dàng
nhận ra sự phát triển không đồng đều ở các nước trên thế giới. Có những khu vực hội
nhập nhanh và sâu vào nền kinh tế toàn cầu (các nước châu Á) có những khu vực chậm
hơn (châu Phi, châu Mỹ Latinh). Hoặc ngay trong một quốc gia, có những ngành công
nghiệp tại những địa phương nhất định có bước phát triển vượt trội hơn những ngành
khác, những địa phương khác. Những vấn đề ấy đặt ra nhiều câu hỏi về phát triển kinh
tế như liên kết trong chuỗi giá trị từ những nước phát triển đến những nước đang phát
triển, điều kiện hình thành và phát triển lợi thế so sánh của các khu vực phát triển công
nghiệp tập trung, ảnh hưởng của những liên kết kinh tế đến sự phát triển… Do đó,
chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các nghiên cứu về liên kết kinh tế được đề cập đến
trong hầu hết các tổ chức nghiên cứu và phát triển kinh tế trên thế giới như Ngân hàng
thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ILO, UNIDO, các viện nghiên cứu về phát triển, các
trường đại học… Nhìn chung, liên kết kinh tế đề cập đến sự hợp tác giữa các đơn vị
với nhau để cùng thực hiện một hay nhiều công việc đạt mục tiêu chung. Liên kết kinh
tế có thể thực hiện theo phạm vi địa lý như khu vực (ASEAN, AFTA), phạm vi quốc
gia, phạm vi tỉnh, thành phố…, Nó cũng có thể thực hiện giữa các chủ thể với nhau
(doanh nghiệp với doanh nghiệp, cá nhân với doanh nghiệp…).

Liên kết hoạt động của các công ty Du lịch là một biểu hiện của liên kết kinh
tế. Vậy nên có thể nói rằng cơ sở hình thành liên kết hoạt động của các công ty du
lịch xuất phát từ:


16

- Phân công lao động xã hội: là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát
thành các ngành nghề khác nhau, phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn
hóa lao động, do đó dẫn đấn chuyên môn hóa sản xuất. Có hai loại phân công lao
động, đó là: Thứ nhất, phân công lao động cá biệt là chuyên môn hóa từng công
đoạn của quá trình sản xuất trong từng công ty, xí nghiệp, cơ sở.... Thứ hai, Phân
công lao động xã hội là chuyên môn hóa từng ngành nghề trong xã hội để tạo ra sản
phẩm ví dụ như sản xuất một chiếc xe máy, các chi tiết như lốp xe, sườn, đèn, điện.
- Vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh một nguyên tắc
trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn
hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi
phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi
quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với
chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên
tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó
tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong
việc sản xuất mọi hàng hóa.
- Đặc điểm của sản phẩm du lịch : Sản phẩm du lịch là sự kết hợp của nhiều
dịch vụ như vận chuyển, lưu trú, ăn uống…của các nhà sản xuất riêng lẻ thành một
sản phẩm mới hoàn chỉnh. Nó vừa bao gồm sản phẩm vật chất, tinh thần, vừa bao
gồm sản phẩm phi lao động và cả các tài nguyên tự nhiên. Hơn nữa, sản phẩm du
lịch gồm nhiều yếu tố không thể tách rời. Có nhiều đơn vị tham gia cung ứng sản
phẩm du lịch, thậm chí đối với một sản phẩm riêng lẻ cũng có nhiều bộ phận tham
gia phục vụ. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận

tham gia phục vụ khách để tạo ra một sản phẩm du lịch có chất lượng tốt, đem lại sự
hài lòng cho khách hàng.
- Lý thuyết về tính kinh tế theo quy mô: Hình thức liên kết kinh tế nhằm khắc
phục những bất lợi về mặt qui mô trong tiếng Anh được thể hiện thông qua thuật
ngữ outsourcing. Đây là hình thức liên kết rất phổ biến, đặc biệt là trong giai đoạn
toàn cầu hóa hiện nay. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều


17

có một hoặc vài lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù, chuyên biệt. Doanh
nghiệp cũng đồng thời phải thực hiện nhiều hoạt động phụ để góp phần tạo ra sản
phẩm chính ví dụ như sản xuất những chi tiết hay thực hiện những dịch vụ trong
quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, do nguồn lực có hạn, doanh nghiệp không thể thực
hiện được tất cả những hoạt động không thể không thực hiện này. Do vậy, cách tốt
nhất là doanh nghiệp thuê ngoài những sản phẩm hay dịch vụ đó.
Trong quá trình họat động kinh doanh, có rất nhiều cơ hội công việc vượt
quá sức của các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp từ bỏ cơ hội sẽ lãng phí, nhưng
nếu như muốn tận dụng cơ hội thì năng lực lại không cho phép. Thông qua liên kết
kinh tế, doanh nghiệp có thể cùng nhau tham gia, mỗi doanh nghiệp đảm nhận một
phần công việc, từ đó, hoàn thành tốt công việc với một tầm năng lực lớn hơn. Đó
cũng là một khía cạnh khác về lợi ích của liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc
phục bất lợi về qui mô.
- Lý thuyết về sự phụ thuộc vào các nguồn lực. Lý thuyết về sự phụ thuộc
nguồn lực (Pfeffer & Salancik, 1978) cho rằng không có công ty nào có thể tồn tại
một mình. Các doanh nghiệp phải thường xuyên tương tác với môi trường xung
quanh để mua các nguồn lực (lao động, thiết bị, nguyên vật liệu…) và để phân phối
các sản phẩm sản xuất ra thị trường. Các doanh nghiệp tìm cách kiểm s oatst thị
trường thông qua các mối liên kết. Các mối liên kết này bảo vệ doanh nghiệp từ
những bất trắc, thay đổi của môi trường bên ngoài, đảm bảo các nguồn lực được

duy trì ổn định và đúng hạn.
Vai trò của liên kết :
- Khắc phục bất lợi về qui mô
Liên kết hoạt động giữa các công ty du lịch với nhau, giữa các công ty du lịch
với các nhà cung cấp trong chuỗi sản phẩm giúp cho các công ty du lịch hạn chế
được tình trạng thiếu hụt nguồn lực, đảm bảo đủ khả năng để dáp ứng các đơn hành
lớn hơn, tăng quy mô hoạt động, mỗi doanh nghiệp đảm nhận một phần công việc
trong chuỗi , từ đó, hoàn thành tốt công việc với một tầm năng lực lớn hơn.
- Giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường


18

Như trên đã nói, bên cạnh việc liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp khắc phục
được những hạn chế về quy mô, thì ở một khía cạnh khác, liên kết kinh tế còn giúp
cho doanh nghiệp phản ứng nhanh với những thay đổi của thị trường. Ngành kinh tế
du lịch là ngành có tính mùa vụ, tính mùa vụ được hiểu là sự mất cân đối về “Cung”
và “Cầu” du lịch trong một không gian cụ thể như một hiện tượng của du lịch và
được thể hiện ở sự thay đổi số lượng khách, mức chi tiêu của khách, lao động trong
du lịch và tính hấp dẫn của điểm du lịch. Tính mùa vụ gây nên những khó khăn
trong kinh doanh du lịch, duy trì đội ngũ cán bộ, giảm hiệu quả đầu tư và gây nên
những rủi ro hoặc tạo nên sự quá tải về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch trong mùa du
lịch và ngược lại sự lãng phí cơ sở vật chất trong mùa vắng khách. Vì vậy việc liên
kết giữa các công ty du lịch giúp hạn chế được những tổn thất mà tính mùa vụ gây
ra. Một trong những quy luật có tính phổ biến mà các quốc gia, các vùng và các
doanh nghiệp phát triển hoạt động du lịch khó có thể tránh khỏi là tính thời vụ du
lịch Butler, 2001 (trích dẫn trong Lê Dân và Dương Anh Hùng, 2014) cho rằng
“Tính thời vụ du lịch không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngành du
lịch mà còn tác động tiêu cực đến sử dụng các nguồn lực trong hoạt động du lịch,
như tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất, lao động”. Trình độ sản xuất xã hội càng phát

triển, các mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện, cầu du lịch tăng mạnh mẽ về quy mô,
đa dạng phong phú về cơ cấu đã gây ra khó khăn và áp lực lớn cho các doanh
nghiệp lữ hành trong quan hệ với các nhà cung cấp dịch vụ du lịch để thực hiện quy
trình cung cấp chương trình du lịch. Sự mất cân đối giữa cung và cầu du lịch thường
dẫn đến việc giá dịch vụ tăng cao; công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo
vệ môi trường cũng như bảo đảm an ninh cho du khách cũng gặp nhiều trở ngại.
Mặt khác, trong mùa thấp điểm, các tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật và
lao động không được sử dụng hết công suất gây nên sự lãng phí nguồn lực rất lớn.
– Do có liên kết kinh tế mà các doanh nghiệp tiếp cận nhanh hơn với thông
tin về nhu cầu của khách hàng đồng thời sự kết hợp giữa các doanh nghiệp cũng tạo
ra năng lực tốt hơn trong việc triển khai các phương án sản xuất mới để đáp ứng yêu
cầu của khách hàng. Vì nhu cầu về du lịch luôn luôn thay đổi nên tăng năng lực


19

trong việc nắm bắt nhu cầu và đáp ứng nhu cầu là một lợi thế rất lớn đối với doanh
nghiệp. Nhu cầu về du lịch luôn biến đổi, nhu cầu của từng lần sử dụng dịch vụ
cũng khác nhau, các doanh nghiệp có thể dễ dàng trao đổi thông tin với nhau sau
mỗi chuyến đi của khách hàng, để từ đó cập nhật thông tin nhanh nhất.
– Liên kết kinh tế giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình
được nhanh hơn. Điều đó được thể hiện rất rõ qua sự liên kết của các nhà sản
xuất và các tổ chức thương mại thông qua hình thức đại lý, cửa hàng giới thiệu
sản phẩm. Điển hình nhất là liên kết giữa hàng không- khách sạn và công ty du
lịch. Nhờ việc khai thác các đường bay mới sẽ thúc đẩy du khách đến với các địa
danh có đường bay của chuyến bay ấy nhiều hơn.
– Liên kết kinh tế giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng với các
công nghệ và kỹ thuật mới. Một hình thức liên kết đang rất đang phổ biến trên thế
giới cũng như ở Việt Nam hiện nay là liên kết giữa các doanh nghiệp với những
truờng đại học và các viện nghiên cứu. Các doanh nghiệp chịu trách nhiệm về kinh

phí nghiên cứu về sản phẩm nào đó như là máy móc thiết bị, giống cây trồng,
phương thức làm việc mới… còn các trường đại học hay viện nghiên cứu chịu trách
nhiệm tạo ra những sản phẩm hay đề xuất phương thức làm việc mới đó. Thông qua
liên kết này, các doanh nghiệp sẽ tiếp cận với công nghệ mới nhanh hơn, từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.
- Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh
Liên kết kinh tế, về bản chất là việc kết hợp của hai hay nhiều doanh nghiệp
thực hiện một công việc nào đó, nhằm làm tăng hiệu quả họat động của những doanh
nghiệp này. Như vậy, mỗi doanh nghiệp tham gia liên kết kinh tế thực hiện một phần
công việc nhất định trong qui định ràng buộc về lợi ích cũng như trách nhiệm chẳng
hạn như thông qua hợp đồng kinh tế, thỏa thuận kinh tế, cam kết hợp tác,… Nhìn nhận
ở một khía cạnh này thì việc liên kết kinh tế chính là giúp cho các doanh nghiệp đạt
được mức năng lực lớn hơn và phân chia rủi ro.
Liên kết kinh tế cũng giúp các doanh nghiệp giảm bớt rủi ro thông qua việc


×