Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bùng nổ dân số - Tư liệu địa lí phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.82 KB, 10 trang )

BÙNG NỔ DÂN SỐ
I. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ DÂN SỐ VÀ BÙNG NỔ DÂN SỐ
Đã có nhiều thông tin về “sự bùng nổ dân số” thế giới, và đã có tranh luận dữ dội về việc làm thế
nào và có nên kiểm soát nó không. Quan điểm chính của các nhà tư tưởng trong quá khứ về vấn đề bùng nổ
dân số là gì? Những quan điểm của họ giống hay khác gì với những quan điểm hiện nay?
1. Thomas R. Malthus, một mục sư và kinh tế gia Anh, đã bắt đầu cuộc khảo sát hiện đại về vấn đề
dân số năm 1798 qua bài tiểu luận Essay on Principle of Population, as it Affects the Future Improvement
of Society (“Luận về nguyên tắc dân số, như nó tác động đến việc cải thiện tương lai xã hội”).
Malthus khẳng định rằng sự gia tăng dân số luôn có xu hướng vượt quá sự gia tăng về các phương
tiện sinh tồn. Ông tin rằng một sự cân bằng thích hợp giữa dân số và sinh tồn sẽ đạt được qua những tác
động hủy diệt của chiến tranh, nạn đói, và dịch bệnh, và những tác động gây suy kiệt của sự bần cùng và tệ
nạn trong các tầng lớp nghèo. Sau đó Malthus đã chỉnh sửa bức tranh ảm đạm này để đề xuất rằng việc lập
gia đình trễ cùng với việc tiết dục chặt chẽ có thể kiểm soát việc gia tăng dân số, nhưng ông không hy vọng
lắm vào việc sẽ có nhiều người thực hiện việc tiết chế này.
Malthus viết bài tiểu luận của ông để chứng minh rằng không thể có một xã hội hoàn hảo để con
người có thể sống thoát khỏi sự túng thiếu hay lo lắng về sinh kế. Theo ông thì thiên nhiên không thể cung
cấp mọi thứ, vì vậy chỉ có những kẻ thích nghi nhất mới tồn tại hoặc thoát khỏi cảnh khốn cùng và túng
thiếu. Khi Charles Darwin viết tác phẩm nổi tiếng của ông, The Origin of Species (“Nguồn gốc các loài”;
1859), ông đã áp dụng ý tưởng của Malthus về “đấu tranh sinh tồn” vào toàn bộ thế giới hữu cơ, nhưng
không giải quyết được vấn đề gia tăng dân số trong xã hội.
2. Tuy nhiên, các kinh tế gia như William Graham Sumner (1840- 1910) đã sử dụng lý thuyết chọn
lọc tự nhiên của Darwin để biện minh cho hệ thống kinh tế cạnh tranh của thế kỷ 19, với sự khốn khổ và
túng thiếu kèm theo của nó. Cũng như Malthus, họ cho rằng chỉ có bao nhiêu đó chỗ tại bàn ăn của thiên
nhiên, và những người bị dư ra – những kẻ kém thích nghi một cách cạnh tranh – không có quyền tồn tại về
mặt đạo đức.
3. Đối lập sâu sắc và dữ dội với Malthus và “những nhà chủ nghĩa Darwin xã hội” là Karl Marx và
Friedrich Engels, những nhà sáng lập học thuyết cộng sản hiện đại. Họ cho rằng lý thuyết của Malthus là
một lời biện hộ phi nhân và xấu xa cho chủ nghĩa tư bản đầy những thối nát bất công. Marx gọi nó là “thái
độ báng bổ ghê tởm chống lại con người và tự nhiên.” Họ cũng xem quy luật tự nhiên “bất diệt” của
Malthus – vốn cho rằng dân số luôn luôn vượt quá thực phẩm sinh tồn – là hoàn toàn vô căn cứ và thiếu
thuyết phục. Marx và Engels đã cho rằng sự khốn khổ và thiếu thốn trong thời đại của họ là do một hệ


thống kinh tế kém hiệu quả và lỗi thời, chứ không phải do riêng việc bùng nổ dân số. Họ nói con người,
không như loài vật, vừa là nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Nhiều hàm nhai cũng có nghĩa là nhiều
tay làm. Marx và Engels tìm kiếm phương thuốc chữa chứng khốn khổ và thiếu thốn của con người bằng
một hệ thống sản xuất và phân phối tốt hơn. Trong nền kinh tế nguyên thủy, thậm chí một người trên một
dặm vuông có thể là quá nhiều trong khi ở nền kinh tế công nghiệp hiện đại, cùng một vùng đất như thế có
thể có 1.000 người mà không căng thẳng.
1
Những nguyên lý do Malthus và Marx-Engels tuyên bố vẫn còn chi phối cuộc thảo luận về vấn đề
dân số hiện nay. Một tỉ lệ chết giảm kèm theo một tỉ lệ sinh gia tăng trong những quốc gia như Ấn Độ và
Trung Quốc, cùng một sự gia tăng không đáng kể về sản lượng lương thực, đã hồi sinh những lo ngại theo
kiểu Malthus. Các nhà sinh học và xã hội học đã nêu lại bóng ma của việc có quá ít lương thực cho quá
nhiều miệng ăn. Tuy nhiên, không như Malthus, họ hướng tới giải pháp giảm sinh suất, chứ không phải là
tăng tử suất. Không như Malthus, họ không tìm cách làm cho cuộc sống người nghèo vất vả hơn và ngắn
ngủi hơn, mà họ tìm cách làm cho cuộc sống của họ lành mạnh hơn và đàng hoàng hơn.
Hiện nay những người chống lý thuyết Malthus vẫn tìm kiếm giải pháp bằng cách tổ chức việc sản
xuất tốt hơn, phân phối hợp lý hơn, và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên hơn. Nhưng họ có thể
không phải là những người theo Marx, và muốn làm việc trong một chế độ quyền tư hữu hiện có. Họ bao
gồm những con người vì lý do tôn giáo mà phản đối việc hạn chế sinh sản không tự nhiên. Một số người
chống Malthus cũng đồng ý với đề nghị của Malthus về việc lập gia đình trễ cùng với việc tiết dục nghiêm
ngặt, đặc biệt là đối với quốc gia như Ấn Độ.
Hiện nay nhiều người ủng hộ một quan điểm trung dung trong các cuộc tranh luận giữa những người
theo thuyết Malthus quá kích và những người bài thuyết Malthus. Họ muốn kết hợp việc sản xuất và phân
phối với những vấn đề hạn chế sinh đẻ hiệu quả hơn. Nhưng giữa họ lại bất đồng với nhau về biện pháp hạn
chế sinh đẻ thích hợp
II. BÙNG NỔ DÂN SỐ THẾ GIỚI
1. Nạn dân số quá tải khắp nơi
Việc tăng dân số thường xuyên gây nên những mối lo ngại cho
tương lai của thế giới. Trái đất hiện có khả năng nuôi sống tát cả mọi
người không? Hay phải chăng sự “quá tải dân số” có nguy cơ dẫn đến
những cuộc xung đột đẫm máu để tồn tại?

Ðầu thế kỷ XIX, Malthus đã xuất bản cuốn “Tiểu luận về dân
số”, trong đó, ông đã phát triển luận thuyết cho rằng: Sự gia tăng dân
số quá mạnh mẽ sẽ dẫn đến cạn kiệt những người tài nguyên thiên
nhiên và sự suy tàn của nhà nước phải nuôi số dân nầy.
Năm 1971, Paul Ehrlich, người Mỹ đã viết cuốn “Quả bom dân số”, một lần nữa đã cảnh báo về một
thảm họa dân số. Những dự đoán thật khủng khiếp: 7 tỷ người vào năm 2000, thì sẽ gia tăng đến 20 tỷ
người vào năm 2050 và 55 tỷ người vào năm 2100.
Trái với những dự báo bi quan kể trên, dân số thế giới đã tăng gấp 5 lần kể từ ngày tái xuất bản cuốn
sách của Malthus, nhưng không vì thế mà có sự “quá tải dân số”. Từ khi Chúa Jesus ra đời đến năm 1000,
dân số thế giới tương đối ổn định. Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, trên trái đất có 1 tỷ người. Những
tiến bộ về y tế và sự công nghiệp hoá đã cho phép nuôi được số dân tăng gấp đôi trong vòng một thế kỷ mà
không khó khăn: năm 1925 có 2 tỷ người. Từ năm 1925 đến năm 1975, người ta lại chứng kiến việc tăng
gấp đôi dân số thế giới lên 4 tỷ người. Năm 1990, đã là 5,3 tỷ người; đến năm 2000 chúng ta có khoảng 6 tỷ
sinh linh.
2
Những dự kiến hướng tới năm 2025 đã đưa con số từ 7,6 đến 9,4 tỷ người. Một đánh giá của Ngân
hàng Thế giới nêu rõ toàn bộ dân số trên trái đất có thể sẽ ổn định từ 10 đến 11 tỷ trong nửa cuối thế kỷ
XXI.
Tình hình tăng dần dân số sẽ diễn ra chủ yếu, nếu không nói là duy nhất, ở Thế giới thứ Ba. Những
ứng dụng y học tiên tiến nhất, được nhập từ thế giới Tây Phương đã làm giảm số tử vong ở trẻ con. Trái lại,
thế giới Tây Phương lại trải qua một thời kỳ giảm tỷ lệ sinh đẻ. Qua thời kỳ “bùng nổ trẻ em” sau chiến
tranh, tiếp đến là thời kỳ “khủng hoảng trẻ em”. Ở châu Mỹ, con số trung bình trên một người mẹ giảm từ
3,7 đến 2 con; ở châu Âu, từ 2,6 xuống 1,5 ở Tây Âu và còn 1,3 ở Nam Âu và Ðông Âu.
Trong khi đó thì tuổi thọ cũng đã tăng lên. Châu Phi hiện có 650 triệu dân, sẽ lên đến 1,6 tỷ dân vào
năm 2025; tuy nhiên, con số nầy có thể giảm xuống, nếu người ta nhanh chóng tìm ra được thuốc chữa bệnh
AIDS.
Vấn đề mà sự tăng trưởng dự kiến của dân sớ thế giới đang được đặt ra là tác động của nó đến
những phương thức và mức tiêu dùng hiện nay. Trái với thế giới động vật, con người đã tàn phá rừng, đốt
các nhiên liệu hoá thạch, làm khô cạn các đầm lầy, làm ô nhiễm sông ngoài và đại dương, đào bới đất đai để
tìm kiếm quặng, dầu lửa và các nguyên liệu khác. Liệu những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhất là về y tế,

đã cho phép kéo dài tuổi thọ của con người, có cho phép tìm ra được một giải pháp trước thách thức phải
đảm bảo về môi trường sống hay không?
2. Vấn đề dân số trên thế giới
Từ cuối thế kỷ XX, sự bùng nổ dân số thế giới đã làm cho thế giới đứng trước một áp lực nặng nề
của dân số, Sức ép của dân số vừa là do sự tăng trưởng quá độ của nhân loại tạo fra, cũng là sự hình thành
do hoạt động quá độ của nhân loại về kinh tế và xã hội, cớ nhiên là do sự tăng trưởng dân số của những
nước đang phát triển chiếm tuyệt đa số. Những những hoạt động quá độ của nhưỡng nước phát triển về kinh
tế, chiếm dụng những nguồn tài nguyên của thế giới đã gây nên sức ép của nhân dân thế giới, thì trách
nhiệm của những nước đó cũng không nhỏ.
Dựa vào tốc độ tăng dân số trước đây và các mô thức phát triển, con người có lý do để lo lắng sinh
tồn của nhân loại và của trái đất, sức ép về dân số không thể tăng lên một cách vô hạn; nếu không, thì chỉ có
thể huỷ diệt nhân loại, huỷ diệt trái đất.
Theo những điều tra gần đây của Liên Hiệp Quốc, nguồn tài nguyên của trái đất chỉ có thể nuôi sống
được 11 tỷ người là thích hợp. Bắt đầu từ những năm của thập niên 1980, đã có một số tổ chức và chuyên
gia về xã hội trên thế giới đã đạt được một nhận thức chung đối với việc khống chế dân số trên trái đất.
Từ nửa cuối thế kỷ XX cho đến nay, sức ép dân số đã mnag tính toàn cầu; nội dung chủ yếu của nó
bao gồm 2 mặt: vấn đề xã hội và nguy cơ sinh thái.
Vấn đề xã hội gồm có: nghèo nđói, thất nghiệp, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, phạm tội, phân phối tài
nguyên không công bằng.
Nguy cơ sinh thái bao gồm: sự thiếu hụt về tài nguyên thiên nhiên, môi trường bị ô nhiễm, giống cây trồng
bị suy giảm...
3. Dân số và sự nghèo đói, lạc hậu:
3
Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng 1% thì thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%. Ở
châu Phi, có một số quốc gia kém phát triển, tỷ lê tăng dân số hàng năm lên rất cao đến 3%. Thành thử, chỉ
để bảo đảm cho nhu cầu dân số mới tăng và dan có sẵn, thì đã đòi hỏi thu nhập quốc dân bình quân mỗi
năm phải tăng khoảng 13%. Nhưng trong thực tế hiện nay, cố gắng để có thể tăng lên 4% về mức thu nhập
là chuyện khó khăn nhiều rồi.
Năm 1986, trên thế giới có 84 quốc gia và khu vực thu nhập quốc doanh bình quân đầu người thấp
dưới 400USD, trong đó có 26 quốc gia thu nhập dưới 100USD là Bangladesh, Lào, Mali, Zaia... Cũng trong

năm đó, có 9 quốc gia có mức thu nhập từ 14,000 đến 20,000 USD như: Hoa Kỳ, Nhật, CHLB Ðức, Pháp,
Thụy Sĩ, Kuweit, Tây Ban Nha, Canada.
4. Dân số và tình trạng thất nghiệp:
Ðối với những quốc gia phát triển, vấn đề thất nghiệp về cơ bản là do lao động quá thừa và phát triển
không đủ mà gây ra. Sau những năm 1960, phần lớn dân số các nước đang phát triển lần lượt đến tuổi lao
động, cho nên tình trạng thất nghiệp cũng do đó là tăng lên không ngừng.
Theo con số thống kê của những năm 1970, số người thất nghiệp hoàn toàn hay thất nghiệp một phần
ở các thành phố của các nước châu Mỹ La tinh đã chiếm khoảng 15%-25%, trong đó còn có khoảng 40% số
người có việc làm nhưng không đầy đủ việc và số công nhân chỉ làm việc theo thời vụ.
Tình trạng sinh sống tại nông thôn của các nước đang phát triển quá thừa lao động cũng đang tồn tại
một cách p[hổ biến. Ðầu những năm của thập niên 1980, dân số nông thôn “quá thừa” ở các nước đang phát
triển của châu Á cũng chiếm từ 35% đến 45%, trong khi tại châu Phi con số nầy là từ 30% đến 50%.
5. Dân số và vấn đề giáo dục:
Sự tăng trưởng của dân số cộng thêm sự phát triển chậm chạp của kinh tế, dẫn đến việc đầu tư về
giáo dục quá ít. Bước vào những năm của thập niên 1980, vẫn còn nhiều nước đang phát triển có đến 80&
lâm nạn mù chữ. Số người mù chữ trên thế giới vào thập niên 1950 là 700 triệu, đến thập niên 1990 lên đến
950 triệu; số người mù chữ ở châu Á và chz2u Phi đã chiếm 92%.
6. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt:
Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi người, mỗi năm phải đào lên
được 25 loại khoáng sản tù các lớp đá của trái đất. Do sức ép về dân số tăng lên, cho nên mức tiêu thụ nước
ngọt năng lượng và tài nguyên khoáng sản cũng tăng nhanh.
Vào đầu thế kỷ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Ðông Phi, Tây Phi, đã xuất
hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn. Tài nguyên dầu lửa, nếu theo tốc độ khai thách của thập niên
1990, đến năm 2016 sẽ khô kiệt hoàn toàn; tuy nhiên, trữ lượng dầu lửa sẽ tăng lên theo sự thăm dò, những
tốc độ thăm dò thì đã không theo kịp tốc độ khai thác.
Theo tốc độ sử dụng than hiện nay, than trên thế giới chỉ dùng khoảng 1,500 năm nữa. Ngoài ra, còn
12 loại tài nguyên chỉ duy trì 50 nữa là cùng.
7. Dân số với vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng:
4
Với sự tăng trưởng của dân số trên toàn thế giớio, bình quân ruộng đất canh tác theo đầu người ngày

một giảm đi. Năm 1950, bình quân ruộng đất theo đầu người trên thế giới lả 8,5 mẫu; khoảng 1960 giảm
xuống chỉ còn 7,1 mẫu; năm 1968 chỉ còn 6,1 mẫu, năm 1974 chỉ còn 5,6 mẫu; năm 1990 chỉ còn 3,9 mẫu.
Ruồng đất canh tác giảm đi, dân số thì lại tăng lên làm cho lương thực trong phạm vi toàn thế giới
căng thẳng kéo dài. Hiện nay, đại đa số các nước đang phát triển tại châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh đã
phải nhập cảng lương thực.
Ðiều đáng sợ là số nhân khẩu toàn cầu tăng lên làm cho cây trồng bị phá hoại, ruộng đất sử dụng quá
độ, đã bị thoát hoá và sa mạc hoá. kết quả là giam diện tích canh tác. Hướng giải quyết trong vòng lẩn quẩn
nầy chỉ còn con đường duy nhất là khống chế dân số.
8. Dân số và ô nhiễm, môi trường:
Cùng với sự bùng nổ dân số trên toàn cầu và những bước đi lên của nền công nghiệp và thành thị
hoá, môi trường ô nhiễm càng ngảy càng gia tăng trầm trọng. Khí quyển ô nhiễm, đất đai ô nhiễm, ô nhiễm
do thuốc trừ sâu, rác sinh hoạt ô nhiễm, nước bị ô nhiễm, hải dương bị ô nhiễm, mưa a-xit ô nhiễm, chất
phòng xạ ô nhiễm. Như thế, ô nhiễm môi trường đã đi vào mọi ngõ ngách trên trái đất.
Sau khi các nước phát triển đã chịu đựng nỗi khổ về ô nhiễm môi trường, trong thập niên 1970 trở về
sau đã coi trọng xử lý môi trường, đồng thời, cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Các nước đang
phát triển do sức ép dân số và yêu cầu về công nghiệp, đến nay vẫn tiếp tục khsi thác một lượng lớn đất
hoang, sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu, xây dựng mà máy, khiến cho sự phá hoại môi trường sinh thái ngày
càng tăng lên.
Do các nước phát triển đến nay vẫn chiếm phần lớn tài nguyên trên thế giới, sử dụng nhiều khoáng
sản, tuy hoàn cảnh môi trường được cải thiện tương đối nhiều, tuy nhiên, họ vẫn phải chịu trách nhiệm về
việc lảm cho môi trường sinh thái ngày càng xấu đi.
Vấn đề di cư và tị nạn chính trị trên thế giới
Trong những thập niên gần lại đây, do những nguyên nhân khác nhau, các làn sóng người di cư, tị
nạn lên đến 120 triệu người; từ những người di cư lao động (65 triệu), hàng năm gửi tiền về cho các nước
xuất xứ của họ khoảng 70 tỷ USD, tức là hơn số tiền viện trợ dành cho phát triển.; cho đến những người tỵ
nạn (chính trị, chiến tranh) (30 triệu); kể cả di chuyển ngay trong nước của họ.
Với tình trạng bất ổn, đói kém, chiến tranh, kỳ thị, tôn giáo, con số người di dân, tị nạn càng ngày càng gia
tăng. Nhiều chính quyền bày tỏ nỗĩ lo sợ về “tình trạng vô chính phủ trong tương lai”;: một cuộc xung đột
lớn của thế kỷ mới nầy do những cuợc di cư không được chế ngự, thật khó tránh.
9. Di cư do vấn đề kinh tế:

Vấn đề 1: Do nghèo khổ và những khả năng kinh tế yếu kém của đất nước, di cư trở thành một lĩnh
vực kinh tế thực sự, như trường hợp Phi Luật Tân. Hai năm lại đây, có đến 120,000 người Hoa nhập cư bất
hợp pháp vào Phi Luật Tân. Tình hình tranh giành công ăn việc làm đã gây căng thẳng giữa các cộng đồng.
Cũng trong xu thế nầy, sự phát triển hành hoá buôn lậu rất phổ biến tại đó.
Vấn đề 2: Cạnh tranh nghề nghiệp, buôn “chất xám” cũng gây việc di dân. Nhiều nước đã có nhiều
nổ lực, để thu hút những chuyên viên và công nhân có tay nghề cao. Trong vòng 40 năm qua, số nhà khoa
học hay sinh viên tu nghiệp từ các nước “đang phát triển” đến định cư ở các nước “phát triển” (Hoa Kỳ,
Anh, Pháp, Nhật) tăng lên đến 7 lần. Từ 245,000 năm 1960 lên đến 1,7 triệu người năm 2001 (trong số đó
5

×