Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội, 2019



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ............ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền ................ 8
1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác
có liên quan ............................................................................................... 17
Chương 2: QUY ĐỊNH HÌNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ HÌNH PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH ............................................................. 23
2.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam .......... 23
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh .............................................................................................. 40
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ....... 52
3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng hình phạt tiền ............................ 52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về hình phạt tiền ........................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


TAND

: Toà án nhân dân

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

TANDCC

: Toà án nhân dân cấp cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

KHXH

: Khoa học xã hội

Nxb

: Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt tiền là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt vừa được
quy định với tính chất là hình phạt chính vừa được quy định với tính chất là

hình phạt bổ sung. Đây là một trong những hình phạt có lịch sử lâu đời đã
được quy định trong pháp luật của Nhà nước Việt Nam từ khá sớm. Cùng với
sự phát triển của pháp luật hình sự, các quy định về hình phạt tiền cũng dần
dần được hoàn thiện. Trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, hình phạt tiền
không chỉ được quy định để áp dụng đối với các cá nhân (thể nhân) bị kết án
mà còn để áp dụng đối với pháp nhân thương mại bị kết án về một số tội
phạm nhất định. Có thể thấy, hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung
trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt này của các Cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Việc quy định và áp dụng hình phạt này đã thể hiện được chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta là “Trừng trị kết hợp với khoan hồng,
nghiêm trị kết hợp với giáo dục, cải tạo, cảm hóa người phạm tội”, thể hiện
quan điểm chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tội phạm theo phương châm
“đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội”
Mặc dù vậy, trong thực tiễn xét xử ở tỉnh Quảng Ninh cũng như trong
phạm vi toàn quốc, việc áp dụng hình phạt tiền còn rất khiêm tốn. Có tình
trạng này là do các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền mặc dù
đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần qua các thời kỳ nhưng vẫn còn những hạn
chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó,
nhận thức về vị trí, vai trò của hình phạt tiền; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
ý thức pháp luật, trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận những người làm

1


công tác xét xử còn hạn chế. Điều đó vô hình chung đã làm giảm hiệu lực và
hiệu quả của hình phạt tiền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp

theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với phương châm: “Hoàn
thiện chính sách hình sự, thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa
và tính hướng hiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở
rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình...” [5, tr 3]. Thêm vào đó, sự phát triển, bổ
sung và đề cao quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành để
các quyền con người, quyền công dân được bảo vệ và đảm bảo trên thực tế.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật quy định về
hình phạt tiền để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện và đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS hiện hành về hình
phạt tiền theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và quyền
công dân là hết sức cần thiết và cấp thiết.
Với lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Hình phạt tiền theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hình phạt tiền là một loại hình phạt có lịch sử lâu đời, được quy định
trong hầu hết BLHS của các nước trên thế giới và Việt Nam không phải là
một ngoại lệ. Do vậy, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan tâm
nghiên cứu về hình phạt tiền ở nhiều phương diện khác nhau, với cấp độ
nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn bổ
ích mà học viên tham khảo, tiếp thu để thực hiện đề tài luận văn của mình.

2


Trong số những công trình khoa học đề cập đến hình phạt tiền mà học viên có

điều kiện tiếp cận nghiên cứu chủ yếu là các công trình cụ thể sau đây:
+ Hệ thống các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo
ngành luật như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội,
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
đặc biệt là cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam-phần chung và phần các tội
phạm do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, được Nhà xuất bản khoa học xã
hội phát hành năm 2013 và năm 2014. Trong những cuốn giáo trình này, các
tác giả đều làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hình phạt tiền ở mức
độ khái quát nhất.
Ngoài hệ thống giáo trình nêu trên, đề cập đến hình phạt tiền còn có các
cuốn bình luận khoa học BLHS, đặc biệt là cuốn “Bình luận Khoa học BLHS
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017” (phần chung) do GS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa chủ biên. Trong các cuốn bình luận Khoa học BLHS, các tác giả đã
bình luận làm rõ nội dung của các điều luật quy định hình phạt tiền trên các
mặt: bản chất, nội dung, điều kiện, căn cứ áp dụng....
+ Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (chuyên ngành Luật hình sự và tố
tụng hình sự) có các công trình tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ “Các hình phạt
chính trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sơn, Viện nghiên cứu
Nhà nước và pháp luật năm 2003; luận án tiến sĩ “Quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Lương Ngọc Châm, Học viện khoa học xã hội năm 2015; Luận án tiến sĩ “Xã
hội học hình phạt - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Khánh
Linh, Học viện KHXH năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt bổ sung theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng”, Học viện KHXH
năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Hải Dương” của tác giả Vũ
Minh Hải, Học viện KHXH năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình
phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn T.P Đà Nẵng” của tác giả

3



Trương Minh Tuấn, Học viện KHXH năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Tổng hợp
hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP. Đà Nẵng” của tác
giả Dương Hoàng Tú, Học viện KHXH năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Hình
phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”
của tác giả Nguyễn Xuân Hùng; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của tác giả Nguyễn Văn
Đức, Học viện KHXH năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Nguyễn Ngọc
Thắng, Học viện KHXH năm 2015.... Những luận án, luận văn nêu trên chủ
yếu đề cập đến hình phạt nói chung (trong đó có hình phạt tiền), tuy nhiên
cũng có những luận văn đề cập riêng về hình phạt tiền từ thực tiễn của một
địa bàn cụ thể trên cả phương diện: lý luận, thực tiễn quyết định, áp dụng và
giải pháp. Đây là những tài liệu tham khảo quý giá để học viên thực hiện đề
tài luận văn của mình.
+ Sách chuyên khảo, có các công trình tiêu biểu như: cuốn “Hình phạt
và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Văn
Quế, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2000; cuốn “Định tội danh và quyết định
hình phạt” của tác giả Dương Tuyết Miên, NXB Công an nhân dân năm
2004; cuốn “Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ
bảo vệ quyền con người” của tác giả Trịnh Quốc Toàn, NXB Chính trị Quốc
gia, năm 2015; cuốn “Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia năm
1995.v.v. Những cuốn sách chuyên khảo này đi sâu nghiên cứu những vấn đề
lý luận về hình phạt được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhưng
chủ yếu theo quy định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này đã giúp học viên có cách tiếp cận nghiên
cứu lý luận về hình phạt tiền, một trong những loại hình phạt nói chung.
+ Các bài báo khoa học có: “Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền”

của tác giả Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí TAND số 16/2009; “Hình phạt tiền

4


trong BLHS năm 1999” của tác giả Trương Quang Vinh, tạp chí Luật học, số
2/2000; “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, tạp
chí TAND, số 5/2009; “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền” của tác giả
Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2012; “Cần bổ sung
các điều kiện áp dụng hình phạt tiền... trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Trần Thúy Hằng, tạp chí Kiểm sát số 18/2010; “Hình phạt tiền áp dụng
đối với người phạm tội trong BLHS năm 2015” của tác giả Mai Thị Thủy và
Đào Thì Nguyệt, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2016.v.v. Những bài báo
khoa học trực tiếp đề cập đến hình phạt tiền cả dưới góc độ lý luận và quy
định của luật thực định (BLHS) là những tài liệu bổ ích để học viên tham
khảo, tiếp thu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn “Hình phạt tiền
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
Như vậy, mặc dù đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng, nhưng do mục đích, nhiệm vụ,
phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có một công trình nào nghiên cứu hệ
thống, chuyên sâu về hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm 2015 từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn này không trùng
lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài
luận văn của học viên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn pháp luật (quy định và áp
dụng) về hình phạt tiền, luận văn hướng tới mục đích kiến nghị những quy
định cần sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền trong BLHS hiện hành và giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định đó nhằm nâng cao hiệu quả của

hình hình phạt này trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như bảo
vệ và đảm bảo quyền con người trong bối cảnh hiện nay.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hình phạt tiền trên các
bình diện: khái niệm, đặc điểm, mục đích, vị trí, vai trò của hình phạt tiền với
tính cách là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, được quy định đối với cả cá
nhân phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự về hình phạt tiền của TAND tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 - 2018, rút ra
những mặt tích cực, cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
BLHS hiện hành về hình phạt tiền trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu về hình phạt tiền trong phạm vi lý
luận chuyên ngành luật hình sự và Tố tụng hình sự.
+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và
quyết định hình phạt tiền của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
+ Về không gian, thời gian: Số liệu, bản án được thu thập, đánh giá ở
tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận (cơ sở lý luận)
của Chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp, về bảo vệ và bảo đảm
quyền con người trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

6


Ngoài ra, luận văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành luật hình sự về
hình phạt tiền để làm rõ đối tượng nghiên cứu.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Cụ thể được sử dụng gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
chuyên gia... Các phương pháp này được sử dụng kết hợp để làm rõ từng nội
dung nghiên cứu trong luận văn
6. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm
những vấn đề lý luận về hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đối, bổ sung
hoàn thiện các quy định của BLHS về hình phạt tiền, cũng như trong thực tiễn
áp dụng để đạt được mục đích, hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy,
nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt tiền

Chương 2: Thực tiễn quy định hình phạt tiền trong luật hình sự Việt
Nam và thực trạng áp dụng hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Hình phạt tiền là một trong những hình phạt được quy định từ lâu trong
hệ thống hình phạt của nước ta. Nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay vẫn chưa có quy phạm định
nghĩa về khái niệm hình phạt tiền.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều định nghĩa khác nhau
về khái niệm hình phạt tiền như: “Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội
phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách Nhà nước” [61, tr.272].
Khái niệm này mặc dù hết sức khái quát nhưng cũng chỉ ra được nội dung của
hình phạt tiền là “buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định vào
ngân sách Nhà nước”. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ
đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng của hình
phạt tiền.
Quan điểm khác thì cho rằng: “Phạt tiền được hiểu là một trong những
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết
tội đối với người bị kết án về những tội phạm được BLHS xác định với nội
dung là tước một khoản tiền nhất định của họ sung vào quỹ của Nhà nước,
thông qua đó giáo dục, cải tạo họ, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời

thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [20, tr.183]. Tương tự như quan điểm
này, có tác giả định nghĩa: “Phạt tiền là một trong những biện pháp cưỡng
chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người
bị kết án về những tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một
khoản tiền nhất định của họ sung vào công quỹ của Nhà nước, thông qua đó

8


giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm
tội mới, đồng thời thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [55, tr.84].
Đây là những khái niệm đầy đủ về hình phạt tiền trong đó đã phản ánh
được bản chất, nội dung của hình phạt tiền cũng như đối tượng, phạm vi, chủ
thể, và mục đích áp dụng loại hình phạt này. Nhưng trong hai khái niệm này
đêu diễn đạt “Phạt tiền là hình phạt....”, theo chúng tôi chưa thật sự chính
xác và đúng như BLHS quy định. Bởi vì, phạt tiền theo quy định của pháp
luật có thể là phạt hành chính, có thể là hình phạt. Đồng thời, trong các BLHS
đều dùng thuật ngữ “hình phạt tiền” mà không dùng thuật ngữ “phạt tiền”.
Mặt khác, những khái niệm này, được đưa ra trước thời điểm BLHS năm
2015 được ban hành, vì thế chưa phản ánh đầy đủ đối tượng bị áp dụng hình
phạt tiền, đó là pháp nhân thương mại bị kết án.
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong những khái niệm trên, đồng thời
trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền, chúng tôi cho
rằng, trong nội hàm khái niệm hình phạt tiền cần thể hiện đầy đủ bản chất, nội
dung, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng... Với cách tiếp cận như
vậy, khái niệm hình phạt tiền cần được định nghĩa như sau: “Hình phạt tiền là
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được quy định trong BLHS với tính chất
là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, do Tòa án quyết định trong bản án
kết tội đối với người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án về những
tội được Bộ luật này xác định, với nội dung tước một khoản tiền nhất định của

đối tượng bị kết án sung công quỹ của Nhà nước nhằm phòng ngừa riêng,
cũng như phòng ngừa chung”.
1.1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tiền
Là một hình phạt trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền mang đầy đủ
các đặc điểm chung của hình phạt như: là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
(trừng trị, giáo dục, cải tạo) của Nhà nước; được quy định cụ thể trong BLHS;
do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với đối tượng bị kết án...

9


Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, hình phạt tiền có những đặc
điểm riêng khác với hình phạt còn lại trong hệ thống hình phạt, đó là:
+ Thứ nhất, hình phạt tiền là hình phạt có khả năng tác động về mặt
kinh tế đối với đối tượng bị áp dụng. Đặc điểm này của hình phạt tiền thể hiện
ở nội dung của nó là: “tước một khoản tiền nhất định của đối tượng bị áp
dụng sung công quỹ của Nhà nước”. Vì thế, hình phạt tiền có khả năng tác
động đến ý thức của đối tượng bị áp dụng, buộc đối tượng phải nhận thức
được sự lên án của Nhà nước, nhận thức được tính chất sai trái của hành vi
mà mình thực hiện để có phương hướng sửa chữa. Đồng thời, hình phạt tiền
còn có tác dụng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà đối tượng có
thể sử dụng để tiếp tục phạm tội.
+ Thứ hai, hình phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính vừa được quy
định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung.
Cũng như hình phạt trục xuất, hình phạt tiền vừa tồn tại trong hệ thống
hình phạt chính, vừa tồn tại trong hệ thống hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, tính
lưỡng tính này của hình phạt tiền hoàn toàn không cho phép áp dụng trong cùng
một tội phạm, có nghĩa là đối với một tội phạm cụ thể, hình phạt tiền chỉ có thể
áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính. Quy định
như vậy, đúng như một tác giả đã nhận định: “Nhà làm luật đã mở ra khả năng

đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong việc
vận dụng, định hướng áp dụng hình phạt mà luật đã định”[55, tr.85].
+ Thứ ba, hình phạt tiền được áp dụng đối với cả cá nhân (thể nhân) bị
kết án và pháp nhân thương mại bị kết án.
Nếu như một số hình phạt như hình phạt cải tạo không giam giữ, hình
phạt tù, hình phạt tử hình... chỉ có thể áp dụng đối với cá nhân người bị kết án
(thể nhân) thì hình phạt tiền theo quy định của BLHS hiện hành có thể áp
dụng đối với cá nhân bị kết án và cả pháp nhân thương mại bị kết án. Như

10


vậy, đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền rộng hơn đối tượng bị áp dụng một
số hình phạt khác, do tính chất, nội dung của các loại hình phạt này
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.2.1. Mục đích của hình phạt tiền
Với bản chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, nội
dung của hình phạt tiền được thể hiện ở việc tước một số tiền nhất định của
đối tượng (thể nhân hoặc pháp nhân thương mại) bị kết án sung công quỹ Nhà
nước. Mức phạt tiền (khoản tiền bị tước sung vào công quỹ của Nhà nước) phải
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến
tình hình tài sản của đối tượng bị áp dụng, cũng như sự biến động của giá cả,
nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng (đối với cá nhân bị kết án) và
không được thấp hơn 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án).
Có thể thấy, sự tước bỏ một khoản tiền nhất định của đối tượng bị kết án sung
công quỹ của Nhà nước thể hiện tính nghiêm khắc của hình phạt này.
Với nội dung là tước bỏ lợi ích kinh tế (một khoản tiền nhất định) của
đối tượng bị kết án, hình phạt tiền có khả năng tác động về mặt kinh tế (tài
sản) đối với cá nhân người phạm tội, cũng như đối với pháp nhân thương mại
phạm tội. Nếu không tước bỏ một khoản tiền nhất định, đối tượng bị kết án sẽ

không nhận thức được lỗi lầm của mình, không nhận thức được tính không
tránh khỏi hình phạt, cũng như sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với họ.
Việc tước bỏ lợi ích kinh tế không chỉ có tác dụng răn đe đối tượng bị kết án
mà còn có khả năng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà người
phạm tội có thể sử dụng để tiếp tục phạm tội. Chính vì vậy, có thể thấy hình
phạt tiền có mục đích giáo dục, cải tạo đối tượng phạm tội, loại trừ điều kiện
tái phạm của những đối tượng này (mục đích phòng ngừa riêng). Đồng thời,
thông qua việc quy định và áp dụng hình phạt tiền còn có tác dụng răn đe,
giáo dục những đối tượng “không vững vàng”, có khả năng sẽ phạm tội phải
tự kiềm chế không thực hiện hành vi phạm tội, cũng như giáo dục người dân

11


và pháp nhân thương mại khác có ý thức tôn trọng pháp luật, nâng cao sự hiểu
biết pháp luật, để tránh những vi phạm pháp luật và tội phạm (phòng ngừa
chung). Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận định: “Với đặc trưng riêng là
việc tước bỏ lợi ích kinh tế của người phạm tội, hình phạt tiền có một cách
thức tác động độc đáo với người phạm tội để tạo ra hiệu quả của hình phạt.
Trong những trường hợp nhất định, cách thức tác động này có ưu thế hơn hẳn
so với cách thức tác động khác và trong nhiều trường hợp nếu không có sự hỗ
trợ của hình phạt tiền thì việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung không thể đạt được một cách triệt để” [2, tr 1].
1.1.2.2. Ý nghĩa của hình phạt tiền
Ý nghĩa của hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt của Nhà nước ta
được thể hiện trên những mặt sau đây:
+ Thứ nhất, việc quy định hình phạt tiền trong cả hai: hình phạt chính
và bổ sung có tác dụng đa dạng hóa các hình thức xử lý hình sự, đa dạng hóa
các biện pháp trách nhiệm hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Như trên đã phân tích, hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt

chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt của Nhà
nước ta. Việc quy định như vậy mở ra khả năng đa dạng hóa các biện pháp xử lý
hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong vận dụng, áp dụng hình phạt mà luật đã
quy định. Chính vì lẽ đó, khi quy định hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt,
nhà lập pháp nước ta ghi rõ có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung
khi không áp dụng là hình phạt chính và chỉ trong trường hợp có điều luật quy
định thì hình phạt tiền mới được áp dụng là hình phạt chính.
+ Thứ hai, hình phạt tiền được quy định trong hệ thống là hình phạt
chính và hình phạt bổ sung đã tạo ra khả năng phân hoá trách nhiệm hình sự
và cá thể hoá hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác nhau về tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý tội

12


phạm “nghiêm trị, kết hợp với khoan hồng, trừng trị với giáo dục, cải tạo,
cảm hóa người phạm tội”.
Thực tế cho thấy, trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền vừa được
quy định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Điều đó
đã góp phần làm tăng tính phong phú và cân đối của hệ thống hình phạt, làm
cho các hình phạt trong hệ thống không có sự chênh lệch quá xa về tính
nghiêm khắc đảm bảo được tính nối tiếp, tính liên tục theo hướng tăng dần về
mức độ nghiêm khắc, làm cho hệ thống h́ nh phạt có tính chỉnh thể. Bởi, trong
hệ thống h́ nh phạt của Nhà nước ta, các hình phạt chính được sắp xếp theo
một trình tự tăng dần về tính nghiêm khắc (từ nhẹ đến nặng). Hình phạt tiền
với tư cách là hình phạt chính giữ vị trí nối tiếp giữa hình phạt cảnh cáo - hình
phạt ít nghiêm khắc nhất với cải tạo không giam giữ - có tính nghiêm khắc
cao hơn hình phạt tiền, nhưng thấp hơn về tính nghiêm khắc so với hình phạt
tù có thời hạn. Nhờ đó đã tạo nên tính nối tiếp, tính liên tục theo hướng tăng
dần về mức độ nghiêm khắc của các hình phạt trong hệ thống.

Khi được quy định là hình phạt bổ sung, hình phạt tiền cùng với hình
phạt tịch thu tài sản đã làm phong phú, cân đối các hình phạt bổ sung trong hệ
thống hình phạt. Nhờ đó, giúp cho việc thực hiện nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt trong việc xử lý đối tượng phạm tội,
tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả khả năng
tác động của các hình phạt trong hệ thống đối với phòng ngừa tội phạm. Đồng
thời, giúp Tòa án có nhiều khả năng lựa chọn hơn khi quyết định hình phạt
đối với cá nhân phạm tội cũng như đối với pháp nhân thương mại phạm tội
trên cơ sở “căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
+ Thứ ba, việc quy định hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt còn
góp phần thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam, góp

13


phần thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ và bảo đảm
quyền con người.
Trước hết, việc quy định hình phạt tiền có mức độ nghiêm khắc thấp
hơn các hình phạt tước tự do của con người là cơ sở pháp lý quan trọng để
Tòa án lựa chọn khi áp dụng các biện pháp khoan hồng trong việc quyết định
hình phạt đối với “người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác tội phạm, lập
công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại
đã gây ra” và đối với “người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải”.
Bởi theo quy định của BLHS hiện hành, đối với những người này (trường hợp
này) Tòa án có thể áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, trong đó có
hình phạt tiền. Mặt khác, việc quy định mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
tiền đối với người bị kết án còn góp phần bảo vệ quyền con người được Hiến
pháp năm 2013 ghi nhận, nhất là quyền tự do thân thể của con người. Điều đó

còn thể hiện trách nhiệm nội luật hóa của Việt Nam với tư cách là nước thành
viên của Công ước của Liên hợp quốc về “Chống tra tấn và các hình thức đối
xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1984, được Việt Nam chính
thức ký tham gia Công ước ngày 07/11/2013 và được Quốc hội nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam phê chuẩn ngày 28/11/2014. Công ước này có hiệu lực
đối với Việt Nam kể từ ngày 07/03/2015.
1.1.3. Phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tiền
1.1.3.1. Đối với cá nhân bị kết án
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 35 BLHS hiện hành thì phạm vi áp
dụng hình phạt tiền là hình phạt chính chỉ trong hai trường hợp sau:
- Tội phạm mà người bị kết án thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và điều luật về tội phạm ấy có quy định hình phạt tiền.
- Tội phạm mà người bị kết án thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng và
thuộc các nhóm tội phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về môi trường, tội

14


xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng hoặc tội phạm khác được
BLHS quy định.
Như vậy, phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính được BLHS
năm 2015 quy định rộng hơn BLHS năm 1999, nghĩa là không chỉ đối với tội
ít nghiêm trọng mà còn đối với cả tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và không có sự giới hạn ở nhóm tội phạm cụ thể nào thuộc phần các tội
phạm của BLHS. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng, hình phạt tiền là hình phạt
chính chủ yếu được áp dụng đối với 3 nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
các tội phạm về môi trường, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng. Tuy nhiên, BLHS hiện hành cũng cho phép áp dụng hình phạt tiền là hình
phạt chính đối với một số tội phạm khác mà điều luật có quy định hình phạt này.

Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 35 BLHS hiện hành thì hình phạt
tiền là hình phạt bổ sung được áp dụng trước hết đối với người bị kết án về các
tội tham nhũng, các tội phạm về ma túy. Ngoài ra, hình phạt tiền là hình phạt
bổ sung còn có thể áp dụng đối với những tội phạm khác do BLHS quy định.
Với quy định như vậy, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng hình
phạt tiền là hình phạt bổ sung so với BLHS năm 1999.
Khoản 3 Điều 35 BLHS hiện hành quy định rõ mức phạt tiền và căn cứ
quyết định mức phạt tiền, theo đó mức phạt tiền thấp nhất khi áp dụng hình
phạt tiền với tính chất là hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung là
1.000.000 đồng. Như vậy khoản 3, Điều 35 chỉ quy định mức phạt tiền tối
thiểu mà không quy định mức phạt tiền tối đa. Do vậy, tòa án có quyền quyết
định bất cứ mức phạt tiền nào nhưng không được vượt quá mức cao nhất mà
điều luật về tội phạm quy định và không được dưới 1.000.000 đồng.
Khi quyết định mức phạt tiền cụ thể để áp dụng đối với người bị kết án,
Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời
có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả thị
trường

15


1.1.3.2. Đối với pháp nhân thương mại bị kết án
Theo quy định tại Điều 77 BLHS hiện hành, đối với pháp nhân thương
mại phạm tội, hình phạt tiền cũng được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình
phạt bổ sung
Về phạm vi áp dụng: Theo quy định tại Điều 76 BLHS hiện hành thì
pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm về những tội phạm quy định
tại 33 điều luật thuộc phần các tội phạm của BLHS, trong đó có 22/47 tội
thuộc các tội xâm phạm trật tự kinh tế; 9/12 tội thuộc nhóm các tội phạm về
môi trường và 2/68 tội của các nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng và trật

tự công cộng. Trong ba nhóm tội phạm này, BLHS năm 2015 quy định hình
phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung đối với 18/22 tội và
hình phạt tiền chỉ là hình phạt chính đối với 4/22 tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế. Thế còn; 9/12 tội xâm phạm về môi trường, BLHS hiện hành được
quy định hình phạt tiền vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung. Đối
với các tội phạm có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc hình phạt
bổ sung, BLHS hiện hành quy định cụ thể mức phạt tiền tối thiểu và tối đa
tương ứng với từng khung hình phạt.
Về mức phạt tiền và căn cứ quyết định mức phạt tiền đối với pháp nhân
thương mại bị kết án, khoản 2 Điều 77 BLHS hiện hành chỉ quy định vấn đề
này có tính nguyên tắc là: "Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của
pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không thấp
hơn 50.000.000 đồng". Như vậy, để quyết định mức phạt tiền cụ thể đối với
pháp nhân thương mại bị kết án, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện, tình hình tài
chính của pháp nhân thương mại đó, có xét đến sự biến động giá cả. Riêng
mức phạt tiền cụ thể thì Tòa án phải căn cứ vào khung hình phạt, trong đó có
quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền đối với từng tội để

16


quyết định mức phạt tiền trong phạm vi mức độ tối thiểu và tối đa đó với điều
kiện là không dưới 50 triệu đồng.
1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác có
liên quan
1.2.1. Phân biệt hình phạt tiền với hình phạt tịch thu tài sản
Tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 45 BLHS
hiện hành với nội dung là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của

người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Nếu so sánh hình phạt tiền với hình phạt tịch thu tài sản thấy rằng, hai
hình phạt bổ sung này có một số điểm giống nhau cơ bản như sau sau:
+ Đều được quy định là hình phạt bổ sung
+ Tiền và tài sản bị tước đều được nộp vào ngân sách nhà nước
+ Đều là những biện pháp tác động về mặt mặt kinh tế của nhà nước đối
với người bị kết án để đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung của hình phạt. Tuy nhiên, hai hình phạt này khác nhau ở những điểm
sau đây:
- Một là, về tính chất: Tịch thu tài sản theo quy định của BLHS hiện hành
chỉ là hình phạt bổ sung; còn hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt
chính vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Điều đó có ý nghĩa là hình phạt
tịch thu tài sản trong mọi trường hợp chỉ được áp dụng kèm theo một hình
phạt chính khác theo quy định của BLHS hiện hành. Trong khi đó, hình phạt
tiền với tính chất là hình phạt chính được áp dụng độc lập không phải kèm
theo một hình phạt chính nào khác.
- Hai là, về phạm vi áp dụng: Hình phạt tịch thu tài sản theo quy định tại
Điều 45 BLHS hiện hành chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội
phạm khác mà BLHS quy định. Trong khi đó hình phạt tiền được áp dụng là

17


hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng do BLHS quy định; hoặc người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và
một số tội phạm khác (khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015). Hình phạt tiền áp
dụng đối với hình phạt bổ sung đối với người phạm tội tham nhũng, ma túy,

những tội phạm khác trong BLHS quy định, không phụ thuộc vào những tội
phạm này thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là có thể áp dụng đối với cả tội ít nghiêm
trọng. Như vậy, phạm vi tội phạm được áp dụng hình phạt tiền rộng hơn nhiều
hơn so với hình phạt tịch thu tài sản.
- Ba là, về nội dung pháp lý: Nội dung cơ bản của hình phạt tịch thu tài
sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án,
còn nội dung của hình phạt tiền và tước một khoản tiền nhất định của người
(thể nhân) hoặc của pháp nhân thương mại bị kết án nộp vào ngân sách Nhà
nước. Như vậy, đối tượng mà nhà nước tước bỏ của người bị kết án hoặc pháp
nhân thương mại bị kết án là một khoản tiền nhất định, còn đối tượng mà Nhà
nước tước bỏ của người bị kết án tịch thu tài sản là toàn bộ hay một phần tài
sản của người đó. Tài sản mà tòa án tuyên bố tịch thu không nhất thiết phải là
tiền mà còn có thể là những tài sản khác như: hiện vật, giấy tờ có giá trị như
tiền, ... Những tài sản này có thể đang do người bị kết án trực tiếp chiếm giữ,
quản lý và cũng có thể là tài sản mà người bị kết án đang cho vay, cho thuê,
cầm cố, gửi ở ngân hàng, quỹ tín dụng, … trừ tài sản, đồ vật là tang vật của vụ
án, bởi tang vật của vụ án đương nhiên bị tịch thu và xử lý theo quy định của
BLTTHS hiện hành.
- Bốn là, về mức tiền, tài sản mà tòa án tuyên bố tước bỏ tịch thu nộp vào
ngân sách nhà nước.
Khi quyết định hình phạt tiền, Tòa án sẽ lựa chọn một mức tiền nhất định
để tuyên bố tước của đối tượng bị kết án sung công quỹ nhà nước tùy thuộc

18


vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản, tài chính của
đối tượng bị kết án, có xét đến biến động của giá cả nhưng không thấp hơn
một 1.000.000 đồng (đối với cá nhân người bị kết án) hoặc không dưới

50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án). Trong khi đó, mức
tài sản mà tòa án tuyên bố tịch thu của người bị kết án có thể chỉ là một phần
hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu riêng của người bị kết án tùy thuộc vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình hình tài sản của người bị kết án,
nhất là những tài sản bất hợp pháp do phạm tội mà có, BLHS không quy định
mức tối thiểu cũng như mức tối đa tài sản bị tịch thu như mức phạt tiền. Tuy
nhiên, để đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, khi quyết
định tịch thu toàn bộ tài sản của người bị kết án, Tòa án vẫn để cho người bị
kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
- Năm là, về đối tượng bị áp dụng hình phạt: Đối tượng bị áp dụng hình
phạt tiền bao gồm cả cá nhân người bị kết án, cả pháp nhân thương mại bị kết
án. Còn đối tượng bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản chỉ có thể là cá nhân
người bị kết án.
1.2.2. Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp tịch thu vật, tiền liên quan trực
tiếp đến tội phạm
Cả hai biện pháp trách nhiệm hình sự này giống nhau ở chỗ: Đều là
những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS. Đối tượng bị áp dụng
có thể là cá nhân phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Tuy nhiên,
hình phạt tiền và biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
có một số điểm khác nhau sau:
+ Thứ nhất, khác nhau về tính chất và hậu quả pháp lý: Phạt tiền là một
trong những hình phạt do vậy khi đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền sẽ để lại
án tích trong một thời hạn nhất định. Còn biện pháp tịch thu vật, tiền không
phải là hình phạt mà chỉ là một trong những biện pháp tư pháp, do vậy khi bị
áp dụng không để lại án tích đối với đối tượng bị áp dụng.

19


+ Thứ hai, về đối tượng bị áp dụng: Hình phạt tiền chỉ có thể đối với cá

nhân bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án. Còn biện pháp tư pháp
tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm được áp dụng đối với cá nhân
phạm tội hoặc pháp nhân phạm tội, không đòi hỏi đã bị kết án.
+ Thứ ba, về thẩm quyền áp dụng: Hình phạt tiền chỉ do Tòa án áp dụng,
còn biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm thì ngoài Tòa
án, còn có thể do các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng.
+ Thứ tư, về khoản tiền, vật bị tước hoặc tịch thu: Khoản tiền phạt bị Tòa
án tuyên bố tước bỏ của đối tượng bị kết án sung công quỹ nhà nước là khoản
tiền bất kỳ; còn tiền, vật bị các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tịch thu
phải là tiền, đồ vật trực tiếp liên quan đến tội phạm. Theo quy định tại Điều 47
BLHS hiện hành thì khoản tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm bao gồm:
a) Công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội; b) vật hoặc tiền do phạm tội
hoặc do mua bán đổi chác những thứ ấy mà có, hoặc thu lợi bất chính từ việc
phạm tội; c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
+ Thứ năm, về mục đích áp dụng cụ thể: Khoản tiền phạt bị Tòa án tuyên
bố tước của đối tượng bị kết án là để để sung công quỹ nhà nước. Còn tiền, vật
trực tiếp liên quan đến tội phạm bị các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định
tịch thu là để sung công quỹ nhà nước (nếu là tiền hoặc tài sản), hoặc để tiêu
hủy (nếu là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được).
+ Thứ sáu, về thời điểm áp dụng: Hình phạt tiền được tòa án quyết định
áp dụng đối với đối tượng bị kết án ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự sự; còn
biện pháp tư pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm được các
cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào
khi có căn cứ luật định.
1.2.3. Phân biệt hình phạt tiền với biện pháp phạt tiền với tính chất là biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính
Hình phạt tiền với phạt tiền là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính có

20



những điểm giống nhau như: Đều là chế tài pháp lý áp dụng đối với chủ thể có
hành vi vi phạm pháp luật; chủ thể vi phạm đều phải nộp một khoản tiền vào
công quỹ nhà nước. Tuy nhiên, hai biện pháp phạt tiền này có những điểm
khác nhau cơ bản sau đây:
+ Một là, về tính chất: Hình phạt tiền là chế tài hình sự được quy định
trong BLHS, còn phạt tiền với tính chất là biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
+ Hai là, đối tượng áp dụng: Hình phạt tiền được áp dụng đối với cá
nhân người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án theo quy định của
pháp luật hình sự, còn phạt tiền với tính chất là biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm
hành chính, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy
định của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì phải xử phạt vi phạm hành chính.
+ Ba là, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: Hình phạt tiền là do Tòa án
quyết định áp dụng đối với những đối tượng bị kết án, còn phạt tiền với tính
chất là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là do nhiều cơ quan, tổ chức
quyết định áp dụng tùy theo từng lĩnh vực, vi phạm cụ thể như: Công an, Ủy
ban nhân dân, Thanh tra chuyên ngành, Hải quan, Kiểm lâm, Thuế, v.v...
+ Bốn là, về mức tiền phạt: Đối với hình phạt, mức tiền phạt được BLHS
hiện hành quy định nhiều mức khác nhau tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng thấp nhất không dưới 1.000.000đ (đối với cá
nhân bị kết án) hoặc thấp nhất không dưới 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân
thương mại bị kết án). Còn đối với phạt tiền với tính chất là hình thức xử phạt vi
phạm hành chính cũng được luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định
nhiều mức khác nhau tùy theo từng loại vi phạm hành chính nhưng chỉ nằm trong
khoảng từ 50.000 đồng đến 1.000.000 đồng (đối với cá nhân vi phạm hành chính)
hoặc từ 100.000 đồng đến 2.000.000 đồng (đối với tổ chức vi phạm hành chính)
(Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính).


21


×