Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tội buôn lậu trong pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.99 KB, 98 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ QUỲNH TRANG

TỘI BUÔN LẬU TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành
Mã số

: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH

HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CẢM ƠN


2

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của
các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt khóa học cũng như thời
gian nghiên cứu đề tài luận văn.


Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến PGS.TS Cao Thị Oanh đã hết lòng giúp đỡ, tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều
kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu
cùng toàn thể Quý thầy cô, cán bộ tại Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa
Pháp luật hình sự và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn thạc sĩ.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn thiện kiến thức về đề tài
này.
Hà Nội, ngày 29 tháng 11 năm 2016
TÁC GIẢ

Lê Quỳnh Trang

LỜI CAM ĐOAN


3

Tôi xin cam đoan luận văn “Tội buôn lậu trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu của bản thân dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS.Cao Thị Oanh.
Các số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả
thu thập từ các nguồn khác nhau và có ghi rõ trong phần Danh mục tài liệu tham
khảo. Các nội dung và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác trong cùng
lĩnh vực trên cùng địa bàn.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Nếu phát hiện có

bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng cũng như
kết quả luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

NGƯỜI CAM ĐOAN

PGS.TS Cao Thị Oanh

Lê Quỳnh Trang

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


4

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI BUÔN LẬU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm tội buôn lậu
1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội buôn lậu ở nước ta
1.3. Tội buôn lậu theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999

6
9
15

1.3.1. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản của tội buôn lậu
15

1.3.2. Các dấu hiệu định khung tăng nặng hình phạt trong tội buôn lậu
25
1.3.3. Phân biệt tội buôn lậu với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự
1999 và hành vi buôn lậu với hành vi gian lận thương mại
37
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
43
2.1. Định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

43

2.1.1. Các đặc trưng trong hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
43
2.1.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm và một số vướng mắc trong việc
định tội danh tội buôn lậu
46
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

65

2.2.1. Kết quả thực hiện quyết định hình phạt đối với tội buôn lậu trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh
65
2.2.2. Một số vấn đề vướng mắc trong việc quyết định hình phạt tội buôn lậu 70
Chương 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI BUÔN LẬU
74
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội

buôn lậu trong giai đoạn hiện nay
74
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
tội buôn lậu
76
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự
76
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tư pháp và các cơ
quan phối hợp khác
80
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó đã mở ra nhiều điều kiện thuận
lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế trong nước và quan hệ
ngoại giao, thông thương buôn bán giữa các quốc gia phát triển một cách mạnh mẽ.
Với định hướng đúng đắn trong phát triển nền kinh tế thị trường - một nền
kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, cùng những thắng lợi trong công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã từng
bước đưa đất nước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nhiều thành tựu
đáng kế trong những năm qua. Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bước đầu được thiết lập, quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế nước ta trên

trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Bên cạnh đó, sức mạnh tổng hợp từ
nguồn nội lực của đất nước ngày càng được củng cố, tình hình chính trị, xã hội ổn
định, được nhân dân và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, đi cùng những
thành tựu đạt được, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu
cực, thêm vào đó là những sơ hở, thiếu sót của Nhà nước ta trong quản lý kinh tế đã
khiến cho nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có môi trường nảy sinh, phát triển, trong
đó có tội phạm buôn lậu.
Buôn lậu được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm, không chỉ
làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, gây thất thu thuế cho Nhà nước mà còn đe
dọa phá vỡ chính sách kinh tế đất nước, xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích
của thương nhân cũng như người tiêu dùng. Ở nước ta, trong những năm gần đây,
hoạt động buôn lậu diễn biến rất phức tạp với quy mô ngày càng lớn, địa bàn ngày
càng rộng, phương thức thủ đoạn tinh vi hơn. Những vụ án buôn lậu bị phát hiện
và xử lý cho thấy hành vi phạm tội đang ngày càng nghiêm trọng, hoạt động buôn
lậu có tổ chức và chuyên nghiệp cao, đối tượng buôn lậu đang lợi dụng những bất
cập về cơ chế, chính sách trong điều hành xuất nhập khẩu để hoạt động mạnh mẽ
hơn. Nhận định về tình hình hoạt động buôn lậu tại Cuộc Tọa đàm trực tuyến
chống buôn lậu và gian lận thương mại với chủ đề “Vì thị trường lành mạnh” do
Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 31/10/2014, ông Nguyễn Văn Cẩn,
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan, Chánh văn phòng Ban Chỉ đạo 389
Quốc gia về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả khẳng định: “Hoạt


7

động buôn lậu đang ngày càng diễn biến hết sức phức tạp với thủ đoạn ngày càng
tinh vi, quy mô rộng khắp và thực sự trở thành một “quốc nạn” nhức nhối”.1
Mặc dù vậy, tình hình xét xử loại tội phạm này trên thực tế lại tồn tại nhiều bất
cập với những hạn chế, sai lầm trong việc định tội danh và quyết định hình phạt,
làm giảm đi ý nghĩa của quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm. Trước thực

trạng đó, pháp luật hình sự đã liên tục có những biện pháp khắc phục nhưng nhìn
chung những vấn đề bất cập nói trên vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết triệt
để. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, cần phải thẳng thắn nhìn nhận các
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ vấn đề chưa nhận thức được đúng đắn và đầy đủ
các quy định của pháp luật hiện nay về tội buôn lậu dẫn tới việc lúng túng và nhầm
lẫn trong việc xác định tội danh và quyết định hình phạt của các cơ quan pháp luật,
làm ảnh hưởng tới chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra với các nhà nghiên cứu luật hình
sự là phải làm rõ các vấn đề về mặt lí luận của tội buôn lậu để làm cơ sở cho nhận
thức thống nhất loại tội phạm này trong thực tiễn.
Với ý nghĩa góp phần giải đáp những yêu cầu nói trên, đóng góp những tri
thức luận nhằm phục vụ công tác nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự và phục vụ
cho công tác đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay,
tác giả đã chọn “Tội buôn lậu trong pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực tế trước đây đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu khoa học về
tội buôn lậu dưới góc độ lí luận và thực tiễn.
Các công trình sách nghiên cứu về mặt lí luận bao gồm:
Tội buôn lậu, bài giảng nằm trong chương XXII - các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, Tác giả GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên,2013), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, trang 81 - 85.
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm tập VI – Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế (Bình luận chuyên sâu), Tác giả Đinh Văn Quế (2003),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

Bình Minh (2014), “Buôn lậu đang là quốc nạn”, Báo Biên phòng, tại địa chỉ:
ngày truy cập 16/06/2016.
1



8

Các công trình luận văn nghiên cứu cả về mặt lí luận cũng như thực tiễn dưới
góc độ Luật hình sự bao gồm:
“Tội buôn lậu hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, luận văn thạc sĩ của tác
giả Trần Đức Thìn, 1996;
“Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn
địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2013)”, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Thị Vui, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;
Các công trình luận văn, luận án nghiên cứu cả về mặt lí luận cũng như thực
tiễn dưới góc độ Tội phạm học bao gồm:
“Buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đất liền
Việt – Trung - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu
tranh của Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh”, luận án Tiến sĩ của tác giả Vũ
Đình Nông, 1997;
“Đấu tranh phòng chống tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới”, luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Bình - 2000;
“Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, luận
văn thạc sĩ luật học của tác giả Dương Thị Nhàn - 2006;
Bên cạnh đó còn có một số bài viết:
"Buôn lậu và chống buôn lậu" của tác giả Bùi Toản, Tạp chí Kiểm sát,
số 1 và 2 năm 1999, trang 56 - 58;
"Phòng, chống buôn lậu trong lĩnh vực hải quan khi Việt Nam gia nhập
WTO" của tác giả Nguyễn Phi Hùng, Tạp chí Quản lý nhà nước Học viện Hành
chính Quốc gia, số 12/2006, trang 12 - 16.
Ngoài ra, còn nhiều công trình, bài viết nghiên cứu của các tác giả khác
trên các tạp chí Hải quan, Công an nhân dân....Các công trình nghiên cứu trên
đã làm rõ về mặt lí luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội buôn lậu, đồng thời cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

công tác đấu tranh chống buôn lậu.
Tuy nhiên, những đề tài, công trình nghiên cứu nói trên hoặc do được viết đã
lâu, không còn tính thời sự và nhiều ý nghĩa đối với giai đoạn hiện nay; hoặc do
được nghiên cứu một cách chung nhất trong phạm vi toàn quốc mà chưa đi sâu vào
thực tiễn địa phương; hoặc do chỉ được nghiên cứu tập trung dưới góc nhìn Tội
phạm học. Vì vậy, việc nghiên cứu về tội buôn lậu trên địa bàn một trong những


9

tỉnh có nền kinh tế phát triển nhất vùng Đông Bắc Bắc Bộ - tỉnh Quảng Ninh - sẽ
mang tới những cái nhìn cụ thể hơn, sâu sắc và thời sự hơn của loại tội phạm này.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Tội buôn lậu theo quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Quảng
Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề lí luận và thực tiễn trong việc định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian 06 năm, từ năm 2010 đến năm 2015.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành quả của các đề tài, công trình
nghiên cứu đi trước, luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu sâu sắc thêm về mặt
lí luận và pháp luật của tội buôn lậu thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn
loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề ra các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật đối với tội buôn lậu.
Để làm sáng tỏ các mục đích nghiên cứu trên, luận văn đi vào thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu về các vấn đề lí luận chung của tội buôn lậu theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu về thực tiễn định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt đối

với tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian 06 năm (từ năm 2010
đến năm 2015).
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
pháp luật hình sự về tội buôn lậu.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Trong luận văn, một số câu hỏi sau đây được tác giả đưa ra nghiên cứu, xem
xét:
- Những vấn đề về mặt lí luận và pháp luật cần khai thác về tội buôn lậu theo
pháp luật Việt Nam?
- Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội buôn lậu trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh, những kết quả đạt được và có hay không các sai phạm?
- Để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội buôn
lậu, cần có những giải pháp và kiến nghị gì?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn


10

Luận văn giải quyết các nội dung khoa học của đề tài dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng thuộc Triết học Mác – Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; các văn bản quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành; các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học
trước đó và các tài liệu tham khảo chuyên ngành.
Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê số liệu; phương pháp
so sánh đối chiếu.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của tác giả dưới góc độ luật hình
sự, có ý nghĩa về mặt lí luận cũng như thực tiễn đối với công tác định tội danh và
quyết định hình phạt với tội phạm buôn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng

và trên phạm vi cả nước nói chung.
Về mặt lí luận, luận văn là công trình đóng góp cho việc hoàn thiện hơn nữa
những nhận thức về bản chất loại tội phạm này, đồng thời luận văn còn có ý nghĩa
góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo nhằm phục vụ công tác
giảng dạy và nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu thể hiện trong luận văn là tư liệu góp
phần giúp đỡ các cơ quan THTT và người THTT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng
như trên phạm vi toàn quốc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội phạm
này trong thực tiễn, nhận thức đầy đủ và chính xác trong việc định tội danh và quyết
định hình phạt đối với loại tội phạm này, tránh bỏ lọt tội phạm hay oan sai cho
người vô tội, đóng góp cho việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và
chống tội phạm.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cơ cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận và pháp luật về tội buôn lậu theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội buôn lậu
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
buôn lậu.


11

Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI BUÔN LẬU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội buôn lậu
Tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng là một hiện tượng tiêu cực của

xã hội mà nguồn gốc của nó là từ xã hội và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát
triển của xã hội. Mỗi một quốc gia, để bảo vệ lợi ích của đất nước mình, phù hợp
với tập quán thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách ngăn chặn và làm
giảm bớt tác hại của loại tội phạm này.
Điều 8 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 (sau đây
gọi tắt là BLHS 1999) quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Theo pháp luật hình sự, các hành vi thỏa mãn các yếu tố được quy định trong
Điều 8 BLHS nêu trên mới được coi là tội phạm. Chính vì lí do đó, hành vi buôn lậu
để được coi là tội phạm cũng phải thỏa mãn các yếu tố được quy định trong Điều 8
BLHS 1999.
Tội buôn lậu được quy định tại Điều 153 thuộc “Chương XVI – Các tội xâm
phạm trật tự quản kinh tế” của BLHS. Để hiểu được khái niệm của tội buôn lậu
cũng như ý nghĩa vị trí của tội danh này trong BLHS, cần phải tìm hiểu khái niệm
những cụm từ, thuật ngữ tạo nên tên của tội danh.
Theo Từ điển tiếng Việt, “buôn” được hiểu là việc mua đi bán lại một loại
hàng hóa nào đó nhằm kiếm lợi nhuận, “lậu” chỉ sự không chính đáng, lén lút, trái
pháp luật, “buôn lậu là buôn bán hàng hóa trốn thuế hoặc hàng quốc cấm”.2 Như


12


vậy, nếu hiểu theo nghĩa thông thường, buôn lậu chỉ đơn giản là hành vi buôn bán
những mặt hàng cấm hoặc những hàng hóa trốn đóng thuế theo quy định của pháp
luật.
Cụ thể hơn khái niệm tại Từ điển tiếng Việt, Từ điển bách khoa Việt Nam giải
thích như sau: “Buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những
loại hàng hóa hoặc ngoại tệ, kim khí và đá quý, những vật phẩm thuộc về di
tích lịch sử, văn hóa, những hàng cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn
bán hàng hóa nói chung mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của Hải quan”.3 Tuy rõ
ràng hơn nhưng khái niệm này vẫn chưa thật sự thuyết phục bởi chưa khái quát
được đầy đủ bản chất của hành vi buôn lậu làm cơ sở phân biệt nó với các vi phạm
hay hành vi phạm tội khác. Chính vì vậy, để tìm ra khái niệm chính xác về hành vi
buôn lậu và tội buôn lậu, bên cạnh việc tìm hiểu khái niệm các cụm từ, thuật ngữ
tạo nên tên tội danh, người nghiên cứu cũng cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của
hành vi buôn lậu.
Buôn lậu xuất hiện trước hết là do những khác biệt cơ bản của sự phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, dẫn đến sự không đồng nhất giữa các nước, đặc
biệt là các nước trong cùng khu vực về sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu
dùng (cầu). Trong điều kiện quốc tế hóa, việc phân công sản xuất mang tính chuyên
môn hóa cao đã giúp các nước có nền kinh tế phát triển ngày càng tiết kiệm triệt để
chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến giá thành hạ trong khi sản
phẩm chất lượng vượt trội hơn hẳn các quốc gia đang hoặc chậm phát triển. Sự
chênh lệch ngày càng lớn về giá thành, chất lượng sản phẩm giữa các nước trong
cùng một khu vực tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho người làm lưu thông hàng hóa.
Đây chính là điều kiện sâu xa khiến hành vi buôn lậu tồn tại và phát triển như một
tất yếu khách quan.
Với bản chất là một hoạt động kinh tế bất hợp pháp mang tính xã hội, buôn lậu
luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về buôn lậu của từng
quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội cũng vì thế mà
khác nhau. Những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì khuyến khích xuất khẩu
hàng hóa ra nước ngoài để chiếm lĩnh thị trường, nâng tầm thương hiệu quốc gia –

vấn đề được các quốc gia phát triển đặc biệt quan tâm, do vậy, pháp luật các quốc
Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.90.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa Việt
Nam tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.291.
2
3


13

gia này không tập trung vào các biện pháp hạn chế xuất khẩu hàng hóa mà chỉ thắt
chặt các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Đối với các quốc gia có nền kinh tế kém phát
triển hơn, sức sản xuất hạn chế, giá cả hàng hóa cao, nhu cầu tiêu dùng của xã hội
lớn, hành vi buôn lậu trở nên phức tạp hơn rất nhiều, bao gồm các hành vi nhập
khẩu (phổ biến là hàng hóa tiêu dùng, hàng cấm...) và xuất khẩu (phổ biến là tài
nguyên thiên nhiên, động thực vật quý hiếm...).
Với những đặc điểm nói trên, BLHS 1999 quy định tội buôn lậu tại Điều 153:
“Người nào buôn bán trái phép qua biên giới…hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa,…hàng
cấm có số lượng lớn…”
Căn cứ vào Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 có thể đưa ra khái niệm về tội
buôn lậu như sau: “Tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới quốc
gia các loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, các loại vật
phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, các loại hàng cấm nhằm mục đích kiếm lời”.
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng giữa khái niệm “buôn lậu” hiểu theo nghĩa
thông thường và khái niệm “buôn lậu” theo Luật hình sự Việt Nam có sự khác
biệt. So với khái niệm “buôn lậu” trong cuốn “Từ điển tiếng Việt”, có thể thấy
rằng khái niệm “buôn lậu” với ý nghĩa là một tội phạm trong Bộ luật hình sự phải
có yếu tố bắt buộc là “qua biên giới”, nếu hành vi buôn bán các mặt hàng kể trên
mà không qua biên giới thì đó không phải là hành vi buôn lậu. Đồng thời, đối

tượng của hành vi buôn lậu theo Luật hình sự Việt Nam được cụ thể hơn, thay vì:
“hàng hóa trốn thuế, hàng quốc cấm”, đối tượng của tội buôn lậu trong Bộ luật
hình sự được cụ thể bao gồm: hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá
quý có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng cấm có số lượng
lớn. So với khái niệm “buôn lậu” trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam thì khái
niệm “buôn lậu” theo Luật hình sự Việt Nam cũng có điểm khác biệt về đối tượng
của tội buôn lậu, trong BLHS, không chỉ có ngoại tệ mà cả tiền Việt Nam cũng là
đối tượng của tội buôn lậu, đồng thời tội buôn lậu trong Bộ luật hình sự còn có
thêm dấu hiệu mục đích của người phạm tội là mục đích kiếm lời, đây là một dấu
hiệu quan trọng nhằm phân biệt giữa tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới.
Hành vi buôn lậu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới trật tự quản
lí kinh tế được pháp luật bảo vệ. Hành vi này đã được quy định thành một tội danh


14

cụ thể tại Điều 153 thuộc “Chương XVI – Các tội xâm phạm trật tự quản kinh tế”
của BLHS với tên gọi “Tội buôn lậu”.
1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội buôn lậu ở nước ta
* Giai đoạn từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1985
Tội buôn lậu với tính chất là một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã gây ra
những thiệt hại nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
khiến cho Nhà nước không kiểm soát được hàng hóa xuất nhập khẩu, gây thất thoát
thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hóa; làm cho thị trường hàng hóa bị rối loạn,
mất ổn định, làm cho sự cạnh tranh trên thị trường thiếu lành mạnh. Để đấu tranh
với hiện tượng tiêu cực này, Nhà nước ta đã đưa ra rất nhiều biện pháp để ngăn
chặn và tiến tới loại trừ hành vi này ra khỏi xã hội.
Sau Cách mạng Tháng tám 1945, Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp

luật đấu tranh chống loại tội phạm này. Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên phải kể
đến đó là Sắc lệnh số 45 ngày 9/10/1945 do Chủ Tịch Hồ Chí Minh ký, quy định
cấm xuất cảnh kho thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc. Quy
định này nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói năm 1945.
Sau đó, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm đấu tranh
với loại tội phạm này và một trong những văn bản quan trọng phải kể đến đó là
“Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép”
ban hành ngày 30/06/1982. Khác với các văn bản trước đó, Pháp lệnh ngày
30/06/1982 đã quy định rõ ràng một tội danh với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của
nó, có thể nói, tại văn bản này khái niệm tội buôn lậu lần đầu tiên chính thức được
ghi nhận trong pháp luật hình sự của Nhà nước. Trong pháp lệnh ngày 30/06/1982,
tội buôn lậu được quy định ở hai điều luật khác nhau: Điều 3 – “Tội buôn lậu, tàng
trữ hàng cấm” là hành vi: “…Buôn lậu, tàng trữ vàng bạc, kim khí quý, đá quý,
ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các hàng hóa khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng
trữ…” và Điều 4 – Tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới là hành vi: “Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới…”4 (hàng hóa ở đây được hiểu là mọi hàng hóa ngoài những loại hàng hóa
được coi là hàng cấm, quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh). Đối với hành vi buôn bán
4

Pháp lệnh số Pl/1982 ngày 30 tháng 06 năm 1982 của Hội đồng Nhà nước (1982) về trừng trị các

tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.


15

trái phép hoặc vận chuyển hàng hóa qua biên giới, nếu có mục đích kinh doanh thì
đó là buôn lậu, nếu không có mục đích kinh doanh thì được coi là vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới. Buôn lậu thời kỳ này được quan niệm như là một tội

phạm về kinh tế.
* Giai đoạn khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
Trước bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ, đời sống
nhân dân ngày càng được nâng cao nhưng kéo theo đó là tình hình tội phạm có xu
hướng tăng, thủ đoạn xảo quyệt hơn và diễn biến ngày càng phức tạp, Nhà nước ta
đã ban hành BLHS năm 1985 quy định cụ thể, đồng thời thống nhất về tội phạm và
hình phạt để đáp ứng công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong hoàn cảnh
mới, trong đó có tội phạm buôn lậu. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đã đánh dấu
bước phát triển mới của ngành lập pháp hình sự nước ta. Trong BLHS 1985 (với 4
lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) tội buôn lậu được quy
định trong cùng một điều luật với tội vận chuyển trái phép hàng hóa tiền tệ qua biên
giới tại Điều 97 với tên gọi “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền
tệ qua biên giới”. Điều 97 BLHS 1985 được quy định như sau:
1. Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng
hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di
tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt từ năm năm đến mười
hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn; thu lợi bất chính lớn;
c) Lợi dụng chiến tranh;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội;
đ) Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm
đến hai mươi năm, tù chung thân.
Trong thời kỳ này, tội buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới lại được quan niệm là một tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm an ninh
quốc gia.

* Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành


16

Sau hơn 10 năm áp dụng các quy định của BLHS năm 1985 trong đó có tội
buôn lậu đã bộc lộ nhiều bất cập. Trước tình hình này, ngày 21/12/1999 tại kỳ họp
lần thứ VI – Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS mới có hiệu lực thi hành từ ngày
01/07/2000 thay thế BLHS 1985.BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) đã
tách riêng tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và quy
định hai tội này ở hai điều luật khác nhau trong đó tội buôn lậu được quy định tại
Điều 153 với nội dung:
1. Người nào buôn bán trái phép qua biên giới thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ một
trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng
nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một
trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã
bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu
không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230,
232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này;
b) Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá;
c) Hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy
định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158,159,160
và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều
193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
đ) Hàng cấm có số lượng rất lớn;
e) Thu lợi bất chính lớn;
g) Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
khác;


17

h) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
i) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
k) Phạm tội nhiều lần;
l) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm:
a) Vật phạm pháp có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng;
b) Hàng cấm có số lượng đặc biệt lớn;
c) Thu lợi bất chính rất lớn;
d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm, tù chung thân:
a) Vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu
đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Bộ luật hình sự 1999 coi tội buôn lậu thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý trong lĩnh vực ngoại thương. Việc các
nhà làm luật quy định như vậy là phù hợp với bản chất của tội buôn lậu, điều đó đã
góp phần không nhỏ trong việc củng cố nhận thức về loại tội phạm này cũng như có
những biện pháp đấu tranh, ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm buôn lậu.
* Bộ luật hình sự năm 2015 – những điểm mới đáng lưu ý
Bên cạnh những kết quả đạt được, sau hơn 10 năm thi hành, theo sự phát triển
của kinh tế, xã hội, tình hình tội phạm đã có nhiều thay đổi hết sức phức tạp với
những phương thức tinh vi và thủ đoạn xảo quyệt hơn, BLHS 1999 đã dần thể hiện
những bất cập, hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm. Trước tình hình đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
số 433/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Ban soạn thảo Bộ luật hình sự 2015.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các
Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức liên quan tiến hành soạn thảo dự án Bộ luật hình sự
2015 nhằm khắc phục một cách đầy đủ, toàn diện những bất cập của BLHS 1999,


18

góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN.
Mặc dù vẫn chưa có hiệu lực thi hành, nhưng những thay đổi, điều chỉnh tích
cực trong quy định pháp luật hình sự về tội buôn lậu tại BLHS 2015 đã cho thấy sự
quan tâm sát sao của cơ quan lập pháp tới loại tội phạm này. Trên cơ sở những khó
khăn mang tính thực tế trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội buôn lậu theo Điều 153 BLHS 1999, BLHS 2015 đã có những điều chỉnh, bổ
sung tích cực, trong đó nổi bật lên là các nội dung:
Một là, BLHS 2015 đã hoàn thiện quy định pháp luật đối với tình tiết “hàng
cấm có số lượng lớn, rất lớn hay đặc biệt lớn” trong BLHS 1999 bằng việc loại bỏ

tình tiết này ra khỏi CTTP tội buôn lậu (Điều 188), đồng thời quy định chi tiết tại
Điều 190 Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm làm cơ sở cho các CQTHTT viện dẫn và
áp dụng thống nhất pháp luật đối với hành vi buôn lậu hàng cấm.
Hai là, BLHS 2015 đã hoàn thiện các quy định pháp luật đối với tình tiết “thu
lợi bất chính lớn, rất lớn hay đặc biệt lớn” bằng việc thay thế quy định mang tính
định tính tại Điều 153 BLHS 1999: “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất
lớn” và “thu lợi bất chính đặc biệt lớn” bằng các quy định mang tính định lượng
tương ứng là “thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”,
“thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng” và “thu lợi
bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên” (Điều 188 BLHS 2015). Bằng cách quy định
này, BLHS 2015 đã giải quyết dứt điểm tình trạng không có cách hiểu rõ ràng,
thống nhất dẫn tới không thể áp dụng tình tiết này trong truy tố và xét xử của các
CQTHTT.
Ba là, BLHS 2015 đã loại bỏ tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng hay đặc biệt nghiêm trọng ra khỏi cấu thành tội phạm tội buôn lậu.
Được xác định cụ thể là hành vi xâm hại đến quan hệ xã hội đảm bảo cho sự
ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân và được pháp luật bảo vệ, cụ thể là
ảnh hưởng đến tình hình ngoại thương, hậu quả của tội phạm buôn lậu chỉ bao gồm
các hậu quả về mặt kinh tế. Những hậu quả khác mặc dù đều phát sinh từ hành vi
buôn lậu như hậu quả về mặt giáo dục (đối với hành vi buôn lậu các sản phẩm văn
hóa phản động, đồi trụy....), y tế (đối với hành vi buôn lậu các loại trang thiết
bị y tế chưa được phép sử dụng tại Việt Nam...), an ninh trật tự xã hội (đối với hành
vi buôn lậu ma túy...) hay thậm chí là cả quốc phòng, an ninh (đối với hành vi buôn
lậu vũ khí quân dụng…) đều sẽ được xem xét tại các tội danh cụ thể khác. Do vậy,


19

ngoài hậu quả về mặt kinh tế đã được quy định bởi các tình tiết số lượng hàng cấm
và thu lợi bất chính, không có khả năng người phạm tội bị truy tố về tội buôn lậu

với tình tiết định khung là gây hậu quả nghiêm trọng. Thực tế thi hành BLHS 1999
hơn 10 năm qua cũng chưa từng có trường hợp nào CQTHTT áp dụng tình tiết này.
Chính vì vậy, đây là một tình tiết thừa, cần loại bỏ để tránh rối rắm trong cách hiểu,
cách áp dụng pháp luật trong cả nước.
Nhìn nhận thấy tính bất hợp lí trong quy định tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng” BLHS 2015 cũng đã loại bỏ tình
tiết này ra khỏi CTTP tội buôn lậu.
Bốn là, BLHS 2015 đã hoàn thiện các quy định pháp luật đối với tình tiết “qua
biên giới”, một trong các tình tiết chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để thống nhất
cách hiểu. Theo đó, BLHS 2015 quy định hành vi buôn lậu là hành vi “buôn bán
qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái quy định của
pháp luật”. Đây là cách giải thích phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tế đối với loại tội
phạm này trong tình hình kinh tế, xã hội hiện nay.
Năm là, BLHS 2015 đã bổ sung quy định về TNHS đối với pháp nhân thương
mại phạm tội buôn lậu tại Khoản 6 Điều 188. Đây là BLHS đầu tiên quy định chế
định TNHS của pháp nhân. Đánh giá về điểm mới này, Ban nội chính Trung Ương
khẳng định trong kì họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII: “Đây là điểm đổi mới nổi bật,
mang tính đột phá trong chính sách hình sự nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền
thống về vấn đề tội phạm và hình phạt. Phải nói rằng, việc bổ sung chế định trách
nhiệm hình sự của pháp nhân vào BLHS xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tiễn
và là kết quả của gần 16 năm (từ 1999 đến nay) kiên trì, bền bỉ nghiên cứu, đề xuất
của Chính phủ và đã được Quốc hội chấp thuận nhằm góp phần khắc phục những
bất cập, hạn chế trong việc xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời
gian qua, nhất là những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời
tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của
pháp nhân gây ra”.5

Hà Thanh (2016), “Quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật hình sự năm
2015”, Trang thông tin điện tử tổng hợp của Ban nội chính Trung Ương, tại địa chỉ:
ngày truy cập 15/06/2016.

5


20

Tóm lại, buôn lậu được coi là một tội phạm có tính truyền thống, tội phạm này
cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử. So với các giai đoạn trước, tội
buôn lậu trong BLHS 2015 đã được sửa đổi, bổ sung cả về dấu hiệu pháp lý cũng
như đường lối xử lý, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của loại tội phạm
này trong từng trường hợp cụ thể, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng
chống tội phạm trong giai đoạn mới.
1.3. Tội buôn lậu theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
1.3.1. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản của tội buôn lậu
1.3.1.1 Khách thể của tội buôn lậu
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học
pháp hình sự. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp
luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng, khẳng định: “Khách thể của tội
phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”.6 Nếu
một hành vi bất kỳ không xâm hại tới một trong các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ và quy định tại Điều 8 BLHS thì không thể coi là tội phạm. Khách thể của
tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đối với việc định tội danh, quyết định hình
phạt trên thực tế.
BLHS Việt Nam đặt tội buôn lậu vào “Chương XVI – Các tội xâm phạm trật
tự quản lí kinh tế” cho thấy quan điểm rất rõ ràng của Nhà nước ta về việc xác định
khách thể của tội buôn lậu: đó là quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế quốc dân và được pháp luật bảo vệ. Nền kinh tế đó, theo
Khoản 1 Điều 51 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 là “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Hành vi xâm hại tới quan hệ xã hội

này được biểu hiện cụ thể qua sự vi phạm ở mức độ nhất định các quy định của Nhà
nước. Những quy định này rất đa dạng, có thể có tính chất chung cho toàn bộ nền
kinh tế nhưng cũng có thể có tính chất riêng cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế.
Hành vi phạm tội của tội buôn lậu là hành vi xâm phạm chế độ quản lí ngoại thương
của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên, 2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, tr. 86.
6


21

Theo quy định của BLHS, đối tượng của hành vi phạm tội này là các hàng
hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm thuộc di tích lịch sử,
văn hóa, hàng cấm.
Hàng hóa: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi hay buôn bán.7Hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản là: giá trị
sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng hóa là ích dụng của hàng hóa thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người. Một hàng hóa có thể có một công dụng hay nhiều
công dụng nên nó có thể có nhiều giá trị sử dụng khác nhau. Giá trị của hàng hóa
là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Khi đưa ra
ngoài thị trường để trao đổi, mua bán thì giá trị của hàng hóa thể hiện qua giá trị
trao đổi hay giá cả của hàng hóa. Khái niệm hàng hóa là đối tượng của hành vi buôn
lậu hiểu theo quy định tại Điều 153 BLHS bao gồm tất cả các loại hàng hóa mang
hai thuộc tính cơ bản trên, trừ một số loại hàng hóa do tính chất đặc biệt đã được
BLHS Việt Nam quy định là đối tượng của các tội phạm khác, đó là:
- Vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230);
- Công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231);
- Vật liệu nổ (Điều 232);

- Vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 233);
- Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (Điều 234, Điều 235);
- Chất phóng xạ (Điều 236, Điều 237);
- Chất cháy, chất độc (Điều 238);
- Văn hoá phẩm đồi trụy (Điều 253).
Tiền Việt Nam: Đồng tiền trong tội buôn lậu không thực hiện chức năng trao
đổi hay thanh toán thông thường mà nó được coi là hàng hóa, là đối tượng của hành
vi mua bán. Tiền là đối tượng của tội buôn lậu phải là tiền Việt Nam hiện hành (do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành). Đồng tiền Việt Nam đang lưu hành hiện
nay gồm tiền giấy (cotton hoặc polymer) và tiền kim loại (tiền xu).8
Ngoại tệ: được hiểu là tiền nước ngoài, không phải là đồng tiền do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phát hành. Trên thực tế có thể hiểu, ngoại tệ là đồng tiền nước

Wikimedia Foundation,Inc, “Hàng Hóa”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tại địa chỉ:
ngày truy cập 10/06/2016.
8
Wikimedia Foundation,Inc, “Đồng (Tiền)”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tại địa chỉ:
ngày truy cập
10/06/2016.
7


22

ngoài hoặc đồng tiền chung của một nhóm nước thống nhất phát hành, bao gồm tiền
giấy, tiền kim loại còn hiệu lực lưu hành.9
Kim khí quý, đá quý: là các loại kim khí, đá thuộc loại quý hiếm dạng tự
nhiên hoặc các chế phẩm làm từ kim khí quý, đá quý theo danh mục do Nhà nước
Việt Nam ban hành. Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 3 Thông tư
17/2014/TT-NHNN, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 09 năm 2014 của Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam quy định về phân loại, đóng gói giao nhận Kim khí quý, đá quý thì
“Kim khí quý bao gồm vàng, bạc, bạch kim và các loại kim loại quý khác”. “Đá quý
bao gồm kim cương (hạt xoàn), ruby (hồng ngọc), emorot (lục bảo ngọc), saphia
(bích ngọc), ngọc trai (trân châu) và các loại đá quý khác”.
Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4
Luật di sản văn hóa được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2001 sửa đổi bổ sung năm
2009, “Di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học”. Tuy nhiên, luật di sản văn hóa lại không quy định thế nào là “Vật phẩm thuộc
di tích lịch sử, văn hóa”, do vậy, cần phải dựa vào nội hàm khái niệm “Di tích lịch
sử văn hóa” nói trên để liệt kê ra các vật phẩm thuộc nhóm này. Đó là các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia - những sản phẩm vật chất có giá trị văn hóa, giá trị thẩm mĩ
của dân tộc ta từ những thời kì lịch sử nhất định và còn được lưu giữ đến nay. Theo
quy định tại khoản 5,6,7 Điều 4 Luật di sản văn hóa thì:
5. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
6. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
7. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm
tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Hàng cấm: là những hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán trên lãnh thổ Việt
Nam và cấm xuất – nhập khẩu. Ở tội buôn lậu có thể hiểu hàng cấm là những loại
hàng thuộc phạm vi quy định của Điều 155 BLHS. Danh mục hàng cấm không cố
định mà có sự thay đổi ở mỗi giai đoạn nhất định, phù hợp với tình hình chính trị,
xã hội thực tế và sự thay đổi, phát triển của nền kinh tế. Hiện nay theo quy định tại
Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT ban hành ngày 09/05/2014 quy định chi tiết

Wikimedia Foundation,Inc, “Ngoại hối”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tại địa chỉ:
ngày truy cập 10/06/2016.
9



23

luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh
doanh có điều kiện, danh mục hàng cấm bao gồm 19 loại hàng hóa sau:
1. Vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên
dùng quân sự, công an; quân trang (bao gồm cả phù hiệu, cấp hiệu, quân
hiệu của quân đội, công an), quân dụng cho lực lượng vũ trang; linh kiện,
bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết bịg chương, tác
giả xin phép đi vào phân tích quyết định hình phạt, không tóm tắt lại vụ án.
Trong vụ án buôn lậu 1596,535 tấn than cám, loại than cám 5 từ Việt Nam
sang Trung Quốc, khi quyết định hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn Giới, TAND
tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ quyết định hình phạt như sau:
- Về căn cứ vào các quy định của BLHS: Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị
cáo được thể hiện cùng với giá trị vật phạm pháp: tổng số giá trị số than trên hai tàu
trị giá 1.085.643.800 VNĐ (Một tỉ, không trăm tám mươi năm triệu, sáu trăm bốn


74

mươi ba nghìn, tám trăm đồng) và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu
với các quy định của phần Các tội phạm của BLHS, đủ căn cứ kết luận: Bị cáo
Nguyễn Văn Giới phạm tội “Buôn lậu” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 153
BLHS.
- Về căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tới các quy
định của Nhà nước về quản lý, điều tiết các hoạt động kinh doanh, thương mại, làm
ảnh hưởng đến sự ổn định cũng như công tác quản lý nền kinh tế của đất nước. Bị
cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm
pháp luật song vì tham lợi bất chính, ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý

thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh.
Xét vai trò của bị cáo thấy: Nguyễn Văn Giới là người giúp sức cho ABa thực
hiện hành vi phạm tội nên có vai trò sau ABa, do vậy thuộc trường hợp đồng phạm
theo khoản 1 và khoản 2 Điều 20, Điều 53 BLHS.
Số than trên bị cáo định mang sang Trung Quốc bán nhưng chưa đưa ra khỏi
biên giới đã bị cơ quan chức năng phát hiện bắt giữ, nên bị cáo được xem xét tình
tiết phạm tội chưa đạt (Điều 18, Khoản 3 Điều 52).
- Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự,
không có công ăn việc làm ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Do đó cần xem
xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do các tình tiết này không được quy định tại
khoản 1 Điều 46 BLHS nên được Hội đồng xét xử xem xét và chấp nhận coi là các
tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS.
- Về căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: Bị cáo đã ra đầu
thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại
điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Do có hai tình tiết giảm nhẹ TNHS nên bị cáo được xem xét quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật theo quy định tại Điều 47 BLHS.
Căn cứ vào các lý do trên đây khi quyết định hình phạt, tại bản án số
127/2011/HSST ngày 29/09/2011, TAND tỉnh Quảng Ninh đã quyết định tuyên bố
bị cáo Nguyễn Văn Giới phạm tội “Buôn lậu”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 153;
Điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Khoản 1 và 2 Điều 20; Điều 53; Điều 18;
Khoản 3 Điều 52; Điều 47 của BLHS. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Giới 05 (năm)
năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.


75

Theo quan điểm của tác giả, trong vụ án trên, TAND tỉnh Quảng Ninh đã
quyết định hình phạt chưa đúng đắn vì những lí do sau đây:
Thứ nhất, TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định hình phạt cho bị cáo Nguyễn

Văn Giới nhẹ hơn quy định của Bộ luật mà trong bản án ghi nhận là căn cứ vào quy
định tại Điều 47 BLHS do có hai tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, trong phần
buộc tội, bản án chỉ đưa ra một tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều
46 là điểm p – “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Theo quy
định tại Điều 47, phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46,
Tòa mới được phép áp dụng Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật.
Thứ hai, trong phần xét thấy, TAND tỉnh Quảng Ninh kết luận vai trò của bị
cáo Nguyễn Văn Giới chỉ là người giúp sức cho ABa thực hiện hành vi phạm tội
nên có vai trò sau ABa, do vậy thuộc trường hợp đồng phạm theo khoản 1 và khoản
2 Điều 20, Điều 53 BLHS “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm”.
Tuy nhiên, ngay tại mục 2.1.2.3, tác giả đã phân tích việc VKSND tỉnh Quảng Ninh
trong vụ án này không truy tố bị can ABa, TAND tỉnh Quảng Ninh không trả hồ sơ
điều tra bổ sung trong trường hợp “có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác
hoặc có đồng phạm khác” (điểm b, khoản 1 Điều 179 BLTTHS), vậy vì Tòa cũng
không có lí do để áp dụng quy định pháp luật về đồng phạm theo khoản 1 và khoản
2 Điều 20, Điều 53 BLHS nhằm giảm nhẹ TNHS cho bị cáo Nguyễn Văn Giới
trong vụ án.
Quyết định hình phạt là một giai đoạn chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp
dụng pháp luật hình sự, là giai đoạn mà Tòa án nhân danh Nhà nước và tuyên bố áp
dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà nước đối
với người phạm tội về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, đồng thời trừng trị họ.
Đây là một giai đoạn khó, đòi hỏi sự chính xác trong kết quả của các giai đoạn
TTHS trước đó và chuyên môn cao, phầm chất đạo đức tốt của người THTT. Qua
nghiên cứu 15 bản án điển hình trong giai đoạn từ 2010 – 2015, có 11 bản án quyết
định hình phạt tác giả đánh giá là tương xứng với hành vi phạm tội, chiếm 73% tổng
số lượng bản án, 3 bản án quyết định hình phạt chưa tương xứng với hành vi phạm
tội, chiếm 27% tổng số lượng bản án nghiên cứu. Đây cũng là kết quả đáng mừng
đối với một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, nơi mà số lượng thẩm phán còn ít và hạn
chế trong chuyên môn nghiệp vụ như Quảng Ninh.
2.2.2. Một số vấn đề vướng mắc trong việc quyết định hình phạt tội buôn lậu



×