Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.04 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ QUỲNH CHÂU

NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học xã hội, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Thế Liên
Phản biện 2: PGS.TS. Bùi Thị Huyền
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi: …. giờ …. phút, ngày … tháng …. năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại:
-



Thư viện Quốc gia Việt Nam;
Thư viện Học viện Khoa học xã hội.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm vừa qua, người đại diện của đương sự trong
tố tụng dân sự đã và đang dần khẳng định được vị thế, vai trò của
mình trong tố tụng, ngày càng chứng tỏ là một trong những thành
phần khó có thể thiếu trong tố tụng dân sự. Việc xác định đúng đắn
vai trò của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là một
việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các hoạt động của
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự có tác động
không chỉ đến hoạt động của những người tham gia tố tụng mà đến
cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần thúc đẩy
sự dân chủ, tiến bộ của xã hội, hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế
xã hội chủ nghĩa
Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng dân sự,
thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự. Việc tham gia tố tụng của người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự có ý nghĩa rất lớn đối với
việc giải quyết các vụ án dân sự, đặc biệt trong trường hợp đương
sự không tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) có 3 loại
người đại diện của đương sự: người đại diện theo pháp luật, người
đại diện theo ủy quyền của đương sự và người đại diện do Tòa án
chỉ định. Sự tham gia tố tụng dân sự của người đại diện của đương
sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự cũng như việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự.

Thực tiễn hoạt động tố tụng trong những năm gần đây cho thấy,
việc quy định “người đại diện” trong tố tụng là hết sức cần thiết,
nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng được diễn ra theo đúng trình
tự, thủ tục pháp luật quy định, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các bên đương sự. Tuy nhiên, thời gian qua, quy định của
1


pháp luật về “người đại diện” trong tố tụng còn chưa cụ thể, thiếu
tính thống nhất, làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng của nhiều cơ
quan tố tụng, khiến cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
không được đảm bảo.
Những quy định về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
được quy định lần đầu trong Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 về Thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự do Hội đồng Nhà nước ban hành
ngày 07/12/1989 và được tiếp tục quy định trong Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004. Gần đây nhất, chế định về đại diện của đương sự
được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trải qua nhiều năm
áp dụng, những quy định về đại diện của đương sự đã bộc lộ một
số điểm bất cập, nhiều quy định chưa rõ ràng, chưa phù hợp, có
những vấn đề cần thiết nhưng chưa được luật hóa. Bên cạnh đó,
những khó khăn từ thực tiễn áp dụng pháp luật cũng là một trở ngại
lớn khiến cho hoạt động tranh tụng chưa thực sự diễn ra hiệu quả.
Xuất phát từ vai trò của người đại diện của đương sự, thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự, việc tìm hiểu, nghiên cứu về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự đã trở thành một
nhu cầu cấp bách. Mặt khác, các quy định của pháp luật cũng như
các công trình nghiên cứu về người đại diện trong tố tụng dân sự
còn hạn chế, và cần thiết phải nghiên cứu một cách đầy đủ và hoàn

chỉnh về người đại diện của đương sự. Việc nghiên cứu, đánh giá
một cách toàn diện các quy định của pháp luật liên quan đến đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự, đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành về vấn đề
nêu trên, nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng tại Tòa án, bảo
vệ tốt hơn quyền và lợi ích cho các bên tranh chấp là rất cần thiết.

2


Chính vì thế, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” làm luận án
tiến sĩ luật học của mình với mong muốn giải quyết phần nào
những vấn đề nêu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm góp phần bổ sung,
hoàn thiện thêm hệ thống lý luận khoa học pháp lý về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự; đánh giá quy định của
pháp luật pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp luật; trên
cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh về người đại diện của đương sự - một
phần không thể thiếu trong tố tụng dân sự.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án được xác định cụ thể như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
đề tài luận án nhằm làm rõ các vấn đề, nội dung sẽ được kế thừa và
các nội dung cần tiếp tục phải nghiên cứu và giải quyết trong nội

dung luận án; làm rõ cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài luận án;
- Nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam và
thực tiễn thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự; chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong thực
trạng pháp luật và trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự có
người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự;
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đề
xuất định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

3


cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về người đại diện
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự: khái niệm, phân loại, căn cứ
xác lập quan hệ đại diện, điều kiện để trở thành người đại diện,
thời hạn đại diện, phạm vi đại diện, nội dung quan hệ đại diện, căn
cứ chấm dứt quan hệ đại diện và hậu quả pháp lý của việc chấm
dứt quan hệ đại diện.
- Nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật
hiện hành về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự tại

các Tòa án trong những năm qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn
đề lý luận và thực tiễn pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự theo
đúng yêu cầu của nội hàm đề tài.
Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống
pháp luật Việt Nam về người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự, cũng như thực tiễn thực thi pháp luật về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự tại các Tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Việc khảo cứu kinh nghiệm pháp luật các nước về chế định đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự qua tài liệu thứ cấp chỉ là
làm rõ hơn mô hình lý luận pháp luật về vấn đề này.

4


Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, phần nghiên cứu về thực
tiễn thực thi pháp luật có liên hệ với các vụ việc đã diễn ra ở các
thời điểm trước đó.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận
án
Luận án được nghiên cứu theo phương pháp luận của Triết học
Mác-Lênin, trực tiếp sử dụng phương pháp kết hợp lý luận và thực
tiễn, phân tích tổng hợp, lịch sử cụ thể và các phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành như: phương pháp phân tích quy phạm, phương
pháp khảo sát thực tiễn, thống kê so sánh, phân tích tổng hợp,
nghiên cứu điển hình…

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; các nội dung cơ
bản của pháp luật về người đại diện; phân tích thực trạng pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân
sự; từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về người đại diện trong tố
tụng dân sự.
Về kết quả nghiên cứu lý luận, luận án đã luận giải những vấn
đề lý luận liên quan đến người đại diện trong tố tụng dân sự; phân
tích và đưa ra định nghĩa về người đại diện; làm rõ mục đích cơ
bản của đại diện. Phương diện lý luận của đại diện trong tố tụng
dân sự được luận án phân tích, luận giải ở các khía cạnh như nội
dung của quan hệ đại diện, căn cứ xác lập đại diện, hậu quả pháp lý
của việc xác lập và chấm dứt đại diện, thời hạn đại diện, phạm vi
đại diện. Luận án cũng đã nêu lên quy định về đại diện trong pháp

5


luật một số quốc gia, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam.
Luận án đã phân tích và đánh giá một cách khách quan thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện
trong tố tụng dân sự tại Việt Nam; làm rõ những bất cập, chồng
chéo và những hạn chế của các quy định pháp luật về người đại
diện trong việc bảo vệ lợi ích của các bên đương sự trong tố tụng
dân sự, Những nội dung chủ yếu của các quy định pháp luật Việt
Nam về quyền và nghĩa vụ của người đại diện, căn cứ cũng như
hậu quả pháp lý của việc xác lập và chấm dứt quan hệ đại diện đã

được luận án hệ thống hóa, phân tích và giải thích, làm rõ.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn đã được làm sáng
tỏ, luận án đã đưa ra những đề xuất, giải pháp pháp lý đồng bộ,
khoa học để khắc phục những hạn chế và hoàn thiện chế định
người đại diện trong tố tụng dân sự của Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những kết luận, đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra đều có
cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì vậy, chúng có giá trị tham khảo
trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự. Đồng
thời, những kết quả nghiên cứu của luận án cũng có giá trị tham
khảo trong học tập, nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự tại các cơ sở đào tạo
chuyên hoặc không chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận án gồm bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự.

6


Chương 3: Thực trạng pháp luật về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện.
Chương 4: Quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.

7



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nhóm nghiên cứu những vấn đề chung về lý luận và thực
tiễn pháp luật về chế định đại diện
1.1.2. Nhóm nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của người đại diện trong tố tụng dân sự
1.1.3. Nhóm các nghiên cứu về thực trạng pháp luật và và thực
tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự
1.1.4. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự của các công trình nghiên cứu đã
công bố
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Những vấn đề liên quan đến luận án đã được giải quyết
Các kết quả nghiên cứu được công bố về vấn đề người đại
diện của đương sự đã chỉ ra khá rõ khái niệm, căn cứ xác lập,
quyền và nghĩa vụ, căn cứ chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lý
của việc chấm dứt đại diện. Các bài nghiên cứu đã chỉ ra được
những điểm khác biệt giữa nội dung đại diện trong pháp luật tại
Việt Nam và pháp luật của các nước khác trên thế giới. Các công
trình trên đã phân tích, đánh giá hiện trạng quy định pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định
trong pháp luật Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để nâng cao
vai trò của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Một
số bài viết đăng tải trên các tạp chí còn đề cập đến kinh nghiệm của
một số nước để tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật
Việt Nam.


8


1.2.2. Những vấn đề luận án sẽ kế thừa và tiếp tục nghiên cứu
phát triển
Tác giả nhìn nhận được những kết quả mà các nghiên cứu liên
quan đến đề tài đã đạt được, dựa vào đây, luận án sẽ tiếp tục
nghiên cứu nhằm kế thừa và phát triển nội dung về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự.
1.2.3. Những vấn đề mà luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên còn bỏ ngỏ một số
vấn đề và Luận án này sẽ thực hiện việc nghiên cứu đầy đủ hơn về
các vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luận án làm sáng tỏ hơn nữa khái niệm liên quan
đến người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, đặc điểm
của quan hệ đại diện, phân loại người đại diện của đương sự trong
tố tụng dân sự, phân biệt người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự và một số ngành luật khác.
Thứ hai, Luận án nghiên cứu về vấn đề điều chỉnh pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự và đưa ra những
đánh giá tổng quát về người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự qua các thời kỳ pháp luật.
Thứ ba, Luận án phân tích, đánh giá các quy phạm pháp luật
về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam,
chỉ ra những điểm chưa hợp lý, mâu thuẫn hoặc chồng chéo trong
pháp luật Việt Nam, có sự so sánh với pháp luật một số nước trên
thế giới.
Thứ tư, Luận án đề xuất thêm giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố

tụng dân sự.
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
1.3.1. Các lý thuyết nghiên cứu

9


* Lý thuyết về người đại diện: Jensen và Meckling (1976)
trong tác phẩm “Lý thuyết về công ty: Hành vi nhà quản trị, chi phí
người đại diện và cấu trúc sở hữu” đã giới thiệu các quan điểm
của mình về lý thuyết người đại diện. Lý thuyết này cũng có thể áp
dụng cho việc nghiên cứu về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự. Bởi lẽ, trong tố tụng dân sự, để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình các đương sự thường tự mình thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp người khác có thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự. Người tham gia tố tụng dân sự này được gọi là
người đại diện của đương sự.
* Lý thuyết về bảo đảm quyền con người trong hoạt động
tố tụng: Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra
các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ
chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện
được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật
ghi nhận
* Lý thuyết về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng dân sự: Trong tố tụng dân sự, nguyên tắc tranh tụng được bảo
đảm cho đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh
tụng từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong vụ

án trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi thứ nhất: Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người
đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự được hiểu như thế nào?
Mô hình lý luận và nội dung pháp luật về người đại diện cho đương sự
trong tố tụng dân sự được quy định và luận giải như thế nào?

10


Giả thuyết nghiên cứu: cần thiết phải nghiên cứu để làm rõ
khái niệm một cách thống nhất về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự. Từ khái niệm người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự phải nêu lên được đặc điểm của người đại
diện, phân loại người đại diện, phân tích được vai trò của người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
Câu hỏi thứ hai: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay
quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự như
thế nào? Qua thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về vấn đề
này có những hạn chế, vướng mắc gì?
Giả thuyết nghiên cứu: . Qua thực tiễn xét xử cho thấy, các
quy định pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự còn bộc lộ một số điểm bất cập, những khó khăn từ thực
tiễn áp dụng pháp luật cũng là một trở ngại khiến cho hoạt động tố
tụng chưa thực sự diễn ra hiệu quả.
Câu hỏi thứ ba: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật, cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam được
xác định như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu: Để hoàn thiện các quy định pháp

luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự cần xem xét dựa trên
những quan điểm chủ đạo và cần đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đời
sống xã hội hiện hành, từ đó đưa ra những mục tiêu cần hướng tới
và các giải pháp phù hợp nhằm thực hiện điều chỉnh pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự trong thời gian
tới.
1.3.4. Hướng tiếp cận nghiên cứu
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là một
chủ thể tham gia tố tụng dân sự. Tuy nhiên, với một công trình
11


nghiên cứu về luật học, việc nghiên cứu để làm rõ nội hàm, ý
nghĩa, vai trò của chủ thể này chỉ là những tiền đề để nghiên cứu
và hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự.
Kết luận chương 1.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ
NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ
2.1. Khái quát lý luận về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự
2.1.1. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự và quan niệm về đại
diện
2.1.1.1. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự
Đương sự trong TTDS là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác
có lợi ích tranh chấp hoặc cần phải xác định tham gia vào quá trình
Toà án giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình.
2.1.1.2. Quan niệm về đại diện
Đại diện là việc một người, một cơ quan, tổ chức xác lập, thực hiện
hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại diện
là người nhân danh và vì các lợi ích của một người khác xác lập,
thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện
2.1.2. Khái niệm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người
thay mặt cho đương sự tham gia tố tụng dân sự, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
đương sự trong tố tụng dân sự.
12


2.1.3. Đặc điểm của người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự
- Người đại diện là tổ chức hoặc cá nhân có đủ năng lực pháp
luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
- Người đại diện tham gia quan hệ tố tụng trên cơ sở quan hệ
đại diện và nhân danh đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự.
- Quyền và nghĩa vụ của người đại diện phụ thuộc vào quyền
và nghĩa vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện.
2.1.4. Phân loại người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự
Dựa vào ý chí của chủ thể, người đại diện được chia thành hai
loại:
- Người đại diện theo ủy quyền;
- Người đại diện theo pháp luật.

2.1.5. Vai trò của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự
Thứ nhất, người đại diện thay mặt đương sự thực hiện những
quyền, nghĩa vụ tố tụng mà đáng ra họ phải tự mình thực hiện, qua
đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ hai, người đại diện giúp cơ quan tiến hành tố tụng kết nối
được với đương sự một cách thuận lợi, hiệu quả và có tác dụng
nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự
2.2. Khái quát lý luận pháp luật về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, việc xây dựng các quy định pháp luật về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ
sở nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương sự
13


Thứ hai, việc xây dựng các quy định pháp luật về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ
sở đảm bảo quyền tham gia tranh tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền
và lợi ích của đương sự
Thứ ba, việc xây dựng các quy định pháp luật về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ sở
đảm bảo mối liên hệ giữa Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự
trong việc quy định về người đại diện
Thứ tư, việc xây dựng các quy định pháp luật về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự xuất phát từ đòi hỏi của thực
tiễn tố tụng tại Tòa án
2.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về người đại diện

của đương sự trong tố tụng dân sự
Một là, quy định về điều kiện trở thành người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự
Hai là, quy định căn cứ xác lập đại diện. Xác lập đại diện theo ủy
quyền là trường hợp đương sự và người đại diện của đương sự
giao kết giao dịch ủy quyền; Xác lập đại diện theo pháp luật là
trường hợp bắt buộc phải có người đại diện của đương sự tham
gia tố tụng, đã được pháp luật quy định cụ thể ai là người đại diện.
Ba là, quy định về thời hạn đại diện và phạm vi đại diện
Bốn là, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho
đương sự trong tố tụng dân sự
Năm là, quy định chấm dứt đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự
Kết luận chương 2.

14


Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Điều kiện trở thành người đại diện của đương sự
Thứ nhất, nhận diện người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự
Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định: “Người đại diện trong tố
tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại
diện theo ủy quyền” và dẫn chiếu đến quy định của BLDS: “Người

đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của
BLDS”; “Người đại diện theo pháp luật theo quy định của BLDS
là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường
hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật” và
“Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là người
đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự”.
Thứ hai, năng lực chủ thể của người đại diện cho đương sự
BLTTDS năm 2015 không quy định rõ điều kiện về năng
lực chủ thể của người đại diện mà dẫn chiếu sang BLDS năm 2015.
Khoản 3 Điều 134 BLDS năm 2015 quy định như sau: “Trường
hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập, thực hiện”. Đối với trường hợp người đại diện là
pháp nhân thì phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng
lực hành vi tố tụng dân sự.
Thứ ba, những trường hợp không được làm người đại diện
3.1.2. Căn cứ xác lập đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự

15


Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của đương sự là cá nhân:
- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) là
đương sự trong vụ việc dân sự. Cha, mẹ làm người đại diện cho
đương sự là con chưa thành niên của mình tham gia tố tụng trên
theo quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS năm 2015 và Điều 69
BLTTDS năm 2015
- Người giám hộ là người đại diện theo pháp luật đối với người
được giám hộ, trong đó người được giám hộ là người chưa thành
niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; người

chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành
vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
- Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
- Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự.
- Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được
người đại diện là cha, mẹ đối với con chưa thành niên,
Thứ hai, người đại diện theo pháp luật của đương sự là pháp nhân
Đối với pháp nhân phi thương mại, người có thẩm quyền đại diện
theo quy định của pháp luật. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định bổ nhiệm người đứng đầu pháp nhân là người người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân.
Thứ ba, người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng
dân sự
Thứ tư, chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự
3.1.3. Thời hạn đại diện và phạm vi đại diện trong tố tụng dân sự
Một là, về thời hạn đại diện: BLTTDS năm 2015 không có quy
định về thời hạn đại diện, vì vậy, theo nguyên tắc chung, thời hạn
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được thực hiện theo
16


quy định của BLDS. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu rằng, người đại
diện theo pháp luật của đương sự phải thực hiện tất cả các quyền
và nghĩa vụ tố tụng của đương sự cho đến khi thời hạn giải quyết
các vụ, việc dân sự kết thúc.
Hai là, về phạm vi đại diện: Phạm vi đại diện của người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự được xác định theo quy định dẫn

chiếu từ Điều 85 BLTTDS năm 2015 sang Điều 141 BLDS năm
2015.
3.1.4. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện
Một là, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong
tố tụng dân sự. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm
vi mà mình đại diện (Điều 86 BLTTDS năm 2015).
Hai là, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền trong
tố tụng dân sự: Trong trường hợp này, người đại diện của đương
sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự là người có
năng lực hành vi tố tụng dân sự. Bản thân đương sự cũng có thể tự
thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Do vậy, người
đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Khoản 2
Điều 86 BLTTDS năm 2015 quy định: “Người đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân
sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
3.1.5. Chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự
Một là, quy định về chấm dứt đại diện: BLTTDS năm 2015 không
quy định cụ thể về chấm dứt tư cách người đại diện của đương sự
mà dẫn chiếu sang quy định của BLDS: “Người đại diện theo pháp
luật, người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt
việc đại diện theo quy định của Bộ luật Dân sự”. Theo quy định
của khoản 3 và khoản 4 Điều 140 BLDS năm 2015, việc chấm dứt
17


đại diện được xem xét trong hai trường hợp, tương ứng với hai
hình thức đại diện là chấm dứt đại diện theo pháp luật và chấm dứt
đại diện theo ủy quyền.

Hai là, về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện: Trong
trường hợp chấm dứt đại diện theo ủy quyền thì đương sự hoặc
người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy
quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng theo thủ tục do
BLTTDS quy định.
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự
3.2.1. Việc thực hiện quy định về điều kiện trở thành người đại
diện
Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về điều kiện trở
thành người đại diện có hạn chế về việc ủy quyền trong vụ án ly
hôn như sau: Khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định đối
với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác
thay mặt mình tham gia tố tụng.
3.2.2. Việc thực hiện quy định về căn cứ xác lập đại diện
BLTTDS năm 2015 quy định rõ ràng hai căn cứ xác lập đại
Một là, việc xác định người đại diện trong trường hợp có chi
nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp tham gia tố tụng
Hai là, xác định người đại diện trong trường hợp có chủ doanh
nghiệp tư nhân tham gia tố tụng
Ba là, xác định người đại diện trong trường hợp có trưởng chi,
trưởng họ tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp về tài sản của
dòng họ
Bốn là, xác định người đại diện trong trường hợp có hộ gia đình
tham gia tố tụng
Năm là, vấn đề ủy quyền cho nhiều người gây khó khăn cho Tòa
án trong việc giải quyết vụ án
18



3.2.3. Việc thực hiện quy định về thời hạn đại diện và phạm vi
đại diện
Một là, về thời hạn đại diện
Hai là, sự không rõ ràng về nội dung, phạm vi ủy quyền gây lúng
túng cho Tòa án trong việc giải quyết các vụ án
Ba là, trường hợp người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền và xử
lý hậu quả của việc vượt quá phạm vi ủy quyền
3.2.4. Việc thực hiện quy định về quyền và nghĩa vụ của người
đại diện
3.2.5. Việc thực hiện quy định về chấm dứt đại diện
3.2.6. Một vài nhận xét, đánh giá về hạn chế, bất cập và nguyên
nhân
Kết luận chương 3
Chương 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự phải nhằm mục tiêu bảo đảm quyền con
người, quyền công dân trong tố tụng dân sự
Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm quyền được tiếp cận
công lý và quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân. Theo một cách nhìn nhận mới trong xã hội có pháp luật,
quyền được tiếp cận công lý là quyền được tiếp cận với các thiết
chế tư pháp để công dân có thể bảo vệ quyền lợi của mình, mà nền
tảng của nó là khuôn khổ các quyền, nghĩa vụ của công dân và
19



khuôn khổ các thiết chế cho phép tất cả mọi người có thể vận dụng
hoặc được trợ giúp để có thể có được sự bù đắp, khắc phục những
bất công, thiệt hại mà mình phải gánh chịu
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự phải nhằm mục tiêu đảm bảo và tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự
Trong tố tụng dân sự, nguyên tắc quyền tự định đoạt thể hiện
ở khả năng tham gia tố tụng, tự do định đoạt quyền dân sự của
mình và các quyền về phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm hại. Đương sự có quyền quyết định việc khởi
kiện, nội dung yêu cầu khởi kiện. Trong quá trình Toà án giải
quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi
yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội, quyền được tham gia hoà
giải, thương lượng, quyền được cung cấp chứng cứ, quyền tranh
luận, quyền kháng cáo v.v…
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự phải hướng tới mục tiêu đảm bảo quyền
tranh tụng tại Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương
sự
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được quy định ở
Điều 24 BLTTDS năm 2015. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa của
khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 - “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm”. Bởi vậy, hoàn thiện pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự phải thể chế hóa
chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, xác định yêu
cầu đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố

tụng; đẩy mạnh và coi việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa là khâu đột phá của hoạt động xét xử; tạo điều kiện cho
20


các đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự được tiến hành trên cơ sở đảm bảo mối liên
hệ giữa Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự trong các quy
định về người đại diện
Yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự phải bảo đảm vai trò là tạo cơ
chế pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy sự ổn định pháp lý; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích của các chủ thể tham
gia tố tụng dân sự. Pháp luật về người đại diện của đương sự phải
đáp ứng các yêu cầu về tính ổn định, tính hệ thống, tính minh bạch,
tính hợp lý, tính khả thi
4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự phải đảm bảo yếu tố kế thừa và phúc đáp đòi hỏi của
thực tiễn tố tụng
Việc hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự cũng phải đảm bảo được tính kế thừa và phát
triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật tố tụng
dân sự cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống đạo
đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng
pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự của
các nước tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là các nước có điều kiện
kinh tế, xã hội tương đồng với Việt Nam.
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện của

đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự
Một là, sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện trở thành
người đại diện
21


Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức của đại diện
theo ủy quyền
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về phạm vi đại diện theo ủy
quyền
Bốn là, sửa đổi, bổ sung quy định về ủy quyền lại
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định về chấm dứt đại diện theo
ủy quyền
Sáu là, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về người đại diện của đương sự
4.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thực hiện
tố tụng dân sự của cán bộ tòa án
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
để nâng cao nhận thức của người dân về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự

22


KẾT LUẬN
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội,

số lượng các vụ án tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng về số
lượng và tính phức tạp. Cùng với đó, sự tham gia của người đại
diện cho đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự cũng
ngày càng nhiều. Bởi vậy, việc nghiên cứu vấn đề người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận
và thực tiễn. Sau quá trình nghiên cứu toàn diện về đề tài này, cho
phép tác giả rút ra một số kết luận sau đây:
1. Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người
thay mặt cho đương sự tham gia tố tụng dân sự, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
đương sự trong tố tụng dân sự: Người đại diện của đương sự được
chia thành hai loại là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy
quyền tương ứng với hai căn cứ xác lập quan hệ đại diện. Việc đại
diện cho đương sự của người đại diện trong tố tụng dân sự có thể
bị chấm dứt trên cơ sở ý chí, hành vi và thỏa thuận của các bên
hoặc theo các trường hợp mà pháp luật đã quy định. Khi quan hệ
đại diện chấm dứt, người đại diện sẽ mất tư cách tham gia tố tụng,
đương sự có thể tự mình tham gia tố tụng, tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình hoặc tiếp tục nhờ người khác đại
diện cho mình tham gia tố tụng.
2. Thực tiễn ở Việt Nam trong những năm qua, bên cạnh
những kết quả đạt được, thực trạng pháp luật và việc thực thi pháp
luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự vẫn còn
những hạn chế, vướng mắc. Về các quy định của pháp luật, điểm
vướng mắc lớn nhất cần được giải quyết vẫn là sự chưa rõ ràng,
các quy định mang tính chung chung, không đưa ra những trình tự,
thủ tục có liên quan. Ngoài ra, thực tiễn xảy ra nhiều hạn chế
không phải do quy định của pháp luật mà do nguyên nhân từ phía
23



×