Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.62 KB, 12 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong tố tụng dân sự, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình các đương sự
thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy vậy, trong một số trường
hợp người đại diện của họ có thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. Việc tìm hiểu những quy định của pháp luật
tố tụng về chế định người đại diện của đương sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy định
đó là một vấn đề cần được nghiên cứu một cách khoa học.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ

1. Khái niệm và đặc điểm của người đại diện của đương sự
1.1.

Khái niệm người đại diện của đương sự

Khoản 1, điều 139, BLDS 2005 quy định: “Đại diện là việc một người (sau đây gọi là
người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện”. Có thể thấy
rằng, người đại diện luôn nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự trong phạm đại diện. Do đó, có thể hiểu, “người đại diện của đương sự là
người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước tòa” 2.
1.2.

Đặc điểm người đại diện của đương sự

Thứ nhất, người đại diện cho đương sự trong TTDS có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức
theo quy định của pháp luật. Thông thường người đại diện của đương sự phải là cá nhân bởi


cá nhân mới tự mình chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong tố
tụng được. Tuy nhiên để đảm bảo hơn nữa quyền lợi cho đương sự trong việc tham gia vào
các quan hệ pháp luật thì pháp luật quy định người đại diện của đương sự còn có thể là cơ
quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ hai, người đại diện của đương sự phải là người có năng lực hành vi TTDS. Năng
lực hành vi TTDS có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực hành vi dân sự. Một chủ thể được
xác định là có năng lực hành vi TTDS nếu chủ thể đó có năng lực hành vi dân sự. Theo quy
định của pháp luật hiện hành thì người có năng lực hành vi TTDS đầy đủ là người từ đủ 18
tuổi trở lên. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền (khoản 3 điều 142 BLDS).
1


Thứ ba, người đại diện của đương sự là người nhân danh, thay mặt đương sự thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự.
2. Ý nghĩa của người đại diện của đương sự.

Người đại diện của đương sự tham gia TTDS có ý nghĩa rất lớn. Một mặt, việc tham
gia tố tụng của họ có tác dụng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
nhất là trong trường hợp đương sự là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi TTDS.
Mặt khác, việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật
về vụ việc dân sự. Pháp luật quy định về người đại diện của đương sự trong TTDS thể hiện
được sự dân chủ, tiến bộ, giúp bảo vệ tốt nhất quyền lợi của đương sự khi tham gia vào
quan hệ pháp luật TTDS.
3. Phân loại người đại diện của đương sự.

Theo pháp luật tố tụng dân sự, người đại diện của đương sự được phân loại: người đại
theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định và người đại diện theo ủy quyền.
3.1.


Người đại diện theo pháp luật.

Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự theo quy định của pháp luật.Những người đại diện theo pháp luật
của đương sự bao gồm: cha, mẹ của con chưa thành niên; người giám hộ của người được
giám hộ; người đứng đầu cơ quan, tổ chức; chủ hộ gia đình và cá nhân, tổ chức khởi kiện
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Người đại diện theo pháp luật của đương
sự đương nhiên được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khi
xét thấy cần thiết. Khi tham gia tố tụng họ chỉ phải xuất trình những tài liệu để chứng minh
mình là cha, mẹ, người giám hộ của đương sự hay là người đứng đầu pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác…. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật của đương
sự không bị hạn chế trong các loại việc.
3.2.

Người đại diện do Tòa án chỉ định.

Người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự chỉ định của Tòa án. Tòa án chỉ tiến hành chỉ định
người đại diện cho đương sự trong trường hợp đương sự là người bị hạn chế NLHVDS mà
không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các
trường hợp không được đại diện quy định tại khoản 1 điều 75 BLTTDS. Người đại diện do
Tòa án chỉ định tham gia tố tụng từ khi có quyết định của Tòa án chỉ định họ đại diện cho
2


đương sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện do Tòa án chỉ định không bị hạn chế
trong các loại việc.
Người đại diện theo ủy quyền.

3.3.


Người đại diện theo ủy quyền là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự. Trong trường hợp người đại diện
theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình không trực tiếp tham gia tố tụng mà ủy
quyền cho luật sư hoặc người khác tham gia tố tụng thì người được ủy quyền cũng là người
đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền chỉ thay mặt đương sự tham gia tố
tụng TTDS khi được đương sự ủy quyền và chỉ được tham gia trong phạm vi được ủy
quyền. Tuy nhiên, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc dân sự, sau khi ủy
quyền cho người đại diện, đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt
động của người đại diện. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập đương sự cùng
tham gia tố tụng với người đại diện của họ.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA
ĐƯƠNG SỰ
1.Căn cứ phát sinh đại diện và những trường hợp không được làm đại diện của
đương sự
1.1. Căn cứ phát sinh đại diện của đương sự
- Trường hợp đại diện theo pháp luật: Trong đại diện theo pháp luật, người đại diện tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự bởi đương sự là người không có
NLHVDS, chưa đủ NLHVDS hoặc bị hạn chế NLHVDS, thường không thể tự bảo vệ được
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước tòa. Ngoài ra, các chủ thể khác như pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định
mà pháp luật quy định họ có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó như người đứng đầu pháp
nhân, chủ hộ gia đình… và những người này được gọi là người đại diện theo pháp luật. Do
đó, căn cứ phát sinh quan hệ đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự là do quy định của
pháp luật.
- Trường hợp đại diện theo ủy quyền: Trong đại diện theo ủy quyền, đương sự có đầy đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự để có thể bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của họ
khi tham gia tố tụng nhưng vì một nguyên nhân nào đó mà họ không tham gia tố tụng
được, họ có thể thỏa thuận ủy quyền nhờ người khác đại diện cho mình thông qua một văn
3



bản ủy quyền (Hợp đồng ủy quyền hay Giấy ủy quyền) trong đó xác định phạm vi, thời hạn,
việc mà đương sự ủy quyền cho người đại diện của họ. Văn bản ủy quyền này là căn cứ
pháp lí để xác định phạm vi ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của người đại diện khi tham gia tố
tụng. Như vậy, căn cứ làm phát sinh quan hệ đại diện theo ủy quyền của đương sự là văn
bản ủy quyền.
- Trường hợp đại diện do Tòa án chỉ định: Trong trường hợp pháp luật không quy định
hoặc có quy định nhưng người đại diện theo pháp luật lại rơi vào trường hợp không được
đại diện thì Tòa án có thể chỉ định một người đại diện theo pháp luật cho đương sự. Đương
sự trong trường hợp này là người bị hạn chế NLHVTTDS mà không có người đại diện hoặc
đã có đại diện nhưng đại diện của họ lại thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi
người đại diện theo khoản 1 điều 75 BLTTDS. Như vậy, căn cứ làm phát sinh quan hệ đại
diện do Tòa án chỉ định là quyết định của Tòa án.
1.2. Những trường hợp không được làm đại diện của đương sự
Những trường hợp không được làm đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được
quy định tại các điều 73, 75 và 76 BLTTDS.
-Đối với người đại diện theo pháp luật: Để bảo đảm việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự thì đối với người không có NLHVTTDS, người là đương sự trong cùng một
vụ án đối với người được đại diện mà quyền, lợi ích của họ đối lập với quyền, lợi ích của
người được đại diện; đang là người đại diện theo pháp luật cho một đương sự khác trong
cùng một vụ án mà quyền, lợi ích của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích của người
được đại diện thì sẽ không được đại diện cho đương sự.
- Đối với người đại diện theo ủy quyền: Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện tham
gia tố tụng trong các loại việc nhưng trong việc ly hôn thì đương sự không được ủy quyền
cho người khác tham gia tố tụng, vì nó gắn liền với nhân thân của đương sự. Hơn nữa, để
đảm bảo giải quyết vụ việc khách quan, pháp luật quy định đương sự không được ủy quyền
cho những người thuộc những trường hợp sau: những người thuộc diện không được làm
người đại diện theo pháp luật của đương sự; những người là cán bộ, công chức trong ngành
Tòa án, Kiểm sát, Công an.

- Đối với người đại diện do Tòa án chỉ định: Đối với những người thuộc diện không được
làm người đại diện theo pháp luật của đương sự thì Tòa án không được chỉ định làm người
đại diện cho đương sự.
4


2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện.
Tùy vào tính chất tham gia tố tụng trong từng trường hợp cụ thể mà người đại diện
của đương sự có các quyền và nghĩa vụ nhất định.
-

Trường hợp đại diện theo pháp luật và đại diện do Tòa án chỉ định.

Theo quy định tại điều 74 BLTTDS thì người đại diện theo pháp luật và người đại diện do
Tòa án chỉ định được thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ
đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự: cung cấp chứng cứ, chứng minh
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
giữ, quản lí chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; đề nghị Tòa
án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề
nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại với Viện
kiểm sát về những chứng cứ mà Tòa án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu;
được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu
thập; đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án, tham gia phiên hòa giải do Tòa tiến hành; nhận thông báo hợp lệ để thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của mình; tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình; tham gia phiên tòa; yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng theo quy địn của BLTTDS; đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người
khác, được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng; tranh luận tại phiên tòa; được cấp trích
lục bản án, quyết định của Tòa án; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo quy định
của BLTTDS; phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật; phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của
Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án; tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy
phiên tòa; nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật; chấp hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; các quyền, nghĩa vị
khác mà pháp luật quy định. Các quyền, nghĩa vụ chung trên của đương sự cũng chính là
các quyền, nghĩa vụ chung của người đại diện theo pháp luật hoặc do Tòa án chỉ định.
Ngoài ra, đối với người đại diện theo pháp luật cũng như đại diện do Tòa án chỉ định của
nguyên đơn còn có quyền thay mặt cho đương sự được đại diện khởi kiện vụ việc dân sự
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như có quyền thay đổi yêu cầu
5


khởi kiện, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện mà mình đã thực hiện; có quyền đề
nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; có quyền đề nghị
Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án nếu có căn cứ thuộc các trường hợp quy định tại điều
189 BLTTDS. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định của bị đơn
còn có quyền có quyền nhận thông báo của Tòa án về việc bị khởi kiện; thay mặt bị đơn
chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, bác bỏ toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn; có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu thuộc các trường hợp
được quy định tại điều 176 BLTTDS. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện doa
Tòa án chỉ định của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn có quyền yêu cầu độc lập
khi không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc bị đơn; nếu tham gia tố tụng với bên
nguyên đơn thì có quyền, nghĩa vụ tố tụng như người đại diện theo pháp luật của nguyên
đơn; nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn thì có quyền, nghĩa vụ tố tụng như người đại diện
theo pháp luật của bị đơn.
-

Trường hợp đại diện theo ủy quyền.
Đối với người đại diện theo ủy quyền của đương sự thì chỉ thực hiện các quyền và


nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Điều này xuất phát từ quyền tự đinh
đoạt của đương sự, đương sự là người có NLHVTTDS, bản thân đương sự cũng có thể thực
hiện được quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nhưng vì một lí do nào đó mà đương sự ủy
quyền cho người đại diện thực hiện một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của mình.
3. Căn cứ chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lí của việc chấm dứt đại diện

3.1. Căn cứ chấm dứt đại diện
- Đại diện theo pháp luật của đương sự:
+ Đại diện theo pháp luật của đương sự là pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt. Đó
là các trường hợp: hợp nhất, sáp nhập, chia, giải thể pháp nhân và pháp nhân bị tuyên bố
phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
+ Đại diện theo pháp luật của đương sự là cá nhân chấm dứt khi: Người được đại diện là cá
nhân đã thành niên hoặc đã được khôi phục NLHVDS; người đại diện hoặc người được đại
diện chết; người đại diện mất năng lực hành vi DS hoặc bị hạn chế NLHVDS và các trường
hợp khác do pháp luật quy định.
- Đại diện theo ủy quyền của đương sự:
6


+ Đại diện theo ủy quyền của đương sự là cá nhân chấm dứt trong những trường hợp: thời
hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành; người ủy quyền hủy bỏ
việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối thực hiện việc ủy quyền; người ủy quyền
hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất NLHVDS, bị hạn chế
NLHVDS,mất tích hoặc là đã chết.
+ Đại diện theo ủy quyền của đương sự là pháp nhân chấm dứt khi thời hạn ủy quyền đã hết
hoặc công việc ủy quyền đã hoàn thành; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy
bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền; pháp nhân chấm dứt
hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất NLHVDS, mất tích hoặc đã chết.

Hậu quả pháp lí của việc chấm dứt đại diện
Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên
hoặc đã khôi phục NLHVDS thì người đó có quyền tự mình tham gia tố tụng hoặc ủy quyền
cho người khác tham gia tố tụng.
Trường hợp chấm dứt đại diện theo ủy quyền thì đương sự hoặc người thừa kế của đương
sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.

Những điểm tích cực.

Trong những năm gần đây, tỉ lệ vụ kiện dân sự có người đại diện của đương sự đã tăng
đáng kể. Các đương sự ngày càng ý thức được sự cần thiết và vai trò to lớn của người người
đại diện trong giải quyết vụ việc dân sự. Thêm vào đó, về phía bản thân người đại diện của
đương sự cũng đã xác định đúng vị trí, vai trò của mình trong tố tụng dân sự, khiến họ tự
tin và chủ động hơn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm bảo vệ quyền
lợi cho đương sự. Trên thực tế, người đại diện của đương sự trong TTDS đã thực hiện được
khá tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ từ quyền khởi kiện, phản đối yêu cầu của
đương sự khác, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thay đổi người tiến hành tố tụng, quyền
tham gia phiên hòa giải, tham gia phiên tòa… đến quyền kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án.Về phía Tòa án, họ cũng đã cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện của
đương sự thực hiện tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong quá trình
7


tố tụng, tiếng nói của người đại diện của đương sự đã được Tòa án lắng nghe và tôn trọng,

tạo ra sự phối hợp hiệu quả giữa Tòa án với người đại diện của đương sự trong việc xác
định sự thật khách quan.
I.2 . Một số điểm hạn chế, bất cập.

Thứ nhất, về việc chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự: Theo quy định của pháp
luật tại điều 76 BLTTDS thì khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự mà thấy
đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc
người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1
điều 75 Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án.
Như vậy, nhận thấy pháp luật đã bỏ lửng quyền và lợi ích hợp pháp đối với những người bị
mất năng lực hành vi dân sự, những người vắng mặt không có tin tức mà họ không có người
đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ không thuộc một trong các trường hợp
quy định tại khoản 1 điều 75 BLTTDS. Vấn đề đặt ra là trong các trường hợp này thì Tòa
án có được chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án không? Đó là một quy
định mà BLTTDS hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu cũng như
cách áp dụng khác nhau.
Thứ hai ,trong trường hợp người vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần thì bố, mẹ có quyền
đại diện cho họ khởi kiện xin ly hôn và tham gia tố tụng hay không?
Đây là vấn đề hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng áp dụng
Điều 64 BLDS 2005 để cử bố, mẹ của người vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự là
người giám hộ, và khi đó bố mẹ đại diện cho con mình thực hiện việc khởi kiện xin ly
hôn...Cũng có ý kiến cho rằng áp dụng điều 75 và điều 76 BLTTDS để thực hiện việc chỉ
định bố hoặc mẹ người đang có vợ, có chồng mất năng lực hành vi dân sự là người đại diện.
Tuy nhiên giải thích theo hướng này cũng có nhiều vướng mắc. Nhận thấy quy định ở Điều
75 là để áp dụng cho trường hợp đã có vụ án, còn trong trường hợp chưa có vụ án (chưa có
đơn khởi kiện) và chưa có cơ quan có thẩm quyền nào kết luận bên vợ hoặc chồng không
đủ điều kiện là người giám hộ thì theo quy định tại Điều 62 BLDS 2005 họ vẫn đang là
người giám hộ, người đại diện hợp pháp cho bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân
sự. Do đó, bố, mẹ của người vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự không thể là người
đại diện theo pháp luật cho người mất năng lực hành vi dân sự để khởi kiện xin ly hôn.

8


Thứ ba, về việc chấm dứt đại diện của đương sự: Tại điều 78 BLTDS có quy định
một trong những căn cứ để chấm dứt đại diện của cá nhân đó là người đại diện đã thành
niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự. Khi này, họ phải tự mình hoặc ủy quyền
tham gia tố tụng dân sự cho người khác. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử bắt gặp không ít
các vụ việc mà khi mới điều tra xét xử, đương sự là người chưa thành niên hoặc mất năng
lực hành vi dân sự, Tòa án đã triệu tập cha mẹ của họ tham gia tố tụng với tư cách người đại
diện theo pháp luật của đương sự. Nhưng do quá trình xét xử dài nên đương sự đã thành
niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã khôi phục. Theo quy định của pháp luật thì khi này tư
cách người đại diện theo pháp luật của đương sự chấm dứt. Tuy nhiên, Tòa án vẫn tiếp tục
triệu tập cha mẹ của đương sự tham gia tố tụng với tư cách người đại diện theo pháp luật
của đương sự.
Đối với trường hợp người đại diện theo ủy quyền do không hiểu biết pháp luật nên
trong một số trường hợp giấy ủy quyền không ghi rõ thời hạn, điều kiện chấm dứt việc ủy
quyền nên đã dẫn đến việc lạm quyền, vượt quá yêu cầu đại diện, gây khó khăn, tranh chấp
và gây thiệt hại cho người được đại diện.
Thứ tư, về việc xác định tính hợp pháp về hình thức của đơn khởi kiện do người đại
diện theo ủy quyền đứng đơn khởi kiện.
Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện, tại điểm 1 khoản 2 Điều 164 BLTTDS quy
định: “Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi
kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu ở phần cuối
đơn”. Tuy nhiên, trong trường hợp nguyên đơn vì nhiều lý do khác nhau không thể trực tiếp
tham gia vụ kiện, do đó, nguyên đơn lập hợp đồng uỷ quyền cho người được uỷ quyền thay
mặt mình giải quyết tranh chấp cả trong giai đoạn tiền tố tụng (chẳng hạn như thay mặt
người ủy quyền hoà giải tại cấp cơ sở đối với những vụ kiện tranh chấp quyền sử dụng
đất…) và trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Nhiều trường hợp nguyên đơn lập hợp đồng uỷ
quyền cho người đại diện hợp pháp với phạm vi ủy quyền được xác định cụ thể là “Bên
được ủy quyền được quyền nhân danh và thay mặt Bên ủy quyền làm đơn khởi kiện và tham

gia tố tụng từ khi Tòa sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án cho đến khi kết thúc quá trình tố tụng.
Mọi ý kiến và quyết định của bên được ủy quyền là ý kiến, quyết định của bên ủy quyền”.
Nếu bắt buộc “đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu ở phần
cuối đơn” thì không thể thực hiện được (Luật sư không phải là chủ thể có đủ thẩm quyền để
9


đóng con dấu của Bên ủy quyền – cơ quan, tổ chức đó). Mặt khác, Điều 161 quy định: “Cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi
kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện)..”. Bản thân quy định chung này đã trao
quyền cho người đại diện hợp pháp khởi kiện và người đại diện hợp pháp được đặt trong
thuật ngữ chung gọi là “người khởi kiện”. Bên cạnh đó, về nội dung, điểm 1 khoản 2 Điều
164 không cấm người đại diện ủy quyền đứng tên trong đơn khởi kiện. Vì vậy, dẫn đến
không thống nhất trong việc áp dụng luật.
Thứ năm, về việc chấm dứt đại diện ủy quyền trong tố tụng dân sự
Việc đơn phương đình chỉ hợp đồng ủy quyền có thể đặt ra với cả 2 bên đại diện uỷ
quyền và bên ủy quyền. Nhưng, trong pháp luật nội dung và tố tụng đều chưa đề cập đến
quy định này. Tại Điều 593 “đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng uỷ quyền” có đề cập
đến thủ tục chấm dứt ủy quyền trong trường hợp uỷ quyền có thù lao và uỷ quyền không có
thù lao. Khoản 1 Điều 593 quy định: “Nếu uỷ quyền không có thù lao, thì bên uỷ quyền có
thể đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên
kia một thời hạn hợp lý”. Quy định này chưa rõ thế nào là thời hạn hợp lý và việc đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng ủy quyền thể hiện dưới hình thức nào. Chính nội dung
đó đã dẫn đến các yêu cầu xử lý về văn bản tố tụng khác nhau ở các Tòa án.
Thứ sáu,về vấn đề đảm bảo việc thực hiện quyền của người đại diện của đương sự
Theo quy định của BLTTDS thì người đại diện của đương sự có quyền “được biết và
ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu
thập” (khoản 2 điều 58 BLTTDS). Tuy nhiên trên thực tế, quyền quan trọng này của người
đại diện của đương sự rất khó có thể thực hiện được. Thông thường thì chỉ khi nguyên đơn
khởi kiện thì các tài liệu chứng cứ, đơn khởi kiện được thông báo cho phía bị đơn, những

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được biết (điều 174 BLDS) và từ đó họ sẽ có văn bản
trả lời (điều 175 BLDS). Còn trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự, khi các bên
đề xuất trình chứng cứ mới hay những chứng cứ do Tòa án thu thập được thì các bên đương
sự chỉ có quyền được biết thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở Tòa án. Nhưng
chính “quyền được biết” này chỉ mang tính chất chung chung khi không quy định một cách
cụ thể ai là người phải thông báo cho người đại diện của đương sự khi có những chứng cứ
mới được đưa ra. Ngoài ra, một số quyền khác của người đại diện đương sự khi tham gia
TTDS ở một số nơi, một số thời điểm cũng không được đảm bảo như quyền yêu cầu thay
10


đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, quyền tranh luận ở phiên tòa và một số
quyền khác nữa. Đặc biệt, quyền “tranh luận ở phiên tòa” ở nhiều Tòa án, nhiều phiên xử
chỉ mang tính chất hình thức, thẩm phán chỉ nghe cho có, cho đầy đủ, bản án chưa phản ánh
hết quá trình tranh tụng ở phiên tòa.
II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự được đảm bảo trên thực tế thì
pháp luật cần phải hoàn thiện một số quy định về vấn đề này, cụ thể như sửa đổi, bổ sung
điều 76 BLTTDS về “chỉ định người đại diện” cho đương sự như người có thẩm quyền chỉ
định người đại diện, nội dung quyết định chỉ định người đại diện cho đương sự, các trường
hợp phải chỉ định người đại diện và tiêu chuẩn người được chỉ định làm người đại diện. Để
tránh những tranh luận không cần thiết, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, cần có sự
quan tâm xem xét khi có sự sửa đổi, bổ sung BLTTDS. Cụ thể cụm từ “người đại diện hợp
pháp” cần thay bằng “người đại diện theo pháp luật” quy định tại các khoản 4; 5; 6 và 7
Điều 57; Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự ”; cụm từ “người đại diện của đương sự” tại Điều
243 cần thay bằng cụm từ “người đại diện hợp pháp của đương sự”… Để thuận lợi hơn
trong việc giải quyết các vụ án dân sự cũng như bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các
đương sự trong tố tụng dân sự, các nhà làm luật nên dự liệu thêm nhiều trường hợp hơn.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án.
Để các quy định của pháp luật được thực hiện có hiệu quả và vai trò của người đại
diện của đương sự thì chất lượng của đội ngũ cán bộ Tòa án cần được nâng cao. Cần đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ Tòa án.
Đối với những cán bộ chưa đủ trình độ, tiêu chuẩn thì cho đi đào tạo lại; không ngừng tăng
cường công tác quản lý giáo dục về tư tưởng chính trị, thường xuyên quan tâm và có chính
sách bồi dưỡng hỗ trợ các cán bộ Tòa án.
Thứ ba, phải đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Thường xuyên phát động phong trào thi đua tìm hiểu pháp luật, ưu tiên sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo đài để giáo dục, tuyên truyền pháp luật.
Coi chính sách giáo dục về pháp luật là một trong những nội dung cơ bản trong chương trình
đào tạo của các hệ đào tạo.
11


C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Vấn đề người đại diện của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự là một vấn đề còn
nhiều tranh cãi , nhiều vấn đề… vẫn chưa được các điều luật quy định một cách cụ thể.
Trên thực tế, việc tham gia tố tụng của người đại diện vẫn phải căn cứ thêm vào các văn
bản hướng dẫn thi hành BLTTDS mới tránh được những vướng mắc.
Trên đây là những tìm hiểu của nhóm chúng em về chế định Người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự. Trong quá trình tìm hiểu và làm bài chúng em không tránh khỏi
thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn bổ sung, góp ý.

12




×