Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

“Vấn đề đạo đức, lối sống của Vận động viên thể thao Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.19 KB, 15 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Tài năng thể thao là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất chặt chẽ giữa
năng lực thể thao và phẩm chất đạo đức, nhân cách của vận động viên. Do vậy, quá
trình đào tạo và bồi dưỡng tài năng thể thao phải được thực hiện như một quá trình sư
phạm thống nhất giữa dạy chuyên môn, kỹ thuật và dạy cách làm người.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội , là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Lý tưởng đạo đức con người là vấn đề vô cùng quan trọng, không thể thiếu
trong nhân cách con người nói chung và Vận động viên nói riêng. Trong cuộc sống
hiện đại ngày nay khi mà giá trị vật chất được con người đề lên quá cao, khi đại đa số
mọi người đều chạy theo lối sống thực dụng thì lý tưởng đạo đức chỉ còn là một niệm
hết sức xa vời. Vấn đề đặt ra bây giờ là làm thế nào để mọi người nhận thức được lý
tưởng đạo đức cho mình, làm thế nào để mọi người luôn chăm lo giữ gìn phẩm chất,
đạo đức cách mạng.
Trên thực tế cho ta thấy vấn đề đạo đức và lối sống của con người ngày nay có
rất nhiều vấn đề nổi cộm. Cuộc sống càng được nâng cao thì những phẩm chất đạo đức
tốt đẹp ngày càng ít đi, thay vào đó tình trạng tha hóa, biến chất về đaọ đức và lối sống
con người Việt Nam ngày càng nhiều và trầm trọng hơn.Trước thực tế đó Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách và những chế tài cụ thể để quản lý
và kiểm soát tình trạng tha hóa, biến chất về đạo đức và lối sống con người Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Vấn đề đạo đức và lối sống của vận động viển thể thao Việt nam hiện nay vẫn
chưa dừng lại ở những gì ta đã biết. Nhận thức được những điều trên, với mục đích sử
dụng các phương pháp luận của thế giới quan duy vật hiện chứng kết hợp phương pháp
luận của phép biện chứng duy vật, tôi muốn được tìm hiểu sâu hơn về những vấn đề
đạo đức con người vận động viên. Đó là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu là: “Vấn đề
đạo đức, lối sống của Vận động viên thể thao Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận


môn Triết Học.


2

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI
1.1.

Khái quát về bản chất đạo đức.

Trong triết học, đạo đức là một vấn đề đã được đề cập tương đối sớm, vì đạo
đức gắn liền với việc hình thành nên đạo đức, nhân cách con người. Đạo đức được hiểu
theo nhiều phương diện khác nhau: trong tôn giáo thì có đạo đức tôn giáo, trong thời
đại ngày nay thì có đạo đức cách mạng,…. Dưới đây chúng ta sẽ khái quát qua một số
quan điểm về đạo đức trong triết học và trong thời đại ngày nay.
1.1.1. Đạo đức tôn giáo:
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã
nhận đinh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo có những giá
trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa. Vấn đề đạo đức tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân
bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam
hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn
thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Tuy nhiên, đạo đức
tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và
làm mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn đề đặt ra là, cần nhận điện đúng
vai trò của đạo đức tôn giáo nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn
chê những tác động tiêu cực của nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con người Việt
Nam hiện nay.
Trước khi phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo đối với đời sống xã hội, tôi muốn đề

cập đến một cách khái quát cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đạo đức tôn giáo.
Trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội, giữa hình thái ý thức tôn giáo và hình
thái ý thức đạo đức luôn có quan hệ tương tác, đan xen và thâm nhập lẫn nhau. Sự tác
động biện chứng đó lại diễn ra trong tính quy định của điều kiện sinh họat vật chất xã hội,
vì vậy, bản thân tôn giáo đã chứa đựng những nội dung đạo đức.


3

Với tư cách những thành tố tạo nên kiến trúc thượng tầng của xã hội, tôn giáo và
đạo đức phản ánh tồn tại xã hội theo các cách khác nhau. Tôn giáo phản ánh một cách
hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người, trong đó, cái hiện thực đã bị
biến dạng cái tự nhiên đã trở thành cái siêu nhiên. Còn đạo đức phản ánh các mối quan
hệ của con người với nhau và với xã hội, đó là những mối quan hệ hiện thực.
Khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thúc xã hội độc lập với các hình thái ý
thức khác, chúng ta thấy nó chứa đựng nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn mực,
lý tưởng đạo đức...) thể hiện trong giáo lý tôn giáo.
Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm
điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tôn giáo đều tuyên bố về
giá trị tối cao của 'các lực lượng siêu nhiên (Thượng đế, Chúa trời, Thần thánh) và mọi
giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo đức của hầu hết
mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, còn đề
cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như sống hiếu thảo với cha
mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác...
Vấn đề trung tâm của Phật giáo là “diệt khổ" để hướng đến giải thoát, chứng
được Niết bàn. Muốn đạt được điều đó, con người không chỉ cần có niềm tin tôn giáo,
mà còn cần cả sự phấn đấu nỗ lực của bản thân bằng cách thực hành một đời sống đạo
đức. Từ đó, Phật giáo đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể để con người tu
tập, phấn đấu. Trong đó, phổ biến nhất là Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) và Thập thiện (ba điều thuộc về thân:

không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, ba điều thuộc về ý thức: không tham
lam, không thù hận, không si mê, bốn điều thuộc về khẩu: không nói dối, không nói
thêu dệt, không nói hai chiều, không ác khẩu). Những chuẩn mực này, nếu lược bỏ màu
sắc mang tính chất tôn giáo sẽ là những nguyên tắc ứng xử phù hợp giữa người với
người, rất có ích cho việc duy trì đạo đức xã hội.
Trong đạo đức Kitô giáo, giới răn yêu thương được xem là nền tảng. Con người
trước hết phải yêu Thiên Chúa rồi yêu thương đến bản thân mình. Đây là cơ sở để thực
hiện tình yêu tha nhân. Kinh thánh khuyên con người phải yêu chồng vợ, cha mẹ, con
cái, anh em, làng xóm, cộng đồng... Những điều mà Kinh thánh răn cấm cũng rất cụ
thể: không giết người, không lấy của người, không nói sai sự thật, không ham muốn
chồng hoặc vợ của người, không làm chứng giả để hại người... Ngoài ý nghĩa đức tin
vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa), những chuẩn mực, quy phạm đạo đức ấy là
những quy phạm đạo đức rất cụ thể hướng con người đến điều thiện, tránh xa điều ác.
Phải nói rằng, tôn giáo đã đề cập trực tiếp đến những vấn đề đạo đức cụ thể của
cuộc sống thế tục và ít nhiều mang giá trị có tính nhân văn. Trên thực tế, những giá trị,
chuẩn mực đạo đức của các tôn giáo có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã
hội. Do vậy, có thể khẳng định rằng, "trong hệ thống những giá trị chuẩn mực tôn giáo,


4

ngoài những điều khuyên răn cấm đoán tạo nên nội dung riêng của đạo đức tôn giáo,
còn có những điều khuyên răn cấm đoán không hề có nội dung tôn giáo, mà là biểu
hiện của các mối quan hệ thuần tuý trần thế”.
Từ việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể khẳng định
rằng, khi bàn về tôn giáo, các nhà kinh điển đã đề cập đến vấn đề đạo đức tôn giáo,
trong đó, các ông không chỉ phê phán mặt tiêu cực, mà còn chỉ ra một số ý nghĩa tích
cực của đạo đức tôn giáo.
Khi mới ra đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng
của người lao động. C.Mác đã khẳng định: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện

của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy".
Con người bất lực, không kiếm tìm được hạnh phúc nơi trần thế và đành phải tìm hạnh
phúc ấy nơi Thiên đường. Tôn giáo đã gieo vào họ mềm tin ở sự cứu vớt, giải thóat của
các đấng siêu nhiên. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu lịch sử tôn giáo, đặc biệt là lịch sử
Thiên chúa giáo và chứng minh rằng, sự xuất hiện của tôn giáo này là phản ứng chống
lại sự bất công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ là
khát vọng của quần chúng phản kháng lại sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
ấn Độ cổ đại. Thiên chúa giáo kêu gọi tình yêu thương giữa con người với con người,
Phật giáo chủ trương bình đẳng, từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha. Ngoài ra, chúng ta còn có
thể nêu lên những nét tích cực của nhiều tôn giáo khác, khi các tôn giáo này xây dựng
mối quan hệ yêu thương giữa người với người, hướng con người vào những việc thiện,
biết giữ gìn đạo đức và xa lánh những điều ác.
Có thể khẳng định rằng, có một đạo đức tôn giáo và đạo đức ấy mang tính đặc
thù, đồng thời, có sự giao thoa giữa những giá trị đạo đức chung toàn nhân loại với đạo
đức tôn giáo. Tuỳ theo hoàn cảnh ra đời và những điều kiện lịch sử cụ thể, tư tưởng đạo
đức trong mỗi tôn giáo có những nét đặc thù riêng biệt. Ngoài mặt hạn chế, đạo đức tôn
giáo cũng có một số giá trị nhất định trong đời sống xã hội, là một trong những nhân tố
ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền đạo đức xã hội.
1.1.2. Đạo đức cách mạng:
Đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng Việt Nam dày
công xây dựng, bồi đắp. Đạo đức cách mạng mang bản chất của giai cấp công nhân, kết
hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân
loại.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, đã được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta, đồng thời kế thừa
tư tưởng đạo đức Phương Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; đặc biệt quan
trọng là những tư tưởng đạo đức cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng của
Mác, Ăngghen, Lênin đã để lại. Những tấm gương đạo đức đó chính là tính coi khinh
sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị.



5

Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chính Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của
các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo… Qua các thời đại lịch sử,
những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản chung của nhân loại, nhưng nội dung đã có
nhiều thay đổi. Những khái niệm như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liên, chính đã có
trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; dân chủ, tự do, công bằng, bác ái đã
xuất hiện từ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã.
Hồ Chí Minh đã đưa những giá trị đạo đức mới hòa nhập với những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. Hơn
nữa, những giá trị đạo đức truyền thống đó là yêu dân tộc, yêu thiên nhiên, đất nước,
tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa con người với con người, giữa con người với
xã hội, dũng cảm, ham học hỏi, sáng tạo,… được nâng lên một tầm cao mới đó là đạo
đức trong thời kỳ cách mạng đó là anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc, tinh thần đoàn kết dân tộc, và đạo đức cách mạng trong thời đại ngày nay đó là
tinh thần yêu nước, vươn lên làm giàu chính đáng góp phần làm giàu đất nước, tinh
thần đoàn kết yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa con người với con người, giữa con
người với xã hội,….Và việc tiếp thu những tinh hoa đạo đức của nhân loại đã làm cho
tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
1.1.3.

Đạo đức thể thao

Con người sống ở trên đời cần có đạo đức, mỗi một nghề nghiệp thường có một
chuẩn mực đạo đức riêng biệt, đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho
các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề
nghiệp và xã hội. Sự tiến bộ của xã hội, đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực

nào cũng phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp cơ bản, nhằm đảm bảo cho nghề nghiệp
đó được xã hội trọng dụng, tôn vinh. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực
thể thao cũng vậy, nó có những đặc thù riêng so với các ngành nghề khác trong xã hội.
Thể thao được xác định là một lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội nó có tác
động rất lớn đến mọi mặt của xã hội, phát triển thể dục, thể thao là một yêu cầu khách
quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống
của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực, giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống
và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế. Trong hơn 70 năm qua, thực hiện quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về phát triển thể dục thể thao để phục vụ việc phát triển
nguồn nhân lực, đầu tư cho thể dục thể thao là đầu tư cho sự phát triển, Thể thao
Việt Nam đã hội nhập đầy đủ vào nền thể thao khu vực, thế giới và có bước tiến rõ rệt,
có khả năng giành thứ hạnh cao ở nhiều bộ môn thể thao, mang vinh quang về cho Tổ
quốc, tạo ấn tượng tốt đẹp với bạn bè quốc tế về hình ảnh đất nước và con người Việt


6

Nam, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại, chủ trương hội nhập của Đảng và Nhà
nước
1.2. Khái quát về sự hình thành nên đạo đức và lối sống con người
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố sinh học và nhân tố
xã hội trong con người, làm căn cứ để giải thích cho sự hình thành đạo đức, lối sống
dưới 2 tác động, đó là tác động của môi trường xã hội và tính tích cực của mỗi cá nhân.
Theo đó, nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hướng lớn đến sự hình thành đạo đức, nhân
cách, lối sống là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ thể mà cá nhân
đó sống . Còn tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân, một mặt, phụ thuộc nào nhu cầu và
lợi ích của họ, mặt khác, phụ thuộc vào môi trường xã hội và khuynh hướng tiên bộ xã
hội, như nền dân chủ. các quan hệ xã hội…
Đạo đức, lối sống là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau,

như triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y học, giáo dục
học… Trong đó, quan điểm triết học về đề đạo đức con người, về cơ bản, có những
khác biệt so với quan điểm của các khoa học cụ thể.
Triết học Mác - Lênin xem đạo đức, nhân cách là "những cá nhân con người với
tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể của lao động, của sự giao tiếp,
của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử - cụ thể của đời sống xã hội".
Theo đó, đạo đức, nhân cách trước hết là đặc trưng xã hội của con người, là "phẩm chất
xã hội" của con người.
Đạo đức một mặt được hình thành từ bản chất con người, khi sinh ra nó đã có
sẵn, tiềm ẩn trong con người đó nhưng nó được bộc lộ ra thông qua lối sống, nhân cách
của con người đó trong xã hội.
Mặt khác, đạo đức, lối sống được hình thành do tác động của những yếu tố xã
hội, đó là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều
kiện xã hội khác nhau, những sự quy định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người.
Trong đại đa số trường hợp, nếu thiếu chúng thì nhiều đặc tính, nhiều cấu trúc, ví dụ
như ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, quy phạm đạo đức… sẽ không bao giờ hình thành
được.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là
sinh vật học và khoa học xã hội nhân văn, chủ nghĩa sinh học xã hội đã ra đời như một
trào lưu khoa học liên ngành mới ở Tây Âu. Nhìn một cách tổng thể, chủ nghĩa này
cũng không khác gì chủ nghĩa tự nhiên khi cho rằng, "tất cả những gì của con người do
bẩm sinh mà có, thì không thể bị thay đổi do các điều kiện xã hội".
Những người theo chủ nghĩa xã hội học đã xây dựng học thuyết của mình về
con người dựa trên quan điểm lý luận của trường phái E.Durkheim (1858 - 1917, nhà
Triết học xã hội, nhà Xã hội học Pháp, người theo chủ nghĩa thực chứng). Theo họ, các


7

hành vi của con người đều là do tư tưởng, ý thức xã hội tạo nên đồng thời, trường phái

này đã phủ nhận mối liên hệ khách quan giữa hành vi con người với những điều kiện
vật chất của sản xuất và tái sản xuất con người, với tự nhiên.
Đối lập với hai quan điểm cực đoan trên, triết học mácxít cho rằng, trong con
người, mối quan hệ giữa cái sinh học và cái xã hội không phải là đối lập nhau mà thống
nhất với nhau. Có thể thấy rằng, con người là một cơ thể hữu sinh có trình độ tổ chức
sinh học cao nhất và do vậy, quan hệ giữa các yếu tố sinh học - xã hội là rất phức tạp,
sâu sắc Tổ chức cơ thể của con người, như các giác quan, hệ thần kinh trung ương... là
những tiền đề sinh học, sinh lý học, tâm sinh học được xem như cơ sở vật chất và có
ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Thực tế đã chứng minh rằng, những khiếm
khuyết về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người,
tới thế giới quan, định hướng giá trị... của họ, hay những năng khiếu bẩm sinh, những
tài năng... chính là do các yếu tố sinh học chi phối.
Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng tới sự phát triển con người, ảnh hưởng tới cơ
cấu và chức năng… của cơ thể. Nếu con người ít tiếp xúc, trao đổi với người xung
quanh hoặc sống trong môi trường xã hội quá đơn điệu thì sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém
sự linh động. Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
trong con người là để thấy được những hạn chế trong các quan niệm cực đoan về cái
sinh học, cái xã hội trong con người của một số trường phái triết học. Thực tế cho thấy
rằng, những quy luật sinh học chi phối mặt sinh học, còn quá trình con người gia nhập
xã hội sẽ quyết định mặt xã hội trong con người. Trên cơ sở đó, triết học mácxít cho
rằng, sự hình thành và phát triển đạo đức, nhân cách là do hai nhân tố quyết định: nhân
tố bên ngoài - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội và nhân tố bên trong - tính
tích cực của chính cá nhân.
Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển đạo
đức, nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ thể
mà cá nhân đó sống. Đó có thể là các tập đoàn xã hội, kiểu loại cộng đồng dân tộc, tập
thể... C.Mác đã nói: "Nếu như con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do
đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình trong xã hội và cần phải phán
đoán lực lượng bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng
lẻ mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội". Do vậy, ở mỗi thời đại khác nhau, như

thời Cổ đại, Trung cổ, Cận đại, Hiện đại… có những kiểu loại đạo đức, nhân cách khác
nhau. Thời Cổ đại, khi nền kinh tế chưa phát triển, của cải còn ít, con người phải sống
phụ thuộc vào tập thể, đạo đức, nhân cách mỗi người hoà vào tập thể. Thời Trung cổ,
với sự ra đời Kitô giáo, nhân cách chủ yếu hướng về đời sống tinh thần, về những giá
trị đạo đức thuần túy, con người sống nhưng luôn chuẩn bị cho đời sống của mình sau
khi chết. Thời Cận đại, với sự khẳng định giá trị con người, nhân cách đã mang tính
độc lập sáng tạo…


8

CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
2.1.

Thực trạng về đạo đức, lối sống của VĐV thể thao hiện nay.

Sự phát triển nhanh chóng và nhiều mặt của thế giới ngày nay và nền kinh tế thị
trường đang tác động trực tiếp đến mọi quốc gia, đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị
tinh thần nói chung và giá trị đạo đức nói riêng, vốn được xem là truyền thống đạo đức
của các dân tộc và của toàn thể nhân loại. Hiện tượng suy đồi đạo đức là có thật và
đang trở thành mối quan tâm, lo ngại của nhiều quốc gia, dân tộc trên toàn cầu.
Điều dễ nhận thấy là, trong một thời gian khá dài chúng ta không coi trọng lắm
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức. Chính sự khiếm khuyết, hụt hẫng trong giáo dục đạo
đức, đặc biệt là giáo đục đạo đức truyền thống trong nhà trường đã tạo nên một khoảng
trống ngay trong tâm hồn của thế hệ trẻ. Và đây là một trong những lý do giải thích vì
sao ngày nay một bộ phận lớp trẻ có xu hướng quay lưng lại với văn hoá truyền thống,
sống thực dụng, dễ sa vào các tệ nạn xã hội, thậm chí trở thành kẻ phạm pháp. Cho
nên, trong quá trình xây dựng đất nước, nếu chúng ta chỉ đơn thuần nhằm vào và chỉ
đưa vào tăng trưởng kinh tế mà không đứng vững trên cái nền căn bản và vững chắc
của văn hoá, của đạo đức truyền thống thì sự phát triển của xã hội sẽ trở nên hết sức

khập khễnh, không lâu bền.
Thực tế cho thấy, trong một số hoạt động thể thao gần đây, do tư tưởng “phải
chiến thắng bằng mọi giá” và bệnh thành tích, nên vẫn còn nhiều những hành vi tiêu
cực trong hoạt động thể dục, thể thao như: gian lận trong tổ chức thi đấu và trọng tài,
móc ngoặc, nhường điểm, sử dụng Doping, vi phạm luật lệ, thô bạo trong thi đấu, các
hành vi phản cảm của Vận động viên, Huấn luyện viên, tình trạng bạo lực trên khán đài
của các cổ động viên, đặc biệt là hiện tượng cổ súy của các cổ động viên đối với những
hành vi không đẹp, các hành động quá khích của các cổ động viên đối lập…, đang là
những vấn đề nhức nhối, gây nên cái nhìn thiếu thiện cảm của dư luận xã hội đối với
các hoạt động thể dục thao thao hiện nay, làm mất đi sự trong sáng, tính trung thực,
tinh thần cao thượng của Thể thao Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, những hiện tượng tiêu cực diễn ra trong đời sống xã hội
Việt Nam như phân tích ở trên là biểu hiện của sự xa rời những chuẩn mực đạo đức
truyền thống, những chuẩn mực vẫn còn giá trị trong xã hội hiện đại. Một khi những


9

chuẩn mực đó không được giữ vững như là định hướng trong họat động của con người
thì sự suy thoái là điều không tránh khỏi. Vì vậy, việc giữ vững định hướng chính trị và
định hướng giá trị tinh thần trong thực tiễn xây dựng đất nước, cũng như trong họat
động thực tiễn đạo đức là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy thoái và
nguy cơ suy thóai đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay

2.2. Nguyên nhân
2.2.1. Đạo đức lối sống
Những năm gần đây, không ít giá trị đạo đức đã bị xói mòn, suy giảm nghiêm
trọng. Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, tệ nạn xã hội,
tệ tham nhũng, buôn lậu... có chiều hướng phát triển. Sự suy giảm giá trị đạo đức xã

hội thực sự trở thành một trong những vấn đề nổi cộm trong đời sống xã hội ta hiện
nay.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự suy giảm giá trị đạo đức?
Một là, chủ nghĩa cá nhân, công thần, kiêu ngạo, chạy theo lối sống hưởng thụ,
làm giàu bằng mọi giá.
Trải qua hàng chục năm kháng chiến, dân tộc đã đánh thắng hai đế quốc lớn là
Pháp và Mỹ, nhiều người đã có những công lao nhất định trong sự nghiệp chiến đấu
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Song cũng có người do tự đánh giá quá cao công
lao của mình, tự cho rằng mình đã chịu nhiều hy sinh gian khổ bây giờ lẽ đương nhiên
phải được hưởng thụ, nên đã trở thành "ông quan cách mạng" quan liêu, tham nhũng,
ngày càng xa cách quần chúng. Họ không từ mọi thủ đoạn tham ô, hối lộ, tiêu xài lãng
phí, sống xa hoa, trụy lạc. Họ tìm mọi cách vơ vét tiền của nhân dân, lợi dụng chức
quyền “bán" chữ ký rút tiền Nhà nước, tổ chức buôn lậu, bao che cho nhau cùng hàng
trăm mánh lới khác. Chính sự suy thoái về đạo đức của họ đã dẫn đến các bệnh họa xã
hội, làm suy thoái nền đạo đức xã hội.
Điều đáng lo ngại nhất là tệ tham nhũng diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, từ
Trung ương đến địa phương và thậm chí ở ngay các cơ quan thực thi pháp luật. Tệ
tham nhũng có sức phá hoại lớn đối với toàn bộ các giá trị đạo đức xã hội. Tệ tham
nhũng làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là
thế hệ trẻ mất niềm tin, dao động về lý tưởng và ít nhiều bị tiêm nhiễm ý thức phản đạo
đức. Điều đáng nói là trước tình hình đó, công tác xây dựng Đảng, công tác đấu tranh
chống lại các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước còn thiếu
những biện pháp hữu hiệu.


10

Hai là, pháp luật không nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng.
Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau. Một xã hội có nền đạo đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện nghiêm

chỉnh và tự giác. Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc giữ gìn, phát
triển một nền đạo đức xã hội tốt đẹp.
Trong thực tế vấn đề này không phải bao giờ cũng được quán triệt đầy đủ. Pháp
luật có lúc còn bị coi thường. buông lỏng. Tình trạng bao che, “ô dù” đã làm cho phép
nước không nghiêm gây nên sự bất bình trong quần chúng, là một nhân tố khiến giá trị
đạo đức xã hội suy giảm, cản trở việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội tạo kẽ hở
cho những kẻ tham nhũng lợi dụng đục khoét tài sản quốc gia, làm giàu bất chính.
Ba là, xã hội ta còn bị ảnh hưởng khá nặng nề bởi các tàn tích của đạo đức
phong kiến.
Đất nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ một nền kinh tế kém
phát triển, chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nông nghiệp, với những
giá trị văn hoá làng xã bền vững cùng những tư tưởng đạo đức phong kiến nặng nề. Ở
nhiều nơi, vẫn còn hiện tượng “phép vua thua lệ làng"(thiên vị trong thi đấu). Tình
trạng cát cứ địa phương theo kiểu "trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy
thờ” vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Nền đạo đức phong kiến in đậm trong phong tục, tập
quán, thói quen, biểu hiện qua các hành vi đạo đức như gia trưởng, độc đoán, tham
quyền cố vị coi thường pháp luật, tư tưởng trọng tâm, cục bộ, bản vị vẫn còn khá phổ
biến trong đời sống xã hội ta hiện nay.
Nhiều giá trị đạo đức phong kiến chẳng những cản trở việc xây dựng nền đạo
đức mới mà còn là bạn đồng hành của chủ nghĩa thực dụng. cá nhân vị kỷ, kìm hãm sự
tiến bộ, sáng tạo, cản trở công cuộc đổi mới, làm chậm quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Bốn là, xã hội ta đã và đang bị ảnh hường của lối sống tư sản.
Từ khi đất nước tiến hành đổi mới với chủ trương phát triển kinh tế thị trướng
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống kinh tế - xã hội đã cô nhiều biến đổi tích
cực, song cũng nảy sinh không ít những tiêu cực. Kinh tế thị trường với quy luật giá trị,
quy luật cạnh tranh... ở một khía cạnh nào đó đã khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, lối
sống thực dụng, chỉ coi trọng giá trị vật chất mà coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ chú ý lợi
ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích cộng đồng, chỉ chú ý lợi ích trước mắt mà coi nhẹ lời ích
cơ bản lâu dài. Đó là lối sống chỉ biết lợi ích của cá nhân mình, tất cả vì lợi nhuận, vì

lợi nhuận người ta sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của người khác, sẵn sàng vứt bỏ lợi ích
của tập thể, của xã hội. Vì lợi nhuận, người ta không từ bỏ một thủ đoạn bất chính nào, kể
cả buôn gian bán lận, lừa đảo, trộm cắp...


11

Việc đấu tranh khắc phục sự suy giảm về đạo đức xã hội chắc chắn là một công
việc lâu dài, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có nỗ lực và quyết tâm cao, phải tiến
hành kiên quyết và đồng bộ với nhiều giải pháp thiết thực, cụ thể. Điều quan trọng là
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phải từng bước xây dựng đạo đức mới, biết kết
hợp hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, khắc phục và đẩy lùi các
nguyên nhân gây ra sự xuống cấp đạo đức. Tất nhiên, xây dựng dạo đức mới trong điều
kiện kinh tế thị trường không phải là một vấn đề đơn giản, dễ dàng. Vì vậy, cần thiết
phải có những biện pháp thích hợp để những giá trị đạo đức mới có thể từng bước phát
triển.

2.2.2. Đạo đức thể thao
Nguyên nhân chính của những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức trong
lĩnh vực thể thao vừa qua, chủ yếu là do công tác tuyên truyền về đạo đức nghề nghiệp
chưa được quan tâm đầy đủ, lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể
chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp
thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về thể dục thể thao còn chậm được đổi mới,
kỷ luật, kỷ cương không nghiêm, chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực thể dục,
thể thao, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thể thao các cấp.
Bên cạnh đó, với xu hướng hội nhập và mặt trái của cơ chế thị trường hiện nay
đã tác động đến xã hội ở nhiều mặt, trong đó lĩnh vực Thể thao không nằm ngoài tác
động này. Những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của vận
động viên hiện nay như: Gian lận về độ tuổi, nhường điểm, cá độ, mua bán tỷ số, bạo

lực trong tập luyện và thi đấu… Những hành vi tiêu cực, thậm chí vi phạm pháp luật ấy
đã làm mất đi hình ảnh của thể thao trong nhân dân; kìm hãm sự phát triển của thành
tích thể thao. Vì vậy, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho vận
động viên ngày càng chiếm một vị trí quan trọng.
Tuy nhiên, vấn đề làm thế nào để làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho vận động viên quả là nhiệm vụ không dễ dàng. Bởi cần phải hiểu
rằng cuộc sống của vận động viên có những đặc thù riêng, ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách của họ. Trước hết, các vận động viên thường là những người có thần kinh
hưng phấn cao nên dễ bị tác động bởi môi trường bên ngoài. Trong khi đó, môi trường
hoạt động của các họ lại khá rộng: Tại gia đình, tại Trường Năng khiếu Nghiệp vụ, tại
trường phổ thông và những nơi đi tập huấn, thi đấu trên toàn quốc…; phần lớn vận
động viên của nhà trường xa gia đình, sống tập trung tại ký túc xá nên dễ bị ảnh hưởng
lẫn nhau, nếu nhận thức kém, không có bản lĩnh mà lại không có môi trường giáo dục
tốt thì các em sẽ rất dễ bị sa ngã.


12

2.3. Giải pháp chuẩn mực đạo đức trong thể thao.
Xuất phát từ thực tiễn yếu kém về tư tưởng, đạo đức, văn hóa của một bộ phận
người tham gia hoạt động thể dục, thể thao hiện nay, việc nghiên cứu xây dựng và ban
hành chuẩn mực đạo đức Thể thao trở nên cấp bách và là một nhiệm vụ quan trọng của
Thể thao Việt Nam hiện nay. Thông qua những chuẩn mực đạo đức Thể thao, để đẩy
mạnh công tác tuyên truyền - giáo dục, học tập và thiết lập một cơ chế giám sát việc
tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, cũng như xét xử nghiêm các hành vi vi phạm đạo đức
nghề nghiệp, nhằm nâng cao nhận thức và thống nhất hành động của toàn xã hội, kiên
quyết chống các biểu hiện tiêu cực, không trong sáng trong thi đấu và tổ chức điều
hành thi đấu.
Việc nghiên cứu ban hành những chuẩn mực đạo đức của Thể thao Việt Nam
hiện nay cần dựa trên cơ sở Hiến chương “Fair play” của Uỷ ban Olympic Quốc tế,

hay nói một cách khác trên tinh thần đoàn kết - trung thực - cao thượng, kết hợp với
truyền thống văn hóa của dân tộc, có như vậy những chuẩn mực đạo đức của Thể thao
Việt Nam mới có thể đi vào cuộc sống, góp phần phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp
của con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế, xây dựng, hình thành những
phẩm chất quý báu vốn có của con người Việt Nam, từng bước đẩy lùi những suy thoái,
yếu kém lệch lạc trong nhận thức của một bộ phận người tham gia hoạt động thể dục
thể thao, đây cũng chính là một trong những nội dung triển khai thực hiện Nghị quyết
33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khóa XI) về “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước”. Hơn nữa việc tăng cường công tác tuyên truyền trong lĩnh vực thể dục, thể
thao cần theo hướng tuyên truyền đúng mức, không thái quá, không chạy theo thành
tích, kết hợp với việc xử lý nghiêm minh các trường hợp tiêu cực trong hoạt động thể
thao, các vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao được quy định tại Nghị định số
158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về Quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 01 năm 2014. Trong đó xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể
thao được quy định trong 14 Điều (từ Điều 28 đến Điều 40 và Điều 49), với 3 hình
thức xử phạt: Xử phạt bằng tiền; Tịch thu tài liệu, trang thiết bị, dụng cụ; Hủy bỏ kết
quả, thành tích đối với những hành vị bị cấm trong hoạt động thể thao:
- Sử dụng chất kích thích (Doping) bị cấm trong tập luyện, thi đấu thể thao
- Sử dụng phương pháp tập luyện, bài tập, môn thể thao bị cấm trong tập luyện, thi
đấu.
- Thực hiện không đúng đối với quyền lợi, nghĩa vụ của vận động viên, huấn luyện
viên, trọng tài thể thao thành tích cao.
- Không đảm bảo, đáp ứng yêu cầu về điều kiện kinh doanh hoạt động thể thao.


13

- Tổ chức các giải thi đấu thể thao quần chúng không đáp ứng được quy định

- Gian lận trong tuyển chọn vận động viên, làm sai lệch kết quả thành tích thể thao.
- Xúc phạm trọng tài, chơi thô bạo, sai luật, lợi dụng hoạt động thể thao để cản trở hoặc
xâm phạm đến lợi ích của tổ chức, cá nhân.
- Vi phạm quy định về văn hóa, thể thao, du lịch cho người khuyết tật và người cao
tuổi.
Những chuẩn mực đạo đức thể thao không chỉ thúc đẩy sự nghiệp Thể thao Việt Nam
mà còn góp phần tạo ra môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm
của mỗi người dân với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
Hiện nay, trong sự nghiệp xây dựng đất nước, với quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế đòi hỏi chúng ta phải mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế và giao lưu văn hoá với
các nước trên thế giới. Thông qua việc mở rộng quan hệ, chúng ta đã tiếp thu được
nhiều thành tựu văn minh của nhân loại, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc.
Nhưng cũng trong quá trình mở cửa hội nhập, sự xâm nhập của văn hoá và lối sống
ngoại lai làm cho văn hoá truyền thống có nguy cơ bị lãng quên. Trong đời sống xã hội,
đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị truyền thống, chạy theo thị hiếu không
lành mạnh. Đặc biệt, "tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc,
chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia
đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma
tuý mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Lối sống thực dụng và đồi trụy ngày
càng lan rộng đã gây ảnh hưởng xấu, nhất là đối với thế hệ trẻ. Đó là một thực trạng
đáng lo ngại. Nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự xâm
nhập của cái xấu thì liệu chúng ta mở cửa hội nhập để được cái gì? Rõ ràng, chúng ta
không thể chấp nhận một sự tăng trưởng đơn thuần về kinh tế bằng mọi giá mà để cho
bản sắc văn hoá dân tộc bị suy thoái, môi trường xã hội bị ô nhiễm, con người bị hạ
thấp, nhân phẩm bị chà đạp, giống nòi có nguy cơ bị suy vong. Chính nguyên Tổng Bí
thư Đỗ Mười đã từng nhấn mạnh: "Trong khi chăm lo phát triển kinh tế, coi đó là
nhiệm vụ trung tâm, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng động lực tạo ra sự phồn vinh và

phát triển lâu bền của quốc gia, không chỉ đơn thuần là vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến
và tài nguyên thiên nhiên giàu có, mặc dù điều đó là quan trọng, mà chủ yếu là trí tuệ
của con người, đó khả năng sáng tạo của toàn dân được hình thành từ truyền thống văn
hoá Việt Nam. Đó là kho tàng tri thức, tâm hồn, đạo lý, tính cách, lối sống trình độ thẩm
mỹ của từng người và của cộng đồng dân tộc. Cho nên trong quá trình phát triển, cần phải
có sự tính toán, sự chọn lọc, không phải vì lợi ích kinh tế trước mắt mà từ bỏ những chuẩn


14

mực về văn hoá, những giá trị đạo đức truyền thống để đu nhập văn hoá và lối sống ngoại
lai không phù hợp với dân tộc mình.
KẾT LUẬN
Nhưng trong những năm gần đây, không ít giá trị đạo đức đã bị xói mòn, suy
giảm nghiêm trọng. Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền,
tệ nạn xã hội, tệ tham nhũng, buôn lậu... có chiều hướng phát triển. Sự suy giảm giá trị
đạo đức xã hội thực sự trở thành một trong những vấn đề nổi cộm trong đời sống xã hội
ta hiện nay.
Có những giá trị đã tồn tại từ bao đời nay, cũng có những giá trị mới nảy sinh
cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại. Điều cơ bản là cần phải có sự nhìn nhận
khách quan và khoa học để vừa kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp, vừa chọn lọc,
tiếp thu những cái thực sự là quý giá, phù hợp với dân tộc mình để xây đựng một hệ giá
trị đạo đức mới trong điều kiện hiện nay. Nghĩa là phải biết kết hợp cái hiện đại và cái
truyền thống, biết xuất phát từ cái truyền thống để đi đến hiện đại. Bởi vì, những giá trí
mới cùng với các giá trị truyền thống bền vững sẽ là những động lực thúc đẩy con
người hành động và nhờ vậy mà lịch sử sẽ có bước phát triển mới.

Mỗi Vận động viên thể thao ngoài luyện tập nâng cao chuyên môn, còn phải
rèn luyện chuẩn mực đạo đức của bản thân, bởi chuẩn mực đạo đức thể thao không
chỉ thúc đẩy sự nghiệp Thể thao Việt Nam mà còn góp phần tạo ra môi trường và

điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất,
tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao
tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người dân
với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.


15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học), NXB Đại học sư phạm , Hà nội, 2019.
2. Tài liệu nghiên cứu Tư tường Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, Hà nội, 2003.
3. “ Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở Việt
nam”, Lê Thị Tuyết Ba, Tạp Chí Triết Học, Thứ 5, ngày 04/ 05/ 2007.
4. “Về sự suy giảm giá trị đạo đức hiện nay”, Đinh Hùng Tuấn, Tạp Chí Người đọc
sách, Thứ 3, ngày 16/01/2007.
5. “Toàn cầu hóa và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện
nay”, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tạp chí Triết học, Thứ hai, 28/05/2007.
/> />


×