Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.82 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG

HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG

HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa công bố trong bất cứ công
trình nào khác
Hà Nội, ngày …tháng … năm 2019
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT

Bộ Chính trị

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BMNN

Bộ máy Nhà nước

BTP


Bộ Tư pháp

CBTGPL

Cán bộ trợ giúp pháp lý

CQĐT

Cơ quan điều tra

CTKGG

Cải tạo không giam giữ

ĐTV

Điều tra viên

GĐXXST

Giai đoạn xét sử sơ thẩm

KSV

Kiểm sát viên

LHP

Luật hiến pháp


LLS

Luật luật sư

LS

Luật sư

NN và PL

Nhà nước và Pháp Luật

NN

Nhà nước

PL

Pháp luật

PLTCLS

Pháp lệnh tổ chức luật sư

PTP

Phòng tư pháp

STP


Sở tư pháp

TAND

Tòa án nhân dân

TCTH

Tù có thời hạn

TP

Thẩm phán

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG
MINH............................................................................................................. 15
1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư trong gđxxst.................... 15
1.2. Đặc điểm của hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự..........................................................................................28
1.3. Các hoạt động chứng minh của luật sư trong gđxxst...............................30
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM TẠI TỈNH PHÚ THỌ............................................................... 36
2.1. Qui định của pháp luật về hoạt động chứng minh của luật sư trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm........................................................................................36
2.2. Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại tỉnh phú thọ.................................................................44
2.3. Kết quả và hạn chế hoạt động chứng minh của luật sư trước khi mở phiên
tòa....................................................................................................................46
2.4. Kết quả hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa.........................48
2.5. Nguyên nhân, những hạn chế, vướng mắc về hoạt động của chứng minh của
luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại tỉnh phú thọ...................................53
2.6. Một số quy định của Luật sư Quốc Tế………………………………….54
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ......................................... 59
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm........................................................................................59
3.2.Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư....61
3.3. Kết hợp việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư với tăng
cường quản lý nhà nước về luật sư................................................................. 65
KẾTLUẬN………………………………………………………………….70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định trình

tự, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự, trong đó giai đoạn xét xử sơ thẩm có
vai trò rất quan trọng trong việc quyết định bị cáo có tội hay không có tội để
áp dùng hình phạt với bị cáo. Trong giai đoạn đó, cùng với việc buộc tội của
Viện kiểm sát, hoạt động bào chữa của Luật sư cũng được thực hiện.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, Đảng đã chủ trương thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: Cải
cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Trong đó cải cách tư
pháp luôn được Đảng quan tâm chú trọng ngay từ những năm đầu của thế kỷ
XXI, với Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan
tâm đến vai trò của Luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc
bảo đảm hoạt động của Luật sư trong tố tụng, Nghị quyết đã chỉ rõ: “… Nâng
cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên Tòa, đảm bảo tranh tụng
dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…
Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào
quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh
luận dân chủ tại phiên toà…”; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định:
“… Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên Tòa xét xử, coi đây là khâu
đột phá của hoạt động tư pháp … Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số
lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện
cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên Toà, đồng thời xác định rõ
chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát
huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình”.

1


Trên tinh thần cải cách tư pháp, trong những năm vừa qua các Cơ quan
tiến hành tố tụng tỉnh Phú Thọ đã chủ động tạo điều kiện để Luật sư tham gia

bào chữa trong vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra; Hoạt động của Luật sư nói
chung nhất là các hoạt động chứng minh nói riêng giúp cho người bị tạm giữ,
người bị tình nghi (nghi phạm), bị can, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hình sự được bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
mình theo qui định của pháp luật. Với sự tham gia tích cực của Luật sư trong
các giai đoạn tố tụng hình sự đã bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của thân
chủ (bị can, bị hại …) và góp phần trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ
án. Điều đó giúp cho việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính
xác nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; tránh oan
sai cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm, góp phần giữ vững An ninh chính trị Trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, hội nhập quốc tế; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc nói chung và an
ninh trật tự của tỉnh Phú Thọ nói riêng.
Mặc dù BLTTHS đã bổ sung nhiều quyền cho Luật sư nhưng trên thực
tế trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự thì vị trí, vai trò và chức
năng của Luật sư không phải lúc nào, giai đoạn nào Luật sư cũng được tạo
điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của “Người bào chữa” trong tố tụng
hình sự. Trong giai đoạn xét xử còn nhiều hiện tượng gây khó khăn, chưa tạo
điều kiện cho luật sư nghiên cứu hồ sơ, chưa chấp nhận yêu cầu chính đáng
của người bào chữa, vì thế ảnh hưởng nhiều đến hoạt động chứng minh từ thu
thập đến đánh giá các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự vô tội hoặc làm
giảm nhẹ tội cho bị cáo.Trong thời gian qua tuy đã có một số công trình
nghiên cứu về hoạt động trong TTHS nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu toàn diện về hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Do vậy việc nghiên cứu để tìm ra những ưu điểm, khuyết

2


điểm, những tồn tại, hạn chế những nguyên nhân và những vướng mắc, khó
khăn của Luật sư thực hiện hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự ở địa bàn tỉnh Phú Thọ là rất cần thiết. Với tất cả những ý
nghĩa đã nêu ở trên, việc chọn đề tài “ Hoạt động chứng minh của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ”
làm Luận văn Thạc sĩ Luật học là cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận cũng
như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Trước năm 1988, hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng
hình sự gần như chưa được quan tâm, nghiên cứu. Phải đến khi Pháp lệnh tổ
chức Luật sư năm 1987 và Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 có
hiệu lực thi hành thì mới có một số rất ít những công trình khoa học hay các
bài viết, chuyên đề nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này .
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Luật sư năm 2006 có hiệu
lực thi hành, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi hỏi cần
phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, vai trò,
hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình sự mới được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Những vấn đề cơ bản
về chứng minh, quá trình chứng minh được đề cập đến một số giáo trình tài
liệu chuyên ngành như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường
Đại Học Luật, nhà xuất bản công an nhân dân …một số các công trình nghiên
cứu về vị trí, chức năng, hoạt động, địa vị pháp lý, vai trò của Luật sư trong tố
tụng hình sự nói chung và trong cụ thể từng giai đoạn tố tụng hình sự nói
riêng có thể kể đến:
- Đề tài nghiên cứu cấp trường năm 2003 “ Chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng hình sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của trường đại học
Luật do Thạc sĩ Bùi Kiên Điện chủ nhiệm đề tài .

3


- Đề tài cấp Bộ năm 2005: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt
Nam” do đồng chí Nguyễn Văn Thảo - Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư
pháp làm chủ nhiệm đề tài.
- Luận văn thạc sỹ luật học “ Đánh giá chứng cứ , sử dụng chứng cứ
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự - những vấn đề lý luận thực tiễn” của tác
giả Nguyễn Thị Thúy Hà năm 2008 .
- Luận văn thạc sỹ luật học “ Hoàn thiện quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về thu thập chứng cứ” của tác giả Khúc Thị Hoàng Hạnh năm
2010
- Luận án tiến sỹ luật học“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành
nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hoài
năm 2003.
- Luận án tiến sỹ luật học: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Hoàng Thị Sơn, trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2003.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Thị Việt Hà, Khoa luật trường Đại học
quốc gia Hà Nội năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Người bào chữa, Người bảo vệ quyền lợi
cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự trên cơ sở thực
tiễn tại tỉnh Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thu Phương, Khoa luật trường Đại
học quốc gia Hà Nội năm 2015.
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Vai trò của luật sư - người bào chữa
trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Nguyễn Văn Phương, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm
2014.

4



- Luận án Tiến sỹ luật học : Hoạt động bào chữa của Luật sư …” của
tác giả Ngô Thị Ngọc Vân , trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016.
- Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Phạm Thế Hùng “Hoạt động của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội năm 2017.

Ngoài ra, một số sách chuyên khảo, tạp chí cũng đề cập đến chế định
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng Việt Nam như sách “ Chế định chứng
cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Tiến sỹ Trần Quang Thiệp , sách “
Chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cừ,
sách “Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự” của tác giả Đỗ Văn
Đương … Và một số đề tài được đề cập dưới dạng bài viết, chuyên đề, ý kiến
trong một số công trình nghiên cứu khoa học về TTHS; trong các bình luận
khoa học về TTHS; trong một số Luận văn của một số tác giả nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến nội dung: Các quy định pháp lý và thực tế hoạt động của
Luật sư trong TTHS ở Việt Nam nói chung và hoạt động của Luật sư trong
giai đoạn khởi tố điều tra hoặc giai đoạn xét xử vụ án. Nhưng lại chưa có đề
tài hay chuyên đề nào nghiên cứu sâu về “Hoạt động chứng minh của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ”.
Vì vậy, bằng đề tài này, tác giả với mong muốn được đề cập đến việc
nghiên cứu chi tiết nội dung quy định của Pháp luật, vị trí, vai trò, chức năng
của Luật sư trong TTHS ở Việt Nam; khái quát đánh giá những bất cập, khó
khăn phát sinh trong quá trình tác nghiệp của Luật sư trong giai đoạn truy tố
vụ án hình sự từ thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Để nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tác giả đã tham khảo những
công trình khoa học, những nghiên cứu mang tầm bao quát toàn bộ những vấn
đề lý luận cơ bản về chứng cứ và quá trình chứng minh vụ án hình sự trong
giai đoạn sơ thẩm nói riêng và trong tất cả các giai đoạn tố tụng nói chung.

5



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật và đánh
giá thực tiễn sự tham gia của Luật sư vào tố tụng hình sự nói chung và giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (trong
thời gian 05 năm từ năm 2013 đến năm 2018) luận văn đưa ra các giải pháp
hoàn thiện pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh của
Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn có những nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh
của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: Hoạt động
chứng minh của Luật sư, đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm .
- Nghiên cứu hoạt động chứng minh của Luật sư theo quy định của
pháp luật Việt Nam; có tham khảo với quốc tế.
- Đánh giá đúng thực tiễn hoạt động chứng minh của Luật sư trong
TTHS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
trong thời gian 5 năm (từ 2013 - 2018);
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS về hoạt động
chứng minh của Luật sư. Đồng thời, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của Luật sư, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của Luật sư trong tố


6


tụng hình sự Việt Nam nói chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
nói riêng.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động chứng minh của Luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở các Tòa Án Tỉnh Phú Thọ, để thấy
được luận văn tập trung nghiên cứu vai trò Luật sư với tư cách người bào
chữa, có trách nhiệm chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ tội cho bị
cáo. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Hoạt động tư pháp nói chung và công tác tư pháp hình sự nói riêng luôn
có những bất cập, hạn chế như: tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn còn bất hợp lý, chưa có sự phân định
chính xác, hợp lý giữa các chức năng cơ bản của tố tụng, từ đó dẫn đến việc
quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến
hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp.
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy, có những thẩm quyền thuộc
chức năng buộc tội nhưng Viện kiểm sát (cơ quan thực hiện chức năng buộc
tội) lại không được thực hiện, ngược lại, Tòa án (cơ quan thực hiện chức năng
xét xử) lại được giao thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội.
Còn thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng,
đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; ý kiến tranh
luận, tranh tụng của các Luật sư vẫn chưa thực sự được coi trọng; không ít bản
án, quyết định của Tòa án chưa dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên
Tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị hủy, sửa án còn chiếm tỷ lệ khá cao.
Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
đấu tranh, phòng, chống tội phạm, ảnh hưởng đến việc xây dựng một nền tư


7


pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh, bảo vệ công lý, ảnh hưởng đến quyền
bào chữa của bị can, bị cáo và đặc biệt là đã không tạo ra được cơ chế pháp lý
hữu hiệu để thúc đẩy các cơ quan tiến hành tố tụng tự hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả hoạt động của mình trước sự đối trọng, phản biện tích cực từ bên bào
chữa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
chứng minh của Luật sư với vai trò là người bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam tại địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
Về thời gian và địa bàn khảo sát: Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt
động của Luật sư trong trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh
Phú Thọ trong 05 năm (2013-2018) và những văn bản quy phạm pháp luật về
Luật sư và giai đoạn xét xử sơ thẩm theo tố tụng hình sự trong khoảng thời
gian từ năm 1987 đến năm 2018.
Nhìn từ góc độ lý luận, một tác giả Việt Nam đã quan niệm, trong tố
tụng hình sự, chức năng gỡ tội tồn tại song song với chức năng buộc tội như
là nhu cầu tất yếu khách quan. Khi chưa xác định ai là người thực hiện tội
phạm hoặc chưa bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì tố tụng hình sự
chưa xuất hiện chức năng bào chữa. Khi có người bị bắt và bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn là tạm giữ hoặc có người mặc dù không bị bắt và không áp
dụng biện pháp ngăn chặn nêu trên nhưng bị nghi là đã thực hiện hành vi
phạm tội thì trong tố tụng hình sự đã bắt đầu xuất hiện chức năng buộc tội và
chức năng gỡ tội.
Buộc tội trong tố tụng hình sự, được quan niệm là hành vi của cơ quan
tiến hành tố tụng, nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc
tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã được xác định. Chính bắt đầu


8


từ thời điểm này, trong tố tụng hình sự xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc
tội và bên bào chữa, đồng thời, quá trình tranh tụng được tiếp tục cho đến khi
tố tụng hình sự kết thúc... Tác giả còn đi đến khẳng định: “chức năng bào
chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc về cả bên buộc tội và cơ
quan xét xử nữa”.
Theo quan niệm của người viết, khi coi chức năng gỡ tội là đối trọng
của chức năng buộc tội, một phần xuất phát từ địa vị pháp lý và cách thức sử
dụng các biện pháp thực hiện chức năng khác nhau. Hơn nữa, chức năng buộc
tội được hậu thuẫn bởi các biện pháp cưỡng chế do Nhà nước đặt ra và trước
quyền lực cưỡng chế, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có nguy cơ bị
xâm hại. Do đó, quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa phải được coi
là điều kiện tất yêu cho việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng một cách công
bằng, tạo cơ hội cho người bị buộc tội khả năng tiếp cận với công lý và tố
tụng hình sự có được bản chất dân chủ của nó.
Vì thế, cần tạo môi trường pháp lý cho việc thực hiện chức năng gỡ tội,
thể hiện thông qua việc Nhà nước có biện pháp bảo đảm người bào chữa được
thực hiện các kỹ năng chuyên môn của họ mà không bị đe dọa, cản trở, quấy
rối hoặc can thiệp không đúng đắn, cũng như người dân có thể tiếp cận một
cách bình đẳng và hiệu quả đối với các dịch vụ pháp lý mà người bào chữa
cung cấp.
Vấn đề làm rõ nội hàm của khái niệm chức năng gỡ tội, cần được đặt
trong bối cảnh xác định mô hình tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay như
thế nào? Sự phân tích của nhóm tác giả đề tài khoa học nêu trên đã cho thấy
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng mô hình tố tụng hình sự của
một số nước trên thế giới và ở nước ta. Đây là xu hướng tiếp nhận, giao thoa
những yếu tố tích cực giữa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố

tụng hình sự tranh tụng, tiếp tục hoán thiện “mô hình pha trộn" theo hướng

9


thiên về tranh tụng hơn nữa. Nhóm tác giả này phản biệt giữa hai khái niệm
“nguyên tắc tranh tụng” và “mô hình tranh tụng” không đồng nhất với nhau
và cần mở rộng tối đa tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, coi đây là khâu đột
phá .Tuy nhiên, làm thế nào xác định đúng đắn các tiêu chí xây dựng mô hình
tố tụng và mức độ “pha trộn" kết hợp mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng
thẩm vấn, các nguyên tắc cơ bản của mô hình nói trên là một vấn để trọng tâm
cần giải quyết khi nghiên cứu xây dựng nội dung Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015.
Trong điều kiện Đảng và Nhà nước đang chủ trương xây dựng một nền
tư pháp dân chủ, đề cao việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc
bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong kiến thiết hệ thống cơ quan
tư pháp, việc nghiên cứu làm rõ hơn địa vị pháp lý và vai trò của người bào
chữa nhằm thực hiện chức năng gỡ tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn to lớn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin,Tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp
luật; về cải cách tư pháp.
Lý luận là lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận nhận
thức của duy vật lịch sử làm rõ bản chất lý luận, của phép biện chứng duy vật
vào quá trình thu thập kiểm tra và đánh giá chứng cứ, đây là cái xuyên suốt
nhất về nhận thức qua cặp phạm trù, do đó chúng ta sử dụng trong quá trình
chứng minh, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ như vậy rõ ràng để muốn

nhận thức phải có nguyên nhân kết quả phủ định của phủ định. Như vậy để
khẳng định không có cái gì hoàn hảo, nhưng cũng không có cái gì tiêu

10


cực hoàn toàn, cái quan trọng là chúng ta sử dụng nó vào mục đích của chúng
ta như thế nào, phương pháp biện chứng thông qua các cặp phạm trù cơ bản
để sử dụng chứng minh.
Xuất phát từ nguyên lý thế giới thống nhất vật chất luôn luôn vận động
và thay đổi, mọi sự vận động có sự liên hệ phổ biến xác lập nhau, nếu như
không có sự thống nhất đó thì không thể chứng minh được.
Vì vậy chứng minh trong biện chứng duy vật phải toàn diện, đó là
nguyên tắc đó là phương pháp luận chung nhất, chỉ đạo không nghỉ của chủ
thể chứng minh, chủ thể chứng minh đặt trong mối quan hệ phải xem xét tất
cả mọi khi các yếu tố bao gồm cả tình tiết sự kiện quan điểm phương pháp
luận chứng minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, phân tích, ổtng hợp, lịch sử, so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương
pháp logic, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, phương pháp nghiên cứu tài
liệu, bản án, hồ sơ vụ án, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia, phương
pháp vụ việc điển hình ...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận về sự tham gia
của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
nói riêng.
Về phương diện lý luận, cần quan tâm đặt chức năng gỡ tội trong mối
quan hệ với vấn đề bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, cũng

như cố gắng giải quyết những vướng mắc trong tổng thể vận hành chung của
cả hệ thống tư pháp, giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng khác.
Thực tiễn những năm đổi mới, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp vừa qua,

11


có thể thấy rõ sự lúng túng giữa sự đi trước về mặt lý luận khoa học pháp lý và
nhận thức với thực trạng cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật và những bất cập
đối với sự tham gia của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng hình sự.
Điều này dẫn đến bức xúc trong dư luận, có ảnh hưởng đến niềm tin vào tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hạn chế, liên quan đến việc thực hiện
chức năng gỡ tội chính là việc xác định địa vị pháp lý của người bào chữa theo
quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và trong các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn
còn nhiều hạn chế, thể hiện chủ yếu trên các phương diện sau đây:

Thứ nhất, xét về mặt chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội do pháp luật tố
tụng xác định người bào chữa chỉ là người tham gia tố tụng và phạm vi hoạt
động thuộc lĩnh vực “ Bổ trợ tư pháp”, nên thực chất người bào chữa chỉ được
coi là người trợ giúp pháp lý mang tính bị động, ảnh hưởng rất nhiều đến việc
hành nghề một cách bình đẳng và độc lập.
Thứ hai, về mặt xã hội, do chưa được thừa nhận là một chức danh tư
pháp độc lập nên vai trò của người bào chữa nói chung. Luật sư nói riêng
trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong cải cách tư pháp bị hạn chế.
Thứ ba, thực chất quan niệm coi hoạt động của người bào chữa thuộc
phạm vi “bổ trợ tư pháp” xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của người bào
chữa thường gắn chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
của Tòa án.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có tác dụng đóng góp một phần việc
bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động chứng minh của
Luật sư trong TTHS nói chung và giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói
riêng; đồng thời giúp cho cơ quan và người tiến hành tố tụng hình sự cũng
như Đoàn luật sư tỉnh Phú Thọ, cá nhân các Luật sư phát huy các kết quả đã

12


đạt được, khắc phục các hạn chế thiếu sót trong TTHS, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của Luật sư trong tố tụng hình sự.
Ngoài ra, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho không chỉ các nhà lập
pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các Luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được
khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
Xuất phát từ thực tiễn như vậy, đi đến tận nơi để xác nhận chứng cứ
xem có phải là đúng hay không, đòi hỏi phát điển hóa trong chứng minh làm
hoàn thiện pháp luật từ nguồn chứng cứ để coi chứng minh có không và có
đầy đủ chứng cứ không, có đủ ba thuộc tính chứng minh hay không nếu nó vi
phạm quy định của luật tố tụng hình sự về trình tự và tính hợp pháp mặc dù
nó nằm hồ sơ nhưng tính hợp và không hợp pháp được coi là chứng cứ khi
nào, và không coi là chứng cứ khi nào.
Lời khai nhận tội của người phạm tội, bị can trong giai đoạn xét xử mà
không có sự tham gia của người bào chữa hoặc từ chối người bào chữa thì
không coi là chứng cứ, trừ trường hợp tranh tụng tại phiên tòa không nhận lời
khai, có tự nguyện không bị cưỡng ép bức cung và họ khai đúng sự thật thì đó
coi là chứng cứ vì khai lời khai có giám sát cơ sở.
Mặc dù ưu tiên nhiều nhưng vì Luật sư chưa đạt được nhiều về số

lượng chứng cứ, chứng minh để lời khai được khách quan thì điều tra viên có
được phép mời Luật sư vào bản khai cuối cùng tham gia, nếu như vậy thì
mang tính khả thi không cao mà lại đi phát điển hóa không thi hành được thì
các cơ quan điều tra liên quan tới tố tụng đã hoàn thiện hồ sơ.
Nếu lời khai không có Luật sư thì ra tòa lại thành lời khai chưa có sự
thuyết phục, bởi trong khi lấy lời khai bị mớm cung hoặc đánh đập tra tấn
mặc dù trước đây nhận tội rồi sao có Luật sư thì khai thật và khi có phiên tòa
lại thấy khác lời khai nhận tội phù hợp là căn cứ kết tội.
Tranh thủ tại phiên tòa phải lấy bằng phương pháp khác, lời khai nhận

13


tội phải khách quan, lời khai nhận tội phải kiểm tra rất cụ thể tại phiên tòa, lấy
lời khai để làm chứng để làm căn cứ chứng minh.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã cho chúng ta những
bài học về chứng cứ, chứng minh. Cho nên việc đánh giá chứng cứ, thu thập
chứng cứ, kiểm tra chứng cứ xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự, thậm
chí từ tin báo tội phạm, cho đến bản án của tòa có hiệu lực pháp luật nhưng nó
còn giai đoạn chứng minh, ngấm ngầm chứng minh, thậm chí bản án xử đúng
rồi nhưng vẫn chứng minh con người thực khi bản án đó không còn nguy
hiểm cho xã hội để được tha tù, đại xá sớm. Nếu lý luận không thực tiễn thì lý
luận suông, thực tiễn không lý luận thì lý luận mù quáng, ai cũng phải nói đến
lý luận nhưng không phải ai cũng phải làm.
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt
động chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
tỉnh Phú Thọ, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm
về trí tuệ, nhận thức, tri thức về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình
sự tại Việt Nam.
7.


Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của Luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Qui định của pháp luật và thực tiễn hoạt động chứng minh
của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tại tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
chứng minh của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

14


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư trong GĐXXST
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng “hoạt động” là “ làm những việc
khác nhau với mục đích nhất định trong xã hội” ; “chứng minh ” là “Dùng lý
lẽ suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay không đúng .” Như vậy
theo nghĩa thông thường, hoạt động chứng minh của Luật sư được hiểu là hoạt
động trí tuệ, tư duy hay thực tiễn của con người, có mục đích xác định sự tồn
tại hay không tồn tại, hoặc là đúng sai của một sự vật, hiện tượng trên cơ sở
của những căn cứ, chứng cứ nhất định.
Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp không vi phạm
pháp luật để chứng minh sự thật của vụ án. Các sự việc xảy ra luôn để lại

những “dấu vết” trong thế giới khách quan, được con người và môi trường vật
chất phản ánh lại. Quá trình chứng minh vụ án hình sự thực chất là quá trình
con người nhận thức về sự kiện phạm tội đã xảy ra, thông qua việc thu thập,
phân tích, đánh giá những thông tin về vụ án. Trong khoa học pháp lý hiện
đang tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm chứng
minh tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ nhất cho rằng : “ Quá trình chứng minh là quá trình
nhận thức các sự kiện , các tình tiết vụ án hình sự”{63,tr.330}
Quan điểm thứ hai cho rằng : “ Quá trình chứng minh là quá trình nhận
thức các sự kiện, các tình tiết vụ án thông qua các chứng cứ”{5,tr.164}

15


Quan điểm thứ ba cho rằng : “ Chứng minh tội phạm là thu thập , kiểm
tra , đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội ”{51,tr.161}
Mỗi quan điểm nêu trên, đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất
định nhưng chưa nêu được đầy đủ các yếu tố của quá trình chứng minh trong
TTHS như: chủ thể chứng minh, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng
minh và cơ sở pháp lý để tiến hành các hoat động chứng minh…
Theo quan điểm của các tác giả giáo trình luật TTHS Việt Nam của
trường Đại học Luật Hà Nội thì quá trình chứng minh trong TTHS được hiểu
như sau: “ Quá trình chứng minh là quá trình của cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án và những người có quyền chứng minh dựa trên cơ sở các qui định
của pháp luật TTHS,các thông tin tư liệu cần thiết nhằm xác định sự thật
khách quan của vụ án đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn , khách quan vụ
án”.{53.tr.183}
Khái niệm trên đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của
quá trình chứng minh trong TTHS như chủ thể chứng minh, phương tiện

chứng minh, thủ tục chứng minh, mục đích chứng minh và nội dung hoạt
động của chứng minh.
Xét xử vụ án hình sự nói chung, xét xử sơ thẩm nói riêng được coi là
một giai đoạn quan trọng của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự “ Xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có
thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng
theo qui định của pháp luật”{53.tr.343}
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ khi tòa án nhận hồ sơ
cùng với bản cáo trạng ( hoặc quyết định truy tố bị can) do Viện kiểm sát
chuyển đến và kết thúc vụ án khi Tòa án ra bản án. Tính chất của giai đoạn xét
xử sơ thẩm làm cho hoạt động chứng minh trong, giai đoạn này có những

16


điểm khác biệt so với hoạt động chứng minh trong các giai đoạn tố tụng khác.
Chức năng của Luật sư trong vụ án hình sự là “gỡ tội”, “ buộc tội” chức năng
“gỡ tội” đối lập chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, để thực hiện chức năng
gỡ tội cho bị cáo Luật sư phải thực hiện hoạt động chứng minh .
Hoạt động chứng minh của Luật sư khác với viện kiểm sát, nếu như viện
kiểm sát đưa ra chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo thì Luật sư
đưa ra chứng cứ, chứng minh bị cáo không có tội hoặc chứng minh với việc
đưa ra các tình tiết có lợi cho bị cáo, nhằm làm giảm tội cho bị cáo…
Do vậy Luật sư muốn thực hiện việc chứng minh cho sự vô tội, giảm
tội… của thân chủ thì phải có quyền thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ nên Luật sư cần nghiên cứu những dấu hiệu đặc trưng của
hoạt động chứng minh, mục đích chứng minh, đối tượng, giới hạn của hoạt
động chứng minh. Để có thể hình thành khái niệm đầy đủ, chính xác về hoạt
động chứng minh cần làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất : Chủ thể chứng minh

Chủ thể chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
kiểm sát viên, thẩm phán, và hội thẩm, người bào chữa. Người tham gia tố
tụng khác cũng tham gia vào các hoạt động chứng minh, do các chủ thể chứng
minh tiến hành nhưng họ không không có nghĩa vụ chứng minh. Theo quy
định của điều 10 BLTTHS năm 2003 thì “ Cơ quan điều tra , Viện kiểm sát và
Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan , toàn diện và đầy đủ …Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can , bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội”
Thẩm phán và hội thẩm tiến hành hoạt động chứng minh từ giai đoạn
chuẩn bị xét xử, thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá các chứng cứ đã
thu thập được trong các giai đoạn trước đó, hoạt động kiểm tra đánh giá

17


chứng cứ là hoạt động độc lập của từng thành viên, hội đồng xét xử thẩm
phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử độc lập với nhau và độc lập với các
chủ thể khác trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận về vụ
án.
Kiểm sát viên cũng có trách nhiệm chứng minh trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự khi tham gia phiên tòa để thực hiện chứng năng buộc
tội và kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm sát viên có quyền yêu cầu HĐXX triệu
tập thêm người làm chứng và yêu cầu đưa thêm vật chứng vào tài liệu xem
xét. Thông qua hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, kiểm sát viên phải
kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ chứng minh cho những tình tiết liên
quan đến việc buộc tội được dùng làm căn cứ cho quan điểm luận tội của
mình .
Luật sư là người tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các bên tham gia theo TTHS, Luật sư tham gia nghiên cứu hồ sơ, phát hiện sai

sót, vi phạm trong quá trình tố tụng, tham gia tranh luận làm sáng tỏ sự thật
của vụ án.
Thứ hai : Phương tiện chứng minh
Tội phạm là một hiện tượng tồn tại khách quan, trong mối quan hệ tác
động qua lại với các sự vật khác. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập
và chứng minh một cách hợp pháp và sử dụng để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án thì chúng trở thành chứng cứ trong vụ án hình sự. Về bản chất, chứng cứ
chính là những thông tin phản ánh hành vi phạm tội, những thông tin này
chứa đựng bằng những hình thức khác nhau mà khoa học luật TTHS gọi là
nguồn chứng cứ “ Chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành
tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự”
+ Chứng cứ có các thuộc tính sau:

18


- Tính khách quan : “ Chứng cứ là những gì có thật ” tồn tại khách quan
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Các thông tin, tài liệu,
đồ vật về vụ án đã làm sai lệch không phản ánh đúng hiện thực khách quan thì
không phải là chứng cứ, tính khách quan là thuộc tính không thể thiếu của
chứng cứ bởi sự thật được sử dụng để thực hiện điều đó phải đảm bảo tính
khách quan.
- Tính liên quan : Những thông tin, tài liệu, đồ vật dù có thật nhưng
không có liên quan đến vụ án thì không được coi là chứng cứ. Tính liên quan
của chứng cứ thể hiện ở việc chứng cứ đó trực tiếp hoặc gián tiếp xác định các
tình tiết của đối tượng chứng minh. Chỉ những thông tin, tài liệu, đồ vật
được “ Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội
cũng như những tình tiết khác cần thiết khác cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án ” mới liên quan đến vụ án.

- Tính hợp pháp : Tính hợp pháp của chứng cứ, đòi hỏi chứng cứ phải
được thu thập, kiểm tra đánh giá theo trình tự, thủ tục luật định và phải được
xác định bằng nguồn tương ứng theo qui định của pháp luật.
+ Chứng cứ được xác định bằng những nguồn sau :
- Vật chứng : Là vật thể chứa đựng các thông tin có ý nghĩa đối với việc
giải quyết vụ án, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS qui
định :
- Lời khai, lời trình bày : Là lời trình bày của những người tham gia tố
tụng về những tình tiết có liên quan đến vụ án.
- Dữ liệu điện tử : là các phương tiện để ghi âm ghi hình có liên quan
trực tiếp tới vụ án
- Kết luận giám định, định giá tài sản “ là đánh giá cụ thể bằng văn bản
của người có trình độ chuyên môn về vấn đề khoa học, kỹ thuật tương ứng

19


liên quan đến vụ án hình sự được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu” đây là
nguồn chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh cao nhất.
- Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án; Trong quá trình gải quyết vụ án hình sự,có rất nhiều hoạt động tố tụng
được tiến hành và khi tiến hành các hoạt động này theo quy định của
BLTTHS, các cơ quan tiến hành TTHS đều phải lập biên bản, ngoài ra các cơ
quan tố tụng có thể nhận được các tài liệu, đồ vật do cơ quan tổ chức cá nhân
cung cấp, tất cả các thông tin được ghi, thể hiện trong các biên bản tố tụng, tài
liệu đồ vật đó đều có thể coi được là những chứng cứ nếu thoả mãn đầy đủ
các thuộc tính của chứng cứ.
- Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
- Các tài liệu, đồ vật khác
+ Phương tiện chứng minh: trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự không chỉ giới hạn trong những chứng cứ đã thu thập từ những giai đoạn tố
tụng trước có trong hồ sơ vụ án, mà còn bao gồm cả những chứng cứ mới thu
thập trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa.
Thứ ba : Mục đích chứng minh:
Mục đích của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, nhằm chỉ ra mục đích cơ bản của quá trình chứng minh trong
TTHS. Đó là xác dịnh sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, do đó góp phần thực hiện nhiệm
vụ của TTHS bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ các
quyền lợi, lợi ích cơ bản của công dân và tổ chức .
Tuy nhiên, mỗi giai đoạn tố tụng đều có nhiệm vụ riêng, được quyết
định bởi mục đích cụ thể của hoạt động chứng minh trong giai đoạn tố tụng
đó, trong các giai đoạn khởi tố hoạt động chứng minh nhằm xác định có hay
không, có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết

20


×