Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

ĐIỀU TRA vụ án THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM từ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.62 KB, 137 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HẢI ĐĂNG

ĐIỀU TRA VỤ ÁN THAM NHŨNG
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Các
số liệu, ví dụ cùng trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ HẢI ĐĂNG


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN THAM
NHŨNG ......................................................................................................................... 9
1.1 Một số vấn đề lý luận về tội phạm tham nhũng ....................................................... 9
1.2. Lý luận về điều tra vụ án tham nhũng................................................................... 18
Chương 2: THỰC TIỄN ĐIỀU TRA VỤ ÁN THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI............................................................................................... 38
2.1. Những đặc điểm có liên quan đến điều tra vụ án tham nhũng trên địa bàn thành
phố Hà Nội .................................................................................................................... 38
2.2. Khái quát tình hình tội phạm tham nhũng địa bàn thành phố Hà Nội ................... 44
2.3. Thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng trên địa bàn thành phố Hà Nội.................... 47
2.4. Nhận xét, đánh giá hoạt động điều tra vụ án tham nhũng trên địa bàn thành phố
Hà Nội ........................................................................................................................... 58
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
THAM NHŨNG TRÊN ĐIẠ BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................... 67
3.1. Các yêu cầu trong điều tra xử lý các tội phạm tham nhũng ................................... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật............................................................................... 70
3.3. Giải pháp tăng cường năng lực điều tra vụ án hình sự .......................................... 73
3.4. Giải pháp khác........................................................................................................ 75
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 80


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ luật hình sự


BLTTHS

:

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

CSĐT

:

Cảnh sát điều tra

KSV

:

Kiểm sát viên

TAND

:

Tòa án nhân dân

TTHS


:

Tố tụng hình sự

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

VKS

:

Viện Kiểm sát

Bộ luật tố tụng hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu
Bảng 2.1.
Bảng 2.2.
Bảng 2.3.
Bảng 2.4.
Bảng 2.5.
Bảng 2.6.

Tên bảng
Tình hình tội phạm tham nhũng tại thành phố Hà Nội

Tình hình tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo tội phạm
tham nhũng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Tình hình giải quyết tin báo, tố giác và khởi tố vụ án hình
sự
Số đối tượng bị khởi tố bị can
Công tác bắt giữ tội phạm tham nhũng của CQĐT Công
an thành phố Hà Nội
Kết quả điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng trên địa bàn
thành phố Hà Nội

Trang
44
47
50
50
54
57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1


Những năm gần đây, tội phạm tham nhũng đang diễn biến phức tạp, nghiêm
trọng và ngày càng gia tăng cả về số vụ án, số lượng và đặc biệt là đa dạng về
phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm. Đối tượng tham gia phạm tội là
những người có trình độ chuyên môn cao, có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan,
tổ chức, đơn vị nhà nước; các đối tượng này lợi dụng chức vụ quyền hạn để đạt

được mục đích lợi ích của mình, hoạt động theo băng nhóm và đường dây, khi bị
phát hiện hành vi phạm tội thì chúng thường bao che cho nhau và tìm cách xóa, lấp
hồ sơ để hợp thức hóa hành vi phạm tội của mình, chúng sử dụng chức năng, quyền
hạn của mình như một công cụ hữu hiệu để phạm tội; vì vậy gây khó khăn cho quá
trình điều tra làm rõ của các lực lượng chức năng. Có thể nói, tham nhũng là một
hiện tượng tiêu cực của xã hội và mang tính lịch sử. Tội phạm tham nhũng được
hình thành, phát triển gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của
bộ máy nhà nước. Không những chỉ ở Việt Nam mà tội phạm tham nhũng diễn ra ở
tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt điều kiện kinh tế - xã hội và chế độ
chính trị. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định tội phạm tham
nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm cao độ, trở thành một trong những nguy cơ
lớn làm cản trở sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
Tội phạm tham nhũng diễn ra thường xuyên và luôn tồn tại ở mọi lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Đây là loại tội phạm gây hậu quả hết sức nguy hại về mặt
kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, chính trị và là tác nhân gây cản trở sự phát triển đi
lên của xã hội, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế đất nước. Chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đẩy mạnh, xử lý nghiêm, triệt để loại tội
phạm này. Chủ trương này đã thể hiện rõ trong các Văn kiện của Đảng qua các thời
kỳ khác nhau.
Vì vậy, đấu tranh chống tội phạm nói chung, đặc biệt là các tội phạm tham
nhũng nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất hậu quả tác hại của loại tội phạm này; đồng thời để đảm bảo cho
uy tín, hoạt động đúng đắn của các cơ quan tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền và

2


lợi ích hợp pháp của công dân Đảng, Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
thường xuyên, liên tục và đồng bộ: hệ thống pháp luật về phòng chống tham nhũng,
đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng đã được Nhà nước ban hành ngày

càng hoàn thiện, đồng bộ nhằm tạo cơ sở, hành lang pháp lý đầy đủ cho việc thực
thi hiệu quả; tăng cường thẩm quyền điều tra các vụ án tham nhũng, tăng cường đầu
tư các trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho các lực lượng điều tra vụ án tham nhũng…
Hàng năm các lực lượng chức năng trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung,
cũng như trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng đã phát hiện bắt giữ, xử lý hàng
trăm vụ án tham nhũng, triệt phá nhiều đường dây tham nhũng lớn hoạt động nhiều
năm, xóa nhiều mắt xích móc nối với nhau phức tạp, làm nhiều vụ án điểm và thay
đổi tình hình ở một số địa bàn trên cả nước; các cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra
xét xử nghiêm minh một lượng vụ án tham nhũng lớn. Thông qua đó đã góp phần
nâng cao uy tín, đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân và nâng
cao nhận thức của nhân dân đối với công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
tham nhũng. Bên cạnh đó, lực lượng Công an thành phố Hà Nội cũng đã luôn tập
trung đề cao trách nhiệm trong thực hiện thẩm quyền điều tra các vụ án tham nhũng,
thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, phối hợp với nhân dân địa bàn thực hiện tốt
trong công tác phòng, chống tội phạm tham nhũng, do đó trong thời gian qua lực
lượng Công an thành phố Hà Nội cũng đạt được nhiều thành tích trong công cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng, hạn chế mức tối đa sự gia tăng của
tội phạm này.
Tuy vậy, mặc dù các cơ quan chức năng đã tăng cường các biện pháp để đấu
tranh với tội phạm tham nhũng nhưng trước sự phát triển nhanh chóng của đời sống
kinh tế - xã hội, cùng với một số đối tượng cán bộ thoái hóa về đạo đức, tư tưởng,
lối sống nên đã làm cho tình hình tội phạm tham nhũng không có chiều hướng suy
giảm. Bên cạnh đó công tác điều tra các vụ án tham nhũng phải có sự chỉ đạo,
hướng dẫn sâu sát, các cán bộ chiến sỹ làm công tác điều tra phải nắm vững các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự, có trình độ chuyên môn và kỹ năng kinh nghiệm
cao, nắm bắt tình hình diễn biến của tội phạm kịp thời. Công tác điều tra các tội
phạm tham nhũng đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, cơ quan,

3



tổ chức trên địa bàn và tăng cường sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có hiệu lực cũng đã bổ sung một số quy định
quan trọng liên quan đến quy trình tố tụng nói chung và điều tra vụ án tham nhũng
nói riêng. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn áp dụng thống nhất áp dụng pháp luật về
tố tụng hình sự, thẩm quyền điều tra và các biện pháp nghiệp vụ điều tra theo quy
định mới còn chưa được hướng dẫn, ban hành kịp thời, chưa đồng bộ, thống nhất
cũng dẫn tới những khó khăn nhất định cho các cơ quan chức năng thực hiện điều
tra vụ án tham nhũng. Các cơ quan tham gia, phối hợp vào quá trình điều tra còn
chưa thực sự nhận thức về trách nhiệm, vai trò của mình, chưa thực sự phát huy hết
năng lực của bản thân. Mặt khác, lực lượng cán bộ điều tra vụ án tham nhũng còn
mỏng về số lượng, trang thiết bị và công cụ hỗ trợ điều tra, nghiệp vụ còn hạn chế;
chính sách khen thưởng, động viên đối với các cán bộ điều tra còn chưa tương xứng.
Từ những phân tích trên cùng với nhận thức thực tiễn của mình, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Điều tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tại Luận văn thạc sĩ luật học, với
mong muốn góp phần hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và nâng
cao hiệu quả công tác điều tra vụ án tham nhũng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đối với các đề tài liên quan đến tham nhũng đến nay cũng khá nhiều công
trình khoa học nghiên cứu. Mỗi bài viết và công trình nghiên cứu khoa học lại thể
hiện rõ ở một góc độ nghiên cứu riêng và từng giai đoạn phát triển của nền tố tụng
hình sự theo chuyển biến của thời gian. Một số bài viết, công trình nghiên cứu khoa
học liên quan như: Trần Hoàng Tuấn:“Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động điều tra các vụ án về tham nhũng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn
thạc sĩ luật học, năm 2015, Học Viện khoa học xã hội; Hải Đăng: “Những khó khăn
vướng mắc về giám định tư pháp trong giải quyết một số vụ án tham nhũng”, nxb
Hà Nội năm 2014; Lê Hồng Liêm: “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với
phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay”, nxb Chính trịnh Quốc gia sự thật,
năm 2011; Nguyễn Văn Sỹ: “Bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng ở Việt Nam

hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, 2018, Học Viện khoa học xã hội; Tạ Thu Thủy:

4


“Vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, Luận
án tiến sĩ luật học, năm 2018, Học viện khoa học xã hội; Trần Quốc Trung: “Giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các tội phạm tham
nhũng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh”, Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự, năm 2018, Học viện khoa
học xã hội; Nguyễn Văn Hải, Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với
việc thực hiện nhiệm vụ điều tra tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt
động tư pháp, Tạp chí Kiểm sát. Số 24/2015, tr. 31 - 36, 57.
Đỗ Anh Tuấn, Giải pháp phòng ngừa oan sai trong điều tra các vụ án tham
nhũng, Tạp chí Thanh tra. Số 9/2016, tr. 16 - 17.
Trần Đức Hiền, Vũ Thanh Tùng, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng của lực lượng công an nhân
dân, Tạp chí Kiểm sát. Số 24/2015, tr. 42 - 47.
Dương Ngọc Hải, Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án tham nhũng, Tạp chí Kiểm sát. Số
24/2015, tr. 48 – 52; Hoàng Thế Hanh, Một số vấn đề cơ bản để bảo đảm chất
lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra các vụ án
tham nhũng, Tạp chí Kiểm sát. Số 16/2015, tr. 52 – 57; Dương Văn Phùng, Nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án tham nhũng, Tạp chí Kiểm sát. Số Xuân/2013, tr. 28 – 34; Dương Văn Phùng,
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử các vụ án tham nhũng, Tạp chí Kiểm sát. Số 24/2015, tr. 12 – 18; Lê
Hữu Ngọc, Nguyên nhân thời gian điều tra các vụ án tham nhũng, chức vụ thường
kéo dài, phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần và giải pháp khắc phục, Tạp
chí Kiểm sát. Số 02/2018, tr. 31 – 34; Châu Long, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú

yên nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử án tham nhũng, Tạp chí Kiểm sát. Số Tân Xuân/2012, tr. 33 38. Bên cạnh đó còn một số công trình nghiên cứu khác, tuy nhiên, chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng quát, sâu sắc về hoạt động điều
tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố tụng hình sự tại địa bàn thành phố Hà Nội.

5


Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Điều tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, đây là đề tài có tính mới và rất
cần thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn hện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận cùng với đánh giá đúng thực tiễn về
điều tra các vụ án tham nhũng của lực lượng Cảnh sát điều tra Công an thành phố
Hà Nội, luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án tham nhũng, khắc phục
những vướng mắc, bất cập trong hoạt động điều tra vụ án tham nhũng trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn phải thực hiện một số
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tội phạm tham nhũng, những vấn đề lý
luận về điều tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, như làm
rõ các dấu hiệu pháp lý của tội phạm tham nhũng; làm rõ khái niệm, đặc điểm về
điều tra vụ án tham nhũng; những vấn đề cần chứng minh trong vụ án tham nhũng,
trình tự, phương pháp tiến hành hoạt động điều tra vụ án tham nhũng theo tố tụng
hình sự Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2014-2018;

phân tích làm rõ những bất cập, vướng mắc, khó khăn, hạn chế, yếu kém và nguyên
nhân của nó trong quá trình điều tra vụ án tham nhũng của cơ quan Công an trên địa
bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2018.
- Từ việc đánh giá thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng trên địa bàn thành
phố Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và các
giải pháp khác nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án tham nhũng trên địa bàn
thành phố Hà Nội.

6


4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, những quy định
của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam về tội phạm tham nhũng và điều
tra vụ án tham nhũng và thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam của lực lượng Công an nhân dân trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2014 - 2018.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Điều tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam được
giới hạn hiểu theo nghĩa là “hoạt động điều tra” vụ án tham nhũng theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hà Nội. Trong
giới hạn của luận văn không chỉ nghiên cứu trong giai đoạn điều tra mà bao gồm cả
hoạt động điều tra ban đầu (từ thời điểm CQĐT Công an thành phố Hà Nội tiếp
nhận tin báo, tố giác, xử lý thông tin ban đầu về tội phạm tham nhũng) cho đến khi
CQĐT ban hành kết luận điều tra, đề nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc ra quyết định
đình chỉ điều tra.
- Cơ sở pháp lý: Cơ sở pháp lý của luận văn là các quy định pháp luật về hoạt
động điều tra vụ án tham nhũng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, và các quy định pháp luật về tội phạm tham nhũng trong Bộ

luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017.
- Về không gian: Luận văn giới hạn địa bàn nghiên cứu là địa bàn thành phố
Hà Nội, tức là giới hạn phạm vi điều tra các vụ án tham nhũng diễn ra trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu các vụ án tham nhũng được điều tra
trong giới hạn thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy
vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan

7


điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách
hình sự, về cải cách tư pháp thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp mà luận văn được sử dụng cụ thể trong quá trình nghiên
cứu kết hợp với việc sử dụng các phương pháp khác như phương pháp lý luận,
phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh… được sử dụng để làm rõ những vấn
đề lý luận chung về điều tra vụ án tham nhũng theo pháp luật tố tụng hình sự ở
Chương 1 của luận văn.
Ở Chương 2 của luận văn về vấn đề thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng theo
quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội tác giả
sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu tài liệu, hồ sơ vụ án,
phương pháp nghiên cứu điển hình, phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, đối
chiếu, suy luận, logic …

Phương pháp đánh giá thực tiễn, phân tích, suy luận logic… tác giả sử dụng
để đưa ra các kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án tham nhũng
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc nghiên cứu thành công luận văn là cơ sở cho việc bổ sung hoàn thiện
hơn về vấn đề lý luận trong tội phạm tham nhũng nói chung, điều tra vụ án tham
nhũng nói riêng, xác định rõ hơn về những vấn đề cần chứng minh trong vụ án tham
nhũng, trình tự, phương pháp tiến hành hoạt động điều tra vụ án tham nhũng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những tài liệu tham khảo hữu
ích cho các CQĐT trong việc nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án tham nhũng nói
riêng, điều tra các vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu thành công của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy trong các trường nghiệp vụ của ngành luật, trong

8


thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng cũng như trong học tập, nghiên cứu về hoạt
động điều tra tội phạm tham nhũng, góp phần nâng cao hiệu quả trong điều tra vụ
án tham nhũng ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm bốn phần là mở đầu, nội dung, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều tra vụ án tham nhũng.
Chương 2: Thực tiễn điều tra vụ án tham nhũng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra các vụ án tham nhũng trên địa
bàn thành phố Hà Nội.


9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN THAM NHŨNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về tội phạm tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tội phạm tham nhũng
Hiện nay, vấn đề tham nhũng không còn là vấn đề của riêng một quốc gia mà
đã trở thành một vấn đề toàn cầu. Không một nước nào miễn dịch với tham nhũng,
các nước phát triển, đang phát triển hay kém phát triển, tuy nhiên tham nhũng
dường như xâm hại tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển, nền kinh tế đang
chuyển đổi [20]. Tham nhũng đã ngăn cản sự vượt qua những thách thức cho sự
phát triển, đầu tư trong nước và ngoài nước, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối
với Chính phủ và thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một chế độ.
Tham nhũng thường gắn với yếu tố quyền lực, khi một người được giao nắm
giữ quyền lực trong tay, thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao trong hoàn cảnh cụ
thể thì những người đó đã thực hiện những hành vi trái với quy định của pháp luật,
được luật hình sự bảo vệ, xâm phàm đến những hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức, Nhà nước, xã hội nhằm mục đích vụ lợi cho cá nhân [46].
Để đưa ra một khái niệm về tội phạm tham nhũng chính xác thì trước hết cần
tìm hiểu về khái niệm tham nhũng. Trong khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay
còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tham nhũng và tội phạm tham
nhũng.
Theo từ điển Tiếng Việt:“tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng
nhiễu nhân dân lấy của dân” [56, tr.1523].
Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu cũng đã đưa ra khái niệm về tham
nhũng như sau:“tham nhũng bao gồm hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác
của những người được giao thực hiên một trách nhiệm nào đó trong khu vực Nhà
nước hoặc tư nhân nhưng đã vi phạm về trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một
lợi ích bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc cho người khác” [54, tr.42].

Trên thực tế ở Việt Nam ta hiện nay cũng có nhiều quan điểm về tham nhũng
khác nhau, cũng nhiều quan điểm cho rằng tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn này để nhằm mục đích vụ lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh: lúc sinh thời người đã nhận thấy mầm mống của tệ
nạn tham nhũng trong chính quyền cách mạng và Người kiên quyết đấu tranh với tệ
nạn này, “tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tư
10


lợi ích kỷ hại nhân dân mà ra, dó do chế độ người boc lột người mà ra” [26, tr.94].
Hồ Chí Minh cũng đã từng nói tham ô là biểu hiện đặc trưng của tham nhũng. Đồng
thời Hồ Chí Minh cũng khẳng định “tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê
tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm đoạt của công làm của
tư” [27, tr.94].
Ths. Đinh Văn Quế cũng đưa ra định nghĩa tham nhũng: “Tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân và lấy của. Các tội phạm tham nhũng là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người
có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến tài sản, uy tín của
các cơ quan, tổ chức, xâm phạm đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân” [30].
Theo GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình, TS. Bùi Minh
Thanh cho rằng: “Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử, xuất
hiện và tồn tại trong xã hội phân chia giai cấp và hình thành Nhà nước, được thể
hiện bằng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cho cá nhân hoặc người
khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, của tập thể, của
công dân hoặc đe dọa gây thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” [55, tr.26].
GS.TSKH. Phạm Xuân Sơn và Ths. Hoàng Thế Lực: “Tham nhũng là một
hiện tượng xã hội, trong đó có các tổ chức, tập đoàn, cá nhân … lợi dụng những ưu
thế về chức vụ, cương vị, uy tín, nghề nghiệp, hoàn cảnh của mình hoặc người khác,

lợi dụng những sơ hở của pháp luật để trục lợi bất chính” [45, tr.37].
Nhìn chung các quan điểm đưa ra định nghĩa tham nhũng đã bao quát được
một cách đầy đủ về bản chất của tham nhũng.
Văn bản pháp lý chuyên biệt đầu tiên của nước ta về chống tham nhũng đó là
Pháp lệnh Chống tham nhũng ngày 26/2/1998. Trong đó, tại Điều 1 đã xác định:
“Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây
thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng
đắn của các cơ quan, tổ chức” [52].
Theo Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng đã định nghĩa: “Tham
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi. Người có chức vụ quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức;
11


Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại
diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực hiện
nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó” [40].
Từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trên về tham nhũng thì có thể
thấy khái niệm tham nhũng được hiểu theo nghĩa chung nhất đó là “tham nhũng là
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi”.
Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình
sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét nhất về bản chất giai
cấp, đặc điểm về chính trị, xã hội cũng như về quy pháp pháp luật hình sự của mỗi
nước. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, vì vậy khái niệm của nó sẽ gắn liền với sự
phát triển của xã hội. Trong bối cảnh hiện nay việc hoàn thiện quy định về tội phạm
trong luật hình sự nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng là điều hết sức cần

thiết. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 sửa đổi, bổ sung đã đưa ra định nghĩa khá
hoàn thiện về tội phạm, được quy định tại Điều 8 của BLHS “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [36].
Tuy nhiên Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 không đưa
ra định nghĩa về tội phạm tham nhũng, nhưng căn cứ vào quy định về khái niệm tội
phạm và các quy định về các tội phạm tham nhũng tại Mục 1 Chương XXIII thì
chúng ta có thể đưa ra định nghĩa tội phạm tham nhũng như sau: Tội phạm tham
nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có chức vụ, quyền hạn được giao thực hiện một số công vụ, nhiệm vụ đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến hoạt

12


động đúng đắn, uy tín và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân và tổ chức khác nhằm mục đích vụ lợi cá nhân.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm tham nhũng
Trong thực tế đấu tranh chống tội phạm tham nhũng nói chung và hoạt động
điều tra vụ án tham nhũng nói riêng việc xác định các dấu hiệu pháp lý của tội phạm
tham nhũng là hoạt động vô cùng quan trọng.
Từ góc độ TTHS thì xác định được dấu hiệu pháp lý của tội phạm giúp
CQĐT xác định được có tội phạm xảy ra hay không, xác định được người phạm tội,
thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra và tạo tiền đề để xác định các bước
tiếp theo của hoạt động điều tra vụ án tham nhũng. Khi xác định được đầy đủ các

dấu hiệu của tội phạm tham nhũng thì CQĐT sẽ tiến hành hoạt động tố tụng như
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn
chặn phù hợp đối với bị can. Xác định đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội phạm
tham nhũng có ý nghĩa to lớn không những đối với hoạt động điều tra mà còn có ý
nghĩa trong hoạt động truy tố, xét xử vụ án tham nhũng đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật tránh được trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
Hoạt động xác định các dấu hiệu pháp lý của tội phạm tham nhũng trong
thực tế còn gặp nhiều trường hợp khó khăn, do chủ thể thực hiện là những người có
chức vụ, quyền hạn nên họ có điều kiện che dấu hành vi phạm tội của mình. Hơn
nữa, sự lẫn lộn giữa cơ chế quản lý, chức năng nghề nghiệp với sự lợi dụng chức
vụ, quyền hạn của người có chức vụ đã tạo nên điều kiện thực hiện hành vi phạm tội
vì vụ lợi một cách trót lọt.
Vì vậy, việc làm rõ dấu hiệu pháp lý đặc trưng nhìn từ góc độ pháp luật tố
tụng hình sự giúp cho việc điều tra nhận diện vụ án tham nhũng dễ dàng hơn trong
thực tiễn áp dụng pháp luật. Các tội phạm tham nhũng có những đặc điểm riêng so
với những tội phạm khác, để làm nổi bật những dấu hiệu riêng của tội phạm tham
nhũng tác giả phân tích những dấu hiệu pháp lý riêng so với tội phạm khác. Cụ thể
các dấu hiệu pháp lý của tội phạm tham nhũng như sau:
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm tham nhũng
Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm hại đến các khách thể nhất định của tội phạm.
Điều đó có nghĩa, tội phạm phải xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Hay nói cách khác, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm

13


xâm hại được pháp luật hình sự bảo vệ [49, tr.71]. Một tội phạm cụ thể có thể xâm
hại nhiều khách thể hoặc chỉ xâm hại một khách thể.
Như chúng ta đã biết, các cơ quan Nhà nước được thành lập theo pháp luật
quy định. Mỗi cơ quan Nhà nước đảm nhiệm thực hiện một nhiệm vụ, một chức

năng nào đó của Nhà nước, mỗi cơ quan được Nhà nước quy định lĩnh vực hoạt
động riêng biệt với những quyền hạn và trách nhiệm nhất định, không được một cơ
quan nào được phép hoạt động vượt ra ngoài phạm vi mà Nhà nước cho phép. Hoạt
động của tất cả các cơ quan Nhà nước nói chung và hoạt động đúng đắn của từng cơ
quan Nhà nước nói riêng tạo nên sự hoạt động thống nhất của Bộ máy nhà nước. Vì
vậy, chỉ cần một cơ quan hoạt động không đúng theo quy định thì có thể tạo nên sự
trục trặc của cả bộ máy nhà nước, làm cho hoạt động của Nhà nước bị sai lệch hoặc
ngừng trệ, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chung của Nhà nước đã đặt ra.
Hoạt động đúng đắn của mỗi cơ quan Nhà nước cũng như tất cả hệ thống cơ quan
Nhà nước là rất quan trọng. Những hành vi xâm phạm vào hoạt động đúng đắn này
phải được nghiêm trị. Như vậy bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước
được pháp luật đặt ra không chỉ trong luật hình sự mà các ngành luật khác trong hệ
thống pháp luật của Nhà nước.
Tội phạm tham nhũng thường có tính nguy hiểm cho xã hội rất cao, nó xâm
phạm đến những quan hệ xã hội đảm bảo hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội cũng như uy tín của các cơ quan, tổ chức này. Tội phạm tham
nhũng thường hoạt động một cách tinh vi và cản trở hoạt động bình thường của các
cơ quan Nhà nước, tổ chức, gây trì trệ hoặc làm cho các hoạt động của cơ quan, tổ
chức này vượt ra ngoài phạm vi nhiệm vụ, chức năng luật định. Tham nhũng gây ra
tác hại lớn cho cả chế độ nếu không được ngăn chặn thì sẽ đe dọa trực tiếp đến sự
tồn vong của chế độ Nhà nước và có thể làm thay đổi bản chất của Nhà nước thành
Nhà nước của một số có chức vụ, quyền hạn trong xã hội. Ngoài sự xâm phạm trên
thì tham nhũng còn xâm phạm đến lợi ích vật chất của Nhà nước, xâm hại đến
quyền, lợi ích của công dân, tổ chức. Tuy nhiên những lợi ích này chỉ xâm hại một
cách gián tiếp thông qua hành vi xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan,
tổ chức. Thông thường chủ thể của tội phạm tham nhũng hướng tới là những lợi ích
vật chất như tiền, vàng, cổ phiếu, đất, nhà, xe và các loại tài sản khác; các lợi ích

14



phi vật chất nó thuộc giá trị tinh thần mà các chủ thể của tội phạm tham nhũng xâm
hại cần được bảo vệ như uy tín, danh hiệu thi đua, danh hiệu văn hóa …
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm tham nhũng
Khách quan là những gì tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí
của con người. Các quy phạm pháp luật chỉ điều chỉnh đối với những hành vi cụ thể
của con người được thể hiện ra bên ngoài của thế giới khách quan, chứ không điều
chỉnh những gì thuộc về suy nghĩ, tư tưởng bên trong.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam đã nêu ra các biểu hiện bên ngoài của
tội phạm hay mặt khách quan của tội phạm bao gồm những biểu hiện: Hành vi nguy
hiểm cho xã hội; hậu quả của hành vi nguy hiểm gây ra; mối quan hệ giữa hành vi
và hậu quả và các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm như: công cụ, phương tiện,
thủ đoạn, thời gian, địa điểm… phạm tội [49, tr.72].
Bất cứ tội phạm nào khi thực hiện cũng tồn tại các mặt khách quan của tội
phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp tất cả những biểu hiện
của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không
phải bất cứ mọi trường hợp phạm tội thì các biểu hiện của mặt khách quan tội phạm
đều biểu hiện ra thế giới thực tế bên ngoài [49].
Như vậy, mặt khách quan của tội phạm tham nhũng là những biểu hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan của chủ thể phạm tội tham nhũng, bao gồm hành vi
tham nhũng, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả tham nhũng.
Hành vi tham nhũng là hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền
hạn; là những hành vi không được thực hiện nhưng người có chức vụ, quyền hạn đã
thực hiện nhằm mục đích vụ lợi cá nhân. Tuy khác nhau về mặt hình thức biểu hiện
nhưng hành vi khách quan của tội phạm tham nhũng đều là những hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái
công vụ được giao vì mục đích vụ lợi hoặc mục đích cá nhân khác. Việc lợi dụng
chức vụ, quyền hạn là sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao như là phương tiện để
thực hiện hoặc không thực hiện công việc thuộc trách nhiệm của mình hoặc công
việc không được phép làm. Như vậy, tội phạm tham nhũng được thực hiện đều liên

quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà người phạm
tội được cơ quan, tổ chức giao cho. Nếu như thiếu dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm trái công vụ để nhằm mục đích vụ lợi thì không thể truy cứu trách nhiệm

15


hình sự đối với tội phạm tham nhũng được. Hay nói cách khác người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện hành vi phạm tội mà không sử dụng chức vụ, quyền hạn của
mình thì hành vi đó không phải là hành vi tham nhũng.
Hành vi tham nhũng được thể hiện là hành động hoặc không hành
động. Trên thực tế, trong quá trình điều tra vụ án tham nhũng nói riêng việc xác
định hành vi tham nhũng là một việc hết sức khó khăn. Trong nhiều trường hợp
hoạt động điều tra xác định có dấu hiệu tham nhũng nhưng không xác định được
một cách rõ ràng hành vi tham nhũng. Để có cơ sở xác định hành vi tham nhũng,
trong các văn bản pháp luật hình sự, các văn bản phòng chống tham nhũng… Nhà
nước đã quy định cụ thể những hành vi tham nhũng. Việc xác định đúng hành vi
tham nhũng là căn cứ pháp lý để các cơ quan chức năng nói chung và CQĐT nói
riêng xác định và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tham nhũng. Theo
Bộ luật hình sự quy định thì hành vi tham nhũng gồm những hành vi sau: tương
ứng với 7 tội phạm thì có 7 hành vi: tham ô tài sản (Điều 353), nhận hối lộ (Điều
354), lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355), lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356), lạm quyền trong khi thi
hành công vụ (Điều 357), lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với
người khác để trục lợi (Điều 358), giả mạo trong công tác (Điều 359).
Hậu quả của tội phạm tham nhũng là những thiệt hại vật chất là những thiệt
hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức và nhân dân. Thiệt hại về phi vật chất như
cản trở, gây ảnh hưởng đến chủ trương, chính sách đổi mới đất nước của Đảng và
Nhà nước; thay đổi những chuẩn mực đạo đức xã hội, những giá trị đạo đức của
dân tộc, làm tha hóa phẩm chất của đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước, làm xói

mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tùy vào từng tội phạm
tham nhũng mà hậu quả của từng tội phạm là không giống nhau.
Ngoài ra, có các dấu hiệu khách quan khác của tội phạm tham nhũng như:
thời gian, địa điểm, thủ đoạn, phương thức… phạm tội không phải dấu hiệu
bắt buộc của tội phạm.
1.1.2.3. Chủ thể của tội phạm tham nhũng
Chủ thể của tội phạm tham nhũng là chủ thể đặc biệt. Cũng như các tội
phạm về chức vụ khác, các tội phạm tham nhũng phải được thực hiện bởi các chủ
16


thể có chức vụ trong bộ máy nhà nước hoặc trong các tổ chức xã hội nói chung và
người có

17


chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối
lộ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 352 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm
2017 thì “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực
hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện
công vụ, nhiệm vụ”. Theo định nghĩa này, người có chức vụ là người được giao thực
hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định khi thực hiện công vụ đó.
Việc giao thực hiện công vụ được thực hiện bằng cách bổ nhiệm (được cấp trên bổ
nhiệm chức vụ), do bầu cử (dân cử thông qua hình thức trúng cử), do hợp đồng
(thông qua ký kết hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự), hoặc do một hình thức
khác (được người có chức vụ ủy quyền cho một người để họ thực hiện xong công

vụ được giao). Việc giao để thực hiện một công vụ có thể thường xuyên, lâu dài
hoặc chỉ được giao thực hiện từng công việc trong một thời gian nhất định. Người
được giao thực hiện công việc có thể được hưởng lương hoặc không hưởng lương.
Như vậy, theo quy định trên, người có chức vụ không nhất thiết phải trong biên chế
Nhà nước mà chỉ cần người đó được giao thực hiện một công vụ nhất định và có
quyền năng nhất định trong khi thi hành công vụ đó. Quyền năng của người được
giao thực hiện một công vụ thể hiện ở chỗ, người đó có quyền giải quyết, tham gia
vào việc giải quyết công tác nghiệp vụ của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội.
Khi có quyền năng này người có chức vụ mới có điều kiện và khả năng lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi trái với công vụ được giao, làm
sai lệch hoạt động đúng đắn của Nhà nước, tổ chức xã hội với nhiều động cơ, mục
đích khác nhau. Quyền năng của người có chức vụ được thể hiện ở các chức năng
như: chức năng chính quyền; chức năng lãnh đạo, tổ chức; chức năng kinh tế, hành
chính.
Ngoài ra những người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ
chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ là chủ thể của tội nhận hối lộ (quy định tại
Điều 354 BLHS năm 2015)
Như vậy, chủ thể của tội phạm tham nhũng chỉ có thể là những người
có chức vụ, quyền hạn. Những người không có chức vụ, quyền hạn thì chỉ có thể là
người xúi giục, người giúp sức, người tổ chức trong vụ án tham nhũng. Cũng theo
18


Luật phòng, chống tham nhũng thì “Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,


19



hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao
gồm:Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân,
viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Người đại diện phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp; Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ
chức; Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó” [41]. BLHS năm 2015 đã bổ sung về chủ
thể của tội nhận hối lộ là những người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm tham nhũng
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức và bao giờ cũng thống nhất
hai mặt bên trong và bên ngoài. Với ý nghĩa là một mặt của hoạt động thống nhất
có ý thức của con người, mặt chủ quan không tồn tại độc lập mà luôn gắn với
mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan được xem là mặt bên trong của tội
phạm. Hay mặt bên trong của tội phạm là diễn biến tâm lý của tội phạm, diễn
biến này gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm [49, tr.72].
Mặt chủ quan của tội phạm tham nhũng cũng giống như các tội phạm khác,
bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích của người phạm tội.
- Yếu tố lỗi: Các tội phạm tham nhũng đa số đều là những tội được thực hiện
do lỗi cố ý. Khi người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi phạm tội đã nhận
thức rõ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi mà mình thực hiện có tnh
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó nhung vẫn mong
muốn hậu quả xảy ra để đạt được mục đích vụ lợi của mình. Trong một số ít trường
hợp chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng với lỗi vô ý, chủ thể phạm tội mặc dù
không mong muốn chiếm đoạt được tài sản do lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà có
nhưng do hoàn cảnh và rơi vào tình thế nhất định mà chủ thể thực hiện hành vi
tham nhũng. Một số trường hợp cán bộ, công chức do trình độ và năng lực yếu kém
nên không nhận biết được hậu quả của những việc mình thực hiện nên đã vô tình

tiếp tay cho những kẻ tham nhũng và đong vai trò là người giúp sức trong tội phạm
tham nhũng.
20


×