Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.87 KB, 147 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM MẠNH HÀ

BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM MẠNH HÀ

BẮT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận văn này chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Mạnh Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................................................ 5
1.1. Khái niệm về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự .................. 5
1.2. Những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt
trong các Bộ luật tố tụng hình sự từ trước đến nay................................. 12
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH QUẢNG NINH.................. 30
2.1. Đặc điểm, tình hình địa bàn ............................................................. 30
2.2. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong áp dụng biện pháp bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam...................................... 32
2.3. Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong các vụ án hình sự
tại tỉnh Quảng Ninh................................................................................. 35
2.4. Nhận xét, đánh giá về thực trạng áp dụng biện pháp bắt................. 40
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT
NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH
QUẢNG NINH............................................................................................... 55

3.1. Phương hướng áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình
sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.............................................................. 55
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng áp dụng biện
pháp bắt người trong tố tụng hình sự ...................................................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ANTT

An ninh trật tự

ANQG

An ninh quốc gia

BPNC

Biện pháp ngăn chặn

CQĐT

Cơ quan điều tra

TTHS

Tố tụng hình sự


VKS

Viện kiểm sát

ĐTHS

Điều tra hình sự

UBND

Ủy ban nhân dân

ANĐT

An ninh điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

ĐTV

Điều tra viên


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ

PHẦN I: HỆ THỐNG CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1:


Trình độ nghiệp vụ của CBCS trong CQĐT các cấp của Công an tỉnh
Quảng Ninh

Bảng 2.2:

Thống kê chức danh trong CQĐT các cấp của Công an tỉnh Quảng
Ninh

Bảng 2.3:

Số liệu điều tra, truy tố, xét xử

Bảng 2.4:

Tình hình áp dụng biện pháp bắt

Bảng 2.5:

Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang

Bảng 2.6:

Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp và
kết quả xử lý

Bảng 2.7:

Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, chủ
thể áp dụng và kết quả xử lý


Bảng 2.8:

Tương quan giữa các chủ thể bắt người đang bị truy nã

PHẦN II: HỆ THỐNG CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Trình độ nghiệp vụ của CBCS CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
Biểu đồ 2.2: Số đối tượng bị bắt trong giai đoạn 2014 -2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Ninh là tỉnh công nghiệp, du lịch, biên giới, có vị trí chiến lược về
quốc phòng, an ninh; nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc, là cầu nối giữa
ASEAN và Trung Quốc. Những năm qua, nhờ chính sách mở cửa, hội nhập của
Đảng, Nhà nước cùng với những lợi thế sẵn có nên tỉnh Quảng Ninh có điều kiện
phát triển về mọi mặt, trở thành điểm đến của nhiều đoàn khách quốc tế hoạt động
giao lưu, thương mại, du lịch và thu hút đầu tư. Hàng năm, Quảng Ninh đón hàng
triệu lượt khách quốc tế và trong nước đến địa bàn với nhiều mục đích khác nhau.
Tình hình ANTT tại địa bàn trong những năm qua diễn biến phức tạp, số vụ
phạm pháp hình sự và vi phạm pháp luật xảy ra nhiều với tính chất, thủ đoạn ngày
càng tinh vi; số đối tượng thực hiện hành vi phạm tội có xu hướng chống đối, không
hợp tác với cơ quan chức năng ngày càng nhiều… Trong đó nhiều đối tượng đã bị
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố, điều tra, áp dụng các BPNC để xử lý.
Một trong các BPNC trong TTHS, được các cơ quan chức năng trên địa bàn
áp dụng nhiều nhất đó là biện pháp bắt. Có thể thấy rõ hiệu quả của việc áp dụng
biện pháp này mang lại trong giai đoạn khởi tố, điều tra, xử lý vụ án hình sự; đã
đóng góp tích cực trong phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, bảo đảm
ANTT, góp phần tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội

của tỉnh. Tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này là vấn đề hết sức nhạy cảm, ảnh
hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị của mỗi người; làm hạn chế, một số quyền
con người và quyền công dân được pháp luật bảo hộ như quyền bất khả xâm phạm
về thân thể; quyền được bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền được tự do
đi lại, cư trú… Đây cũng là biện pháp liên quan nhiều đến chủ trương, đường lối
trong thực hiện chính sách pháp luật hình sự và TTHS; thể hiện rõ quan điểm cứng
rắn, tinh thần kiên quyết đấu tranh, trấn áp tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.
Việc áp dụng biện pháp bắt tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong những năm
qua vẫn còn bất cập, khó khăn; một số trường hợp nghiêm trọng dẫn đến sai phạm,
gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ, thực thi pháp
luật tại đây.
Trong bối cảnh tỉnh Quảng Ninh ngày càng mở rộng thu hút đầu tư phát
triển; tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm sẽ có xu hướng gia tăng và kéo theo

1


những vấn đề phức tạp về ANTT. Vì vậy, nghiên cứu tổng kết thực tiễn về biện
pháp bắt trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh trong những năm qua là rất cần
thiết để đánh giá, rút kinh nghiệm, tìm ra những thuận lợi, khó khăn, ưu nhược
điểm, nguyên nhân, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp này tại địa bàn tỉnh trong thời gian tới đây.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Bắt người
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật Hình sự và TTHS.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Những năm gần đây, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về biện
pháp bắt ở các góc độ, địa bàn khác nhau, điển hình như:
- “Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật tố tụng hình sự Việt nam
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phạm

Thị Hợp.
- “Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong Luật Tố tụng
hình sự Việt nam”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Huân.
- “Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thảo.
- “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sĩ luật
học của tác giả Nguyễn Thị Ninh Bình.
- “Bảo đảm quyền con người của người bị bắt theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lê
Ngọc Diện.
Qua tổng hợp, khảo sát, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, cụ thể,
có hệ thống và chuyên sâu về biện pháp bắt trên cơ sở quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, đề tài “Bắt
người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về bắt trong pháp luật TTHS và thực tiễn áp


dụng biện pháp này tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh, mục tiêu của luận văn nhằm làm
rõ những căn cứ lý luận, pháp lý của biện pháp, đưa ra những giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ nhận thức cơ bản và những vấn đề liên quan đến biện pháp bắt
người theo pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phân tích những vấn đề có liên quan đến áp dụng biện pháp bắt người theo

pháp luật TTHS tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Đánh giá thực trạng, rút ra ưu, nhược điểm, những thuận lợi, khó khăn khi
áp dụng biện pháp bắt người tại tỉnh Quảng Ninh.
- Đưa ra các dự báo và đề xuất giải pháp có tính khoa học và khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng biện pháp
bắt trong pháp luật TTHS Việt Nam tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về áp dụng biện pháp bắt người theo
pháp luật TTHS Việt Nam;
- Về chủ thể: Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát về biện pháp bắt người
trong giai đoạn Điều tra vụ án hình sự với chủ thể áp dụng là CQĐT các cấp thuộc
Công an tỉnh Quảng Ninh.
- Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn khảo sát, nghiên cứu tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
- Thời gian khảo sát, nghiên cứu: từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên nền tảng phép duy vật biện chứng và


duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, cũng như các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phòng ngừa, đấu
tranh, trấn áp tội phạm và cải cách tư pháp.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Thu thập và phân tích các tài liệu, công
trình khoa học về lý luận bắt; các báo cáo sơ kết, tổng kết; hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án
liên quan.

- Phương pháp chuyên gia: Tọa đàm, trao đổi với các cán bộ Công an tỉnh
Quảng Ninh trực tiếp chỉ đạo, tham mưu, thực hiện nhiệm vụ công tác bắt người,
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
- Phương pháp thống kê: Thu thập, xử lý, tổng hợp số liệu về bắt người trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Phương pháp so sánh: So sánh, đối chiếu số liệu hàng năm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích những đặc điểm trong từng
trường hợp bắt; trên cơ sở đó đánh giá, rút ra những khó khăn, tồn tại có liên quan
đến áp dụng các biện pháp bắt người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Làm rõ một số vấn đề lý luận về biện pháp bắt người theo pháp
luật TTHS Việt Nam, nhất là trong Bộ luật TTHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày
01/01/2018.
- Về thực tiễn: Đề xuất một số giải pháp khoa học, khả thi có thể được sử
dụng rộng rãi trong thực tiễn giúp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong các vụ án hình
sự tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ BẮT NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm
Bắt người là BPNC trong TTHS do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người
được Nhà nước trao quyền được áp dụng trong các trường hợp bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã,
bắt bị can, bị cáo để tạm giam và bắt người bị yêu cầu dẫn độ nhằm kịp thời ngăn
chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Như vậy, Bắt
người là một trong những BPNC trong TTHS, đây là BPNC rất cơ bản và quan
trọng, tạo tiền đề cho việc áp dụng các BPNC tiếp theo như tạm giữ, tạm giam…,
nhằm làm rõ bản chất vụ án, ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình truy tố, xét xử và thi hành án.
BPNC được hiểu là biện pháp cưỡng chế của nhà nước trong TTHS do cơ
quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người thực hiện hành vi phạm
tội bằng cách tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích nhất định của
họ nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật của người
phạm tội và tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Các
biện pháp cưỡng chế được chia thành nhiều loại như cưỡng chế dân sự, cưỡng chế
hành chính, cưỡng chế hình sự và cưỡng chế TTHS tùy vào loại vi phạm pháp luật
khác nhau. Trong đó, biện pháp cưỡng chế TTHS được hiểu là cách thức thực hiện
quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng
theo những trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng,
thân thể, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện nhằm bảo đảm cho
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Trong các biện
pháp cưỡng chế của TTHS thì BPNC là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn vì
các biện pháp này tác động đến các quyền cơ bản của công dân, có thể hạn chế một
số quyền của công dân trong một thời gian nhất định.
Các BPNC được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 gồm 08 biện pháp,
cụ thể là: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt



tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Trong đó, Bắt người là
BPNC được sử dụng phổ biến nhất, thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với
người phạm tội hoặc bị nghi ngờ phạm tội ở các trường hợp gồm: bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã,
bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ được quy định tại các
Điều 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115 và 116 của Bộ luật TTHS năm 2015.
Trong lịch sử, Bắt là một thuật ngữ đã xuất hiện từ lâu. Từ điển Tiếng Việt
của Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, xuất bản năm 1992 xác định: “Bắt là một
động từ diễn tả sự nắm lại, giữ lại một người hay một sinh vật nào đó không để cho
tự do hoạt động hoặc cử động ” [33, tr.60]. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Đà
Nẵng, xuất bản năm 2001 thì cho rằng bắt là “Nắm lại, giữ lại, không để cho tự do
hoạt động hoặc cử động ” [32, tr.44]. Theo đó, bắt được hiểu là hoạt động của con
người, được thực hiện một cách chủ động tác động lên một đối tượng khác (khách
thể) khác nhằm không cho đối tượng này tự do hoạt động hoặc cử động (kiểm soát
và giám sát đối tượng ấy).
Với tư cách là một BPNC trong TTHS, hiện chưa có quy phạm pháp luật
TTHS riêng nêu lên khái niệm về biện pháp bắt, do vậy còn có nhiều quan điểm
khác nhau về biện pháp này. Từ điển Bách khoa CAND, Nxb. CAND, xuất bản năm
2005 xác định: “Bắt người phạm tội là một BPNC trong TTHS, được tiến hành theo
quy định của pháp luật và theo lệnh của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
nhằm chặn đứng hành vi phạm tội và không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử cũng như việc đảm bảo thi hành luật.. ” [31, tr.35]. Cách hiểu này đã làm rõ
được chủ thể áp dụng và mục đích áp dụng biện pháp bắt. Tuy nhiên, việc xác định
chủ thể áp dụng biện pháp bắt ở đây là không đầy đủ vì còn các chủ thể khác cũng
có thẩm quyền áp dụng; đồng thời, cũng chưa nêu được đối tượng bị áp dụng.
Một số tác giả khi đi nghiên cứu về vấn đề này, cũng có những quan điểm
riêng: Theo tác giả Nguyễn Văn Điệp: “Bắt là biện pháp cưỡng chế được
quy định
trong luật TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền do luật định áp dụng đối với bị
can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố; người đang có hành vi phạm tội quả tang

hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ do Bộ luật TTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn
chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án” [13, tr. 12-13].


Tác giả Nguyễn Trọng Phúc thì cho rằng: "Bắt người trong TTHS là giữ
người có hành vi phạm tội, không để cho họ tiếp tục phạm tội’’ [20, tr.50].
Tác giả Nguyễn Quang Nghĩa thì quan niệm: “Bắt là BPNC trong TTHS do
những cơ quan có thẩm quyền tiến hành đối với bị can, bị cáo và những người đang
có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm, đã hoặc đang thực hiện hành vi phạm tội,
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [19, tr.7].
Theo tác giả Trần Quang Tiệp: “Bắt người là BPNC trong TTHS, do người
có thẩm quyền áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với bị can, bị cáo hoặc
người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) theo
những trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định, nhằm ngăn chặn tội phạm,
người thực hiện tội phạm trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [30, tr.73-74]
Nhìn chung, các khái niệm trên được xây dựng trên nền tảng là các quy phạm
pháp luật TTHS về biện pháp bắt quy định trong Bộ luật TTHS năm 1988 (sửa đổi,
bổ sung năm 1990, 1992 và 2000) và Bộ luật TTHS năm 2003, đã nêu được nhiều
khía cạnh của biện pháp bắt, song đều chưa đầy đủ, chưa phản ánh hết nội hàm của
biện pháp bắt như về bản chất pháp lý, chủ thể, đối tượng, căn cứ và mục đích áp
dụng biện pháp này.
Tiếp cận với những nội dung mới về biện pháp bắt trong Bộ luật TTHS năm
2015, tác giả Phạm Mạnh Hùng quan niệm: “Bắt người là BPNC, áp dụng đối với
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, bị can, bị cáo,
người đang, bị truy nã hoặc người bị yêu cầu dẫn độ ” [18, tr.206]. Tuy nhiên, khái
niệm mới này lại chỉ phản ánh về đối tượng bị áp dụng, chưa xác định được chủ thể,
căn cứ và mục đích áp dụng biện pháp bắt...

Từ việc tổng hợp, phân tích một số quan điểm về biện pháp bắt nêu trên, có
thể khái quát về cách hiểu về biện pháp bắt trong TTHS như sau: Biện pháp bắt là
BPNC trong TTHS, do những người có thẩm quyền theo luật định tiến hành áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị
khởi tố hoặc người bị yêu cầu dẫn độ khi có căn cứ do luật định nhằm mục đích
ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.


1.1.2. Đặc điểm
1.1.2.1. Về chủ thể áp dụng: chủ thể áp dụng biện pháp bắt bao gồm nhiều cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền khác nhau mà trong từng trường hợp bắt được xác
định cụ thể theo luật định. Chẳng hạn, đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT các cấp, trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân dân và Viện trưởng, Phó
Viện trưởng VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Nhưng đối với
trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì bất kỳ ai cũng có
quyền bắt khi phát hiện.
1.1.2.2. Về căn cứ áp dụng: biện pháp bắt có tác động, ảnh hưởng lớn đến
đời sống chính trị, tâm lý, quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng. Do vậy, để
đảm bảo tính thận trọng, không tùy tiện khi áp dụng biện pháp bắt phải xác định rõ
các căn cứ theo luật định. Cụ thể tại khoản 1, Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015
quy định cụ thể: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.” [27]. Đối với từng trường hợp bắt người cụ

thể sẽ có những căn cứ áp dụng riêng được quy định trong bộ luật TTHS. Về mặt
tổng thể, căn cứ để áp dụng biện pháp bắt có thể chia thành 02 nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, là tài liệu, chứng cứ xác định một người có hành vi chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; đang
thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị
đuổi bắt; Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định
hình phạt tù trên hai năm; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm ANQG...
Nhóm thứ hai, là những tài liệu, chứng cứ có đủ cơ sở xác định khả năng bị
can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố hoặc
người bị yêu cầu dẫn độ sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi


hành án, việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội. Đó là những tài liệu, chứng cứ xác định họ có thể bỏ trốn, tiêu hủy
chứng cứ, chuẩn bị phạm tội mới…
1.1.2.3. Về đối tượng bị áp dụng: các khái niệm về biện pháp bắt người được
viện dẫn nêu trên đều đề cập đến đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt là bị can, bị
cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự. Đối với biện pháp bắt người đang bị truy
nã thì đối tượng bị áp dụng là người đang có quyết định truy nã, bao gồm: “1. Bị
can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; 2. Người bị kết án trục xuất, người
chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn; 3. Người bị kết án phạt tù bỏ trốn; 4. Người bị
kết án tử hình bỏ trốn; 5. Người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình
chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn” [5]. Ngoài ra,
Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp bắt người bị yêu cầu dẫn độ
với đối tượng bị áp dụng là người bị yêu cầu dẫn độ.
1.1.2.4. Về mục đích áp dụng biện pháp bắt: mục đích là kết quả mà chủ thể
áp dụng mong muốn đạt được khi thực hiện. Mục đích áp dụng biện pháp bắt thể
hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn tội phạm, bao gồm: ngăn chặn hành vi chuẩn

bị thực hiện tội phạm và hành vi phạm tội đang thực hiện. Mặc dù, hành vi chuẩn bị
phạm tội chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng nó là tiền đề cho việc
thực hiện tội phạm, trực tiếp đe dọa đến các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo
vệ. Việc áp dụng biện pháp bắt trong trường hợp này, nhằm mục đích kịp thời ngăn
chặn hành vi phạm tội xảy ra. Trong trường hợp tội phạm đang xảy ra, hành vi
phạm tội đã được thực hiện, đang xâm hại đến các quan hệ xã hội được Luật Hình
sự bảo vệ thì mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều có thể áp dụng biện pháp bắt
người phạm tội quả tang để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội tiếp diễn, không để
tội phạm được thực hiện đến cùng, qua đó sẽ hạn chế được hậu quả, thiệt hại xảy ra.
Thứ hai, áp dụng biện pháp bắt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của cơ quan có thẩm quyền. Thực
tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự còn có rất nhiều đối tượng tỏ thái độ bất hợp tác, chống đối lại cơ
quan chức năng như: bỏ trốn; tiêu hủy tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án; thông
cung, hợp lý hóa lời khai để che giấu sự thật khách quan; uy hiếp, đe dọa người làm


chứng, bị hại... Những đối tượng này, cần thiết phải áp dụng biện pháp bắt để đảm
bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được thuận lợi.
1.1.3. Vị trí, ý nghĩa, yêu cầu của bắt trong tố tụng hình sự
1.1.3.1. Vị trí: Trong số các BPNC được quy định trong Bộ luật TTHS thì
bắt có thể coi là một trong những biện pháp nghiêm khắc nhất và thể hiện rõ quyền
lực Nhà nước trong công tác phòng, chống tội phạm. Việc cơ quan có thẩm quyền
áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam tác động trực diện đến quyền tự do
thân thể của công dân, thể hiện uy quyền và sức mạnh trấn áp của Nhà nước trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.3.2. Ý nghĩa:
- Bắt người thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng
chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng các biện pháp bắt sẽ đảm bảo cho

trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, đảm bảo được các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
- Khi áp dụng biện pháp bắt người sẽ hạn chế một số quyền của công dân,
quyền con người của người bị bắt. Nhưng đây là những biện pháp cưỡng chế cần
thiết do các CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo, với người chưa bị
khởi tố giúp ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án.
- Bắt người là biện pháp hữu hiệu đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao. Bởi nó loại bỏ những trở lực từ phía người bị
buộc tội tác động đến các hoạt động này như: ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục
phạm tội hoặc xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án, đe dọa,
thủ tiêu nhân chứng, thông cung… và đảm bảo sự có mặt của họ theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng; từ đó đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố
tụng nói chung, điều tra vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, bắt cũng là công việc
hết sức nhạy cảm, phức tạp. Bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai
thẩm quyền… đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của
con người. Ngoài ra nó còn xâm hại hoạt động đúng đắn của các CQĐT, truy tố, xét


xử; làm giảm sút uy tín của Nhà nước, giảm sút lòng tin của quần chúng đối với cơ
quan tiến hành tố tụng.
- Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt đối với người phạm tội mà là
các biện pháp được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội phạm, ngăn chặn hành
vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật của người thực hiện tội phạm, bảo đảm sự
hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Do vậy với yêu cầu bảo vệ an
ninh chính trị nói chung và cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng, bắt
phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời song không thể áp dụng tràn lan, lạm dụng.
Đối với những trường hợp không cần thiết phải bắt thì tuyệt đối không áp dụng các

biện pháp này mà có thể áp dụng các BPNC khác có tính chất ít nghiêm khắc hơn
như: cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
1.1.3.3. Yêu cầu của bắt: áp dụng biện pháp bắt không chính xác dễ dẫn đến
hậu quả pháp lý nghiêm trọng mà cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải đối mặt, ảnh
hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan bảo vệ pháp luật. Do vậy, Bắt phải
được tiến hành một cách thận trọng, hiệu quả và đảm bảo tất cả các yêu cầu về
chính trị, pháp luật, cụ thể như sau:
- Bắt người phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật: Các cơ quan tiến hành tố tụng
và trực tiếp là những người có thẩm quyền trong việc thực hiện biện pháp bắt phải
nắm vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật khi bắt bao gồm: căn cứ, đối
tượng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian, thời hạn… Khi xét quyết định bắt ai
thì phải có đủ tài liệu, chứng cứ làm căn cứ chứng minh họ là đối tượng bắt theo
quy định của pháp luật; tuyệt đối không được bắt một người nếu họ không thuộc đối
tượng theo luật định. Mỗi biện pháp, trường hợp bắt đều có đối tượng tương ứng,
không được nhầm lẫn. Chỉ những người có thẩm quyền mới được áp dụng biện
pháp bắt và phải tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Bắt phải thể hiện
tinh thần thượng tôn pháp luật và đảm bảo quyền con người, không được áp dụng
bừa bãi, cẩu thả; bắt không được xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, sức khỏe, tính
mạng của đối tượng bị bắt.
- Bên cạnh đó, Bắt người phải phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của
Đảng, Nhà nước và của địa phương trong từng thời kỳ, thời điểm và trong từng giai
đoạn cách mạng. Bắt một người không chỉ đơn thuần đúng pháp luật mà còn phải
đặt trong mối quan hệ với việc thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của


Đảng, Nhà nước và địa phương. Việc có bắt đối tượng cần phải được cân nhắc, suy
xét kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Nếu thấy việc bắt không có lợi cho thực hiện
chính sách đoàn kết, chính sách phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại hoặc ảnh
hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh dự của Đảng, Nhà nước thì không nên áp
dụng các BPNC này. Song nếu thấy việc bắt giúp tạo khí thế cách mạng, củng cố

niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước, tạo sức mạnh trấn áp, răn
đe trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm thì cần thiết phải áp dụng. Tóm
lại khi bắt, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc kỹ những lợi - hại, được
- mất, lợi ích - hậu quả về chính trị mà nó tạo ra.
- Bắt người phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý vụ án.
Mục đích của bắt là nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp
luật của người phạm tội, đảm bảo cho việc điều tra, truy tố xét xử và thi hành án
hình sự được đúng đắn. Do vậy, một trong những yêu cầu của bắt là phải tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý vụ án.
Trong điều tra vụ án hình sự, CQĐT phải tiến hành nhiều biện pháp khác
nhau để điều tra làm rõ vụ án. Bắt thường mở đầu cho việc triển khai các biện pháp
điều tra khác như: hỏi cung, khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng…. Do vậy, khi
thực hiện BPNC này phải đặt trong mối quan hệ với tổng thể các biện pháp mà
CQĐT sẽ tiến hành. Bắt phải tạo tiền đề và điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các
yêu cầu điều tra nhằm đạt được mục tiêu chính là làm rõ sự thật khách quan của vụ
án. Đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc người cần áp dụng có đặc điểm
nhân thân đặc thù thì việc bắt họ phải được cân nhắc kỹ lưỡng, tránh trường hợp bắt
nhưng không xử lý được do yêu cầu chính trị, đối ngoại.
1.2. Những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt trong
các Bộ luật tố tụng hình sự từ trước đến nay
Nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển các quy định về biện pháp bắt
trong pháp luật TTHS nước ta qua các thời kỳ, cho thấy chất lượng các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về biện pháp bắt ngày càng được hoàn thiện, chặt chẽ, phù hợp
với xu thế phát triển, đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.


1.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và luật sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1990, 1992 và 2000
Trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 ra đời, biện pháp bắt được pháp luật quy
định tại một số văn bản như: Sắc luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957, Sắc luật số

002-SL ngày 18/6/1057, Sắc luật số 02-SL ngày 15/3/1976, Nghị định số 301/TTg
ngày 10/7/1957…, những quy định này theo hướng mở rộng dẫn đến việc áp dụng
một cách tràn lan, tình trạng bắt oan, bắt sai nhiều, gây bức xúc trong dư luận nhân
dân, làm giảm uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật... Để khắc phục những hạn
chế nêu trên, ngày 28/6/1988 Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật TTHS năm
1988. Lần đầu tiên, những quy định về biện pháp bắt người được xây dựng tập
trung, thống nhất trong Bộ luật TTHS năm 1988 và có những thay đổi sâu sắc, vượt
bậc so với trước đây. Sau này, Bộ luật TTHS năm 1988 có ba lần sửa đổi, bổ sung
vào các năm 1990, 1992 và 2000; các lần sửa đổi, bổ sung đã kịp thời đáp ứng được
yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm giữ vững
thành quả cách mạng, đóng góp cho sự phát triển về kinh tế, xã hội của đất nước;
đồng thời, từng bước thể chế hóa những quan điểm mới về cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Bộ luật TTHS năm 1988 và các luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS các năm 1990, 1992 và 2000 quy
định về biện pháp bắt bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, cụ thể:
Một là, bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Điều 62 Bộ luật TTHS năm 1988 đã
quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm
giam. Đây là biện pháp bắt lần đầu tiên được quy định chính thức trong Bộ luật
TTHS, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối
với bị can, bị cáo; đem lại hiệu quả tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong bối cảnh tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với xu hướng ngày
càng tăng, nảy sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm với tính chất đặc biệt nghiêm
trọng đe dọa đến sự phát triển, ổn định của nước ta trong giai đoạn này.
Hai là, bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Bộ luật TTHS năm 1988 đã kế
thừa những quy định trong Sắc luật số 02/SL-76, nhưng theo hướng thu hẹp các căn
cứ bắt khẩn cấp. Theo đó, Bộ luật TTHS này quy định chỉ còn ba căn cứ để bắt


khẩn cấp, thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đến các quyền con người, các quyền cơ

bản của công dân của Đảng và Nhà nước ta.
Đối với người thực hiện tội phạm, việc áp dụng biện pháp bắt trong trường
hợp khẩn cấp là hết sức cần thiết, nếu không bắt mà đối tượng bỏ trốn thì sẽ gây rất
nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật TTHS năm 1990 đã sửa đổi hai căn cứ bắt khẩn cấp thành:
“- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn.
- Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi
thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ
chứng cứ” [22].
Ngoài ra, để phù hợp với các quy định về phân loại tội phạm của Bộ luật
Hình sự năm 1999, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS năm 2000
đã sửa đổi một căn cứ bắt khẩn cấp thành: “Khi có căn cứ để cho rằng người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng” [23].
Về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, Bộ luật TTHS
năm 1988 đã thu hẹp thẩm quyền so với các văn bản trước đây, hạn chế được tình
trạng lạm quyền trong việc áp dụng. Sau đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật TTHS năm 1990 đã bổ sung thêm các chủ thể khác là: Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT các cấp trong Quân đội nhân dân; Chỉ huy đơn vị quân đội độc lập
tương đương cấp trung đoàn cũng có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp cho phù hợp
với quy định trong Pháp lệnh Tổ chức ĐTHS năm 1989 và cơ cấu tổ chức trong
Quân đội nhân dân.
Ba là, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: Điều 64 Bộ luật
TTHS năm 1988 có sự kế thừa quy định tại Sắc luật số 02/SL-76 về bắt người phạm
tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tuy nhiên, có thể thấy việc Sắc luật số 02/SL- 76
quy định bắt người đang có lệnh truy nã là một trường hợp bắt người phạm tội quả
tang là chưa phù hợp vì bắt người phạm tội quả tang về bản chất khác nhiều so với
bắt người đang có lệnh truy nã. Đây là lý do, Bộ luật TTHS năm 1988 đã bổ sung

biện pháp bắt người đang bị truy nã.


1.2.2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Kế thừa những quy định về biện pháp bắt trong Bộ luật TTHS năm 1988 và
các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS trước đó, Bộ luật TTHS
năm 2003 quy định bắt người gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tuy
nhiên, đã có những sửa đổi, bổ sung rất căn bản về 03 trường hợp bắt là: bắt bị
can, bị cáo để tam giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người đang bị
truy nã.
Một là, bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Về thẩm quyền, so với Bộ luật TTHS
năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS thì Bộ luật
TTHS năm 2003 đã thu hẹp thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam như:
quy định Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp nói chung có thẩm quyền ra
lệnh bắt, không quy định thẩm quyền riêng cho từng người, từng cấp trong CQĐT;
quy định phải là Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa Tòa phúc thẩm
TAND tối cao mới có thẩm quyền ra lệnh bắt. Quy định này là phù hợp với việc xác
định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của từng chức danh trong tố tụng,
phân định rõ giữa thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính. Cụ thể, tại
khoản 1
Điều 80 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những người có thẩm quyền ra lệnh bắt
bị can, bị cáo để tạm giam bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân dân
và VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án TAND và Toà án quân sự các
cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối
cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp (trường hợp này,
lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành).
Về trình tự, thủ tục bắt, Bộ luật TTHS năm 2003 có sửa đổi quy định về
người chứng kiến khi tiến hành bắt. Bộ luật TTHS năm 1988 quy định, khi tiến
hành bắt người (không phải là nơi làm việc của họ) phải có đại diện chính quyền địa

phương (xã, phường, thị trấn) nơi người bị bắt cư trú và người láng giềng của
người bị bắt chứng kiến. Quy định này rất bất cập trong trường hợp bắt tại nơi
khác không phải nơi cư trú của họ thì việc mời người chứng kiến là những người


nêu trên sẽ rất khó thực hiện được. Khắc phục vấn đề này, khoản 2 Điều 80 Bộ
luật TTHS năm
2003 đã bổ sung quy định: “Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có
đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt


chứng kiến... Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại
diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người” [24].
Hai là, bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Bộ luật TTHS năm 2003 tập
trung sửa đổi quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt, nhằm phân biệt rõ giữa thẩm
quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp, cụ thể là: bỏ thẩm quyền của
Trưởng Công an huyện, Phó Trưởng Công an cấp huyện, thay thế bằng “Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp” có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp.
Về trình tự, thủ tục bắt khẩn cấp: Bộ luật TTHS năm 2003 đã bổ sung quy
định theo hướng chặt chẽ hơn về việc xét phê chuẩn đối với trường hợp bắt
khẩn cấp. Theo đó khoản 4 Điều 81 quy định: trong trường hợp cần thiết, trước khi
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, VKS phải trực
tiếp gặp, hỏi người bị bắt và “Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị
xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, VKS phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS quyết định không phê
chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt” [24]. Như vậy,
rõ ràng việc áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp đảm bảo tính thận trọng hơn, qua việc
tăng cường trách nhiệm của VKS khi xét phê chuẩn lệnh bắt, qua đó có thể thấy
quyền con người đã được tôn trọng và bảo vệ rõ nét hơn trong TTHS.
Ba là, bắt người đang bị truy nã. Điểm mới của Bộ luật TTHS năm 2003 là

bổ sung quy định cho phép bắt người đang bị truy nã vào ban đêm tại khoản 3
Điều
80: “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khấn cấp, phạm tội
quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ
luật này” [24]. Trước đây, tại khoản 3 Điều 62 Bộ luật TTHS năm 1998 quy định:
“Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang quy định tại Điều 63 và Điều 64 Bộ luật này” [21]. Quy định mới này phù hợp
với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, vì
việc bắt người đang bị truy nã cũng thể hiện tính cấp bách như 02 trường hợp bắt
khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang. Người đang bị truy nã luôn tìm mọi cách
để lẩn trốn, do vậy khi phát hiện người đang bị truy nã cũng cần thiết phải bắt
ngay.


Bốn là, những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt. Nội
dung này, Bộ luật TTHS năm 2003 cơ bản không thay đổi nhiều so với Bộ luật TTHS
năm 1988. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật TTHS năm 1988: “Đối với


người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho
cơ quan đã ra lệnh truy nã và giải ngay người đó đến trại giam nơi gần nhất” [21].
Có thể thấy quy định này còn bất cập, chưa cụ thể, rõ ràng, chẳng hạn như:
chưa nêu rõ Cơ quan đã ra quyết định truy nã có phải đến nhận người bị bắt hay
không? Việc đưa người bị truy nã đến ngay trại tạm giam nhưng chưa có quyết
định tạm giữ hoặc lệnh tạm giam liệu có đảm bảo căn cứ pháp lý?... Tháo gỡ vấn
đề này, Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định chặt chẽ hơn, cụ thể: nếu cơ quan
đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời
khai, CQĐT nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ để có căn cứ pháp
lý quản lý người bị bắt; đồng thời, thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định
truy nã biết.

1.2.3. Bộ luật Tố tụng hinh sự năm 2015
Tổng kết thực tiễn cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ luật TTHS
năm 2003 còn nhiều vướng mắc, bất cập, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, một số đạo luật khác
có liên quan cũng có sự sửa đổi, bổ sung như Luật Tổ chức VKS nhân dân năm
2014, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Tổ
chức Cơ quan ĐTHS năm 2015...; đồng thời, nước ta đã tham gia các điều ước
quốc tế liên quan đến đấu tranh phòng, chống tội phạm, nên đặt ra yêu cầu phải
sửa đổi Bộ luật TTHS nhằm bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tạo cơ
sở pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh hợp tác trong phát hiện và xử lý tội phạm. Ngày
27/11/2015,
Quốc hội nước ta đã chính thức thông qua Bộ luật TTHS năm 2015.
Riêng về biện pháp bắt, Bộ luật TTHS 2015 có nhiều điểm mới. Tại khoản 2
Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định rõ: “Các trường hợp bắt người gồm
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang,
bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu
dẫn độ
” [27]. Như vậy, Bộ luật TTHS năm 2015 đã sửa đổi biện pháp bắt người trong
trường hợp khẩn cấp thành biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bổ
sung trường hợp bắt người bị yêu cầu dẫn độ.


×