Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Nâng cao chất lượng dịch vụ phát hành báo chí của tổng công ty bưu chính viễn thông việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 185 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ QUANG HÙNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2005


PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Qua 50 năm với nhiều giai đoạn phát triển, hoạt động phát hành báo chí
(PHBC) của Tổng Công Ty Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam (VNPT) đã đạt
được những thành tựu như phát hành 451 loại báo chí quốc văn và 270 loại báo
chí ngoại văn. Đóng thẳng túi báo chí cho 748 Bưu cục trên cả nước, số túi
đóng 1,2 triệu túi/năm với tổng trọng lượng 12.000 tấn và 64 tỉnh/thành phố
(TP) nhận được báo trong ngày, ngoại trừ 6 huyện miền biên giới của tỉnh Lai
Châu. Tất cả các cơ sở Bưu điện (BĐ) của VNPT đều có ghi-sê nhạân đặt mua
báo chí với khách hàng. Sản lượng, doanh thu trong 7 năm từ 1997 đến 2003
tăng bình quân 6%. VNPT đã đầu tư 100% xe ô tô chuyên ngành trên mạng
đường thư cấp 1 và 75% xe ô tô chuyên ngành trên mạng đường thư cấp 2 để
vận chuyển thư báo.
Tuy nhiên đi sâu phân tích, chúng ta cũng thấy còn nhiều vấn đề tồn tại
trong các chỉ tiêu “Nhanh chóng – Chính xác – An toàn – Tiện lợi – Văn
minh” của chất lượng dòch vụ PHBC như các mô hình giao nhận chưa phong
phú và đa dạng, thời gian giao nhận báo còn chậm. Thể lệ thủ tục có nhiều
điều quy đònh còn lạc hậu và chưa thông thoáng, không còn phù hợp với tình
hình mua bán báo chí hiện nay nên chưa phát huy hết khả năng của các cơ sở
BĐ trong hoạt động PHBC cũng như tiềm năng của khách hàng. Quy trình sản


xuất còn mang nặng tính thủ công, phân cấp, ấn phẩm sử dụng rườm rà, phức
tạp nên dẫn đến tiêu hao thời gian rất nhiều trong quá trình khai thác nghiệp vụ
PHBC từ Trung Ương ( TƯ ) đến đòa phương. Phong cách phục vụ của nhân
viên còn ảnh hưởng thời kỳ độc quyền và VNPT chưa có thương hiệu để quảng
bá dòch vụ PHBC trên thò trường. Phí phát hành tính tỷ lệ phần trăm trên giá


Tình hình cạnh tranh khốc liệt trên thò trường đã khẳng đònh: “Độc giả,
khách hàng sẽ đặt mua báo tại tổ chức hoặc cá nhân nào thoả mãn được nhu
cầu đọc báo sớm, mặc dù giá bán cao hơn giá bìa từ 200đ đến 500đ / tờ”. Trước
sự thách thức của các đối thủ cạnh tranh trên thò trường PHBC cũng như để tồn
tại và phát triển, VNPT nên đẩy mạnh công việc chống cạnh tranh bằng biện
pháp nâng cao chất lượng dòch vụ PHBC, trong đó chỉ tiêu chất lượng Nhanh
chóng là hàng đầu. Với mong muốn được đóng góp những ý kiến nhằm nâng
cao chất lượng dòch vụ PHBC, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng
dòch vụ Phát hành báo chí của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam”
làm luận án Tiến Sỹ.

II. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án là dòch vụ PHBC của VNPT. Trong đó
đặc biệt đi sâu vào các mô hình đặt mua, giao nhận, vận chuyển, phân phối,
mạng lưới PHBC và khả năng nâng cao doanh thu và sản lượng của VNPT.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Nêu rõ các yêu cầu của nghiệp vụ PHBC của VNPT trong điều kiện mới
hiện nay, đánh giá toàn diện hoạt động PHBC của VNPT và các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động PHBC trên cả nước.
2. Thiết kế phương pháp đònh lượng đo lường các chỉ tiêu của chất lượng dòch
vụ PHBC.
3. Phân tích SWOT dòch vụ PHBC của VNPT. Từ đó đề xuất và kiến nghò một
số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dòch vụ PHBC:



Đề xuất 5 nhóm biện pháp nâng cao chất lượng dòch vụ nhằm hoàn thiện
cơ chế hoạt động PHBC trong điều kiện mới, qua đó xây dựng các mô hình đặt
mua, giao nhận, vận chuyển, phát hành nhằm tăng sản lượng, doanh thu của
VNPT.
Kiến nghò với Nhà nước và Chính phủ một số ý kiến nhằm hỗ trợ cho dòch
vụ PHBC của VNPT.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án nghiên cứu các tài liệu về nghiệp vụ PHBC, tổng hợp kinh
nghiệm về PHBC của một số nước trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm
cho hoạt động PHBC của VNPT. Tiến hành khảo sát và phân tích thực trạng
hoạt động PHBC của VNPT vàø các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động PHBC
trên cả nước. Thông qua đó sử dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu, suy
luận Logic, thống kê, phân tích, điều tra xã hội học, chuyên gia… để làm sáng
tỏ cũng như cụ thể hóa nội dung nghiên cứu. Ngoài ra còn sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng làm nền tảng và cơ sở cho các vấn đề nghiên cứu
trong luận án. Đặc biệt trong luận án là sử dụng phương pháp nghiên cứu xây
dựng thang đo chất lượng dòch vụ PHBC của VNPT. Phần thiết kế nghiên cứu
để xây dựng thang đo chất lượng dòch vụ PHBC của VNPT được thông qua hai
giai đoạn nghiên cứu sơ bộ (đònh tính) và nghiên cứu chính thức (đònh lượng).
Dữ liệu của các mẫu quan sát hợp lệ được xử lý bằng phần mềm SPSS.
V. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
PHBC là một trong những dòch vụ chính của VNPT, có tác dụng phục vụ
đông đảo các tầng lớp nhân dân với các nhu cầu khác nhau. Có nhiều tổ chức
và cá nhân cùng tham gia hoạt động PHBC với nhiều hình thức và phương thức
phát hành khác nhau, đây là một nội dung phức tạp. Hiện tại có một số báo cáo
tốt nghiệp và luận văn tốt nghiệp của sinh viên các lớp cao đẳng, đại học của
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông chỉ nói về các mảng nhỏ của dòch



VI. KẾT QUẢ VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Kết quả nghiên cứu sẽ nâng cao chất lượng cho dòch vụ PHBC của VNPT,
luận án phấn đấu đạt được các nội dung sau:
1. Tổng quan một số cơ sở lý luận và thực tiển về dòch vụ PHBC của VNPT.
2. Nêu lên những bài học kinh nghiệm từ hoạt động PHBC của các nước, đồng
thời triển khai áp dụng kinh nghiệm của các nước tại nước ta.
3. Phân tích thực trạng chất lượng dòch vụ PHBC của VNPT, qua đó làm cơ sở
thực tiễn để đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dòch vụ PHBC của VNPT.
4. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dòch vụ PHBC cùng với các kiến
nghò.
Qua đó, những đóng góp mới của luận án cụ thể như sau:
1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về dòch vụ và chất lượng dòch vụ
PHBC; về mô hình đặt mua, giao nhận, vận chuyển, phát hành báo chí của
VNPT. Từ đó phác thảo mô hình cho hoạt động PHBC mà VNPT cần hướng tới.


2. Bổ sung thêm chỉ tiêu Uy tín vào nhóm chỉ tiêu Nhanh chóng – Chính xác – An
toàn – Tiện lợi – Văn minh để đánh giá tốt hơn về chất lượng dòch vụ PHBC của
VNPT.
3. Đề xuất phương pháp nghiên cứu xây dựng thang đo chất lượng dòch vụ
PHBC của VNPT. Thang đo phối hợp với phân tích SWOT làm cơ sở để đề
xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dòch vụ PHBC của VNPT.
4. Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng dòch vụ PHBC của VNPT như
biện pháp đònh kỳ sử dụng thang đo chất lượng dòch vụ PHBC; nhóm biện pháp
nâng cao chỉ tiêu chất lượng Nhanh chóng; nhóm biện pháp nâng cao chỉ tiêu
chất lượng Chính xác – An toàn – Tiện lợi; nhóm biện pháp nâng cao chỉ tiêu
chất lượng Phong cách phục vụ; nhóm biện pháp nâng cao chỉ tiêu chất lượng
Uy tín và nhóm biện pháp cải tiến cơ chế hoạt động.



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ
PHÁT HÀNH BÁO CHÍ CỦA TỔNG CÔNG TY BƯU CHÍNH
VIỄN THÔNG VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ BÁO CHÍ VÀ DỊCH VỤ PHÁT HÀNH BÁO CHÍ
1.1.1. Khái niệm về báo chí
1.1.1.1. Nguồn gốc của báo chí
Từ xưa đến nay con người đã sống chung với nhau thành tổ chức. Để hiểu
biết nhau hơn cũng như điều hành cuộc sống chung theo một trật tự đã quy đònh thì
họ cần phải có truyền thông. Có nghóa là có sự truyền đạt tin tức, tư tưởng và thái
độ từ người này sang người khác nhằm thỏa mãn hai nhu cầu thiết yếu là nhu cầu
truyền tin và nhu cầu nhận tin. Nhu cầu truyền tin là chuyển những điều, vấn đề
mà mình biết hoặc có tham gia trong sự việc đó, hoặc tự nói ra những nỗi niềm
riêng tư của mình cho người khác biết. Nhu cầu nhận tin là nhu cầu của con người
tìm hiểu về những điều kỳ lạ, tạo lập các mối quan hệ với nhau trong cuộc sống
cộng đồng. Từ đó báo chí ra đời để thỏa mãn hai nhu cầu nói trên của con người
trong quan hệ xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì con người càng đòi hỏi
phương tiện truyền thông phải hiện đại, từ phương tiện đơn giản nhất là truyền
miệng cho đến các phương tiện hiện đại là truyền hình, vệ tinh, báo điện tử ... [ 32

1.1.1.2. Khái niệm về báo chí
Hiện nay có nhiều đònh nghóa về báo chí. Ở Việt Nam, báo viết được dòch từ
tiếng Anh “Newspapers and Magazines” có nghóa là báo và tạp chí, gọi chung là
báo chí. Báo chí là xuất bản phẩm đònh kỳ, in trên giấy khổ lớn, đăng tin tức, bài vở,


Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí quy đònh báo chí Việt
Nam bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói
(chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe –

nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử
(được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài” [ 61, tr.5 ]. Như vậy, báo viết là một trong
những phương tiện của ngành Truyền thông đại chúng (báo chí, truyền thanh,
truyền hình, điện ảnh...) nhằm mục đích thông tin và truyền đạt tư tưởng người này
sang người khác.

1.1.1.3. Lòch sử phát triển của báo chí
Tờ báo in đầu tiên của thế giới ra đời tại quốc gia đã phát minh ra nghề in là
Trung Quốc. Đó là tờ Đế báo được in bằng bản khắc gỗ suốt qua triều đại nhà
Đường đến nhà Tống (960 – 1279). Đến cuối triều đại nhà Minh, tờ báo này được
in bằng con chữ nên sản lượng phát hành nhiều hơn. Đến thế kỷ 14, nghề in xuất
hiện ở Châu Âu nhưng chủ yếu các công đoạn in ấn đều phải dùng bằng tay nên
sản lượng xuất bản không nhiều. Vào thời kỳ này sách báo thường rất đắc tiền và
cũng là nhu cầu mới lạ của thiểu số người giàu có. Năm 1436, Johannes
Gutenberg, người Đức đã phát minh ra chiếc máy in chữ bằng kim loại có thể di
chuyển được. Phát minh này đã giúp cho công việc in ấn trở nên đơn giản và dễ


Tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt phát hành tại Việt Nam vào ngày 15/4/1865
là tờ Gia Đònh báo. Tờ Gia Đònh báo được in 4 trang khổ 32 * 25. Nội dung đăng
công văn, nghò đònh, tài liệu, tin tức trong nước và các bài nghiên cứu về lòch sử,
thơ văn, chuyện cổ tích.… Ngoài ra, ở trang cuối cùng có đăng quảng cáo. Tờ Gia
Đònh báo là cơ quan ngôn luận đầu tiên của Chính phủ Pháp ở Việt Nam. Ngoài
việc tuyên truyền đường lối, chính sách của chính quyền bảo hộ, ban biên tập
người Việt đã sử dụng tờ báo cho nhiệm vụ khác là cổ động một lối học mới, phát
triển và khuyến khích dân chúng học chữ Quốc ngữ [ 37, tr. 26-30 ]. Từ ngày tờ
báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là tờ Gia Đònh báo xuất hiện vào năm 1865 cho
đến nay Ngành báo chí Việt Nam phát triển không ngừng qua các giai đoạn báo
chí Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, báo chí cách mạng 1945–1954, báo chí cách

mạng 1954–1975, báo chí Việt Nam 1975–1985 và báo chí Việt Nam 1986– đến
nay.

1.1.1.4. Vai trò của báo chí


Ngày nay báo chí có vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội và đã trở
thành thứ hàng hóa thiết yếu trong đời sống hàng ngày đối với mọi tầng lớp dân
cư. Mỗi loại báo chí có tôn chỉ, mục đích hoạt động khác nhau và có riêng số
lượng độc giả ủng hộ. Tuy nhiên, tất cả các loại báo cùng có chung 5 vai trò như
sau [ 36 ]:
1 ). Thông tin
Báo chí phổ biến tin tức, giải thích và bình luận những gì có liên quan đến
các vấn đề thời sự trong và ngoài nước. Vai trò này còn bao hàm cả chức năng
giáo dục thông qua việc cung ứng cho độc giả số lượng thông tin phong phú giúp
cho họ đònh hướng hành xử trong quan hệ cộng đồng.
2 ). Tài liệu
Ngày nay báo chí đã phản ánh hầu hết mọi lónh vực và đóng vai trò cung cấp
mọi kiến thức cho độc giả đều đặn trong khoảng thời gian nhất đònh. Báo chí
chuyên ngành có các bài viết có giá trò làm tài liệu bổ sung cho các sách lỗi thời
và ngày nay báo chí được xem như là phương tiện dùng để tìm và đọc các tài liệu
tham khảo.
3 ). Giải trí
Độc giả đọc báo như là để giải trí sau những giờ lao động mệt mõi. Ngoài ra
giải trí cũng là mặt thứ hai của việc đọc báo bất kể người đọc tờ báo với mục đích
gì.
4 ). Liệu pháp tâm lý
Báo chí tác động vào lúc độc giả đọc báo nhằm giúp họ thoát khỏi những áp
lực trong cuộc sống hàng ngày và tự cân bằng tâm lý để làm chủ cuộc sống cá
nhân, gia đình, tập thể.



5 ). Hội nhập xã hội
Đọc báo giúp cho độc giả cảm thấy mình đang đối thoại với cuộc sống bên ngoài,
dần dần độc giả tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Thông qua báo chí, độc giả xác đònh
vò trí của mình trong xã hội và có hướng vươn lên mưu cầu hạnh phúc, tự do, thăng tiến
xã hội… Vai trò này gắn kết cá nhân với quốc gia, xã hội.

1.1.2. Khái niệm về dòch vụ phát hành báo chí
1.1.2.1. Khái niệm về dòch vụ phát hành báo chí
Tất cả sản phẩm báo chí phát hành trên thò trường có cùng bản chất là hữu hình và
vô hình. Báo chí có tính hữu hình vì nó là một sản phẩm của Ngành kỹ nghệ báo chí, cần
phải đầu tư lớn cho quá trình sản xuất ra tờ báo từ khâu chuẩn bò nguyên liệu, nhân công,
máy móc thiết bò… Báo chí là hàng hoá nên cũng chòu sự chi phối của quy luật thò trường.
Báo chí có tính vô hình vì chính tờ giấy và mực in chỉ là vật chứa đựng những thông tin,
là phương tiện cho độc giả tìm và đọc những thông tin mà họ cần thiết. Sau khi đọc xong,
tờ báo sẽ không còn giá trò và được vất bỏ như những tờ giấy vụn. Mặc dù về hình thức
và nội dung của tờ báo không hề bò suy suyễn và dòch vụ PHBC được hình thành ngay từ
thời điểm bắt đầu tiêu thụ [ 36 ].
Khái niệm về dòch vụ PHBC: “Dòch vụ PHBC là sự dòch chuyển báo chí từ nhà xuất
bản đến tay người đọc thông qua kênh phân phối các cấp hay còn gọi là công việc phục vụ
trực tiếp báo chí cho tất cả khách hàng có nhu cầu đọc báo và được trả công bằng một số tiền
tính theo % giá in trên bìa”.
Khái niệm về dòch vụ PHBC của VNPT: “Dòch vụ PHBC là các phương thức nhận đặt
mua dài hạn, bán lẻ (từng tờ, hẹn ước) và chuyển phát tất cả các loại báo chí được phép
lưu hành trên toàn lãnh thổ Việt Nam đến tất cả độc giả, khách hàng có nhu cầu về báo
chí”.


1.1.2.2. Dòch vụ phát hành báo chí trên thế giới

Dòch vụ PHBC của các quốc gia trên thế giới hiện nay đã thành một Ngành
công nghiệp PHBC và ấn phẩm. Ngoài các máy móc hiện đại phục vụ cho in ấn,
xuất bản tờ báo mang tính thẩm mỹ cao, các toà soạn còn ứng dụng công nghệ tin
học truyền báo và các loại phương tiện vận chuyển có tốc độ cao như xe ô-tô vận tải
chuyên dùng và máy bay để giao báo chí đến độc giả. Tại Mỹ có những toà soạn
lớn đã đầu tư các vùng nguyên liệu chuyên trồng cây để sản xuất ra giấy in báo và
sử dụng máy bay chuyên dùng giao báo đến các đòa phương xa hoặc ra nước ngoài.
Tại Thái Lan, tờ nhật báo Bangkok Post xuất bản mỗi kỳ khoảng 1.000.000 bản, toà
soạn sử dụng trực thăng chở báo đi vùng xa và 400 xe tải nhẹ để chở báo đến các
khu vực, đòa phương. Tại Nhật Bản, người dân rất thích đọc báo, bình quân mỗi
người dân đọc 5 tờ báo và toà soạn phát hành chủ yếu 95% qua phương thức dài hạn
[ 8 ]. Mỗi quốc gia có những đặc thù riêng trong việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật
– công nghệ trong in ấn, xuất bản và PHBC. Tuy nhiên, có một số điểm giống nhau
trong dòch vụ PHBC như sau:
1 ). Báo chí được bán rộng rãi tại các nơi thò tứ, đông người; bán tại sạp báo, nhà sách,
siêu thò; bán qua máy bán báo tự động ở dọc đường, bến xe điện ngầm, sân bay, bến
cảng... chủ yếu phục vụ độc giả mua lẻ từng tờ.
2 ). Đối với báo ngày, toà soạn PHBC đến độc giả qua mạng lưới đại lý và phát hành
viên của mình. Toà soạn quản lý độc giả đặt mua. Những tờ báo không có chỉ tiêu thời
gian chuyển phát nhanh như báo chí xuất bản đònh kỳ theo tuần và tháng, toà soạn sẽ phát
cho độc giả theo hình thức “CHUYỂN ĐỘC GIẢ“ qua đường BĐ. Toà soạn phát báo
ngày qua đường BĐ theo hình thức trên theo chỉ tiêu độc giả.
3 ). Đối với báo tuần và tháng, tờ báo từ lúc in ra được gán ngay đòa chỉ của độc giả
nhận theo hình thức “DATA POST – dòch vụ Bưu chính lai ghép“. Sau đó, báo chí


4 ). Phí phát hành được tính theo từng đầu báo. Các nước căn cứ trên một số tiêu chí
để tính phí phát hành như kích cỡ, độ dày mỏng (kích cỡ và độ dày mỏng để thực
hiện chia chọn bằng máy hay thủ công), tốc độ chuyển phát báo chí nhanh hay
chậm, số lượng phát hành mỗi kỳ và hợp đồng được ký trong dài hạn hay ngắn hạn.


1.1.2.3. Dòch vụ phát hành báo chí tại Việt Nam
a ). Hoạt động phát hành báo chí trước ngày Luật báo chí được ban hành
Giai đoạn từ 1955–1986, báo chí là một sản phẩm nhằm phục vụ tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và được bao cấp phát hành đến các cơ
quan, đơn vò và nhân dân. Nhà nước bán báo với giá rẻ và tổ chức phân phối độc
quyền qua mạng lưới BĐ. Thời kỳ này báo chí là loại hàng hóa hiếm, được phân
phối từng tờ theo kế hoạch cho các cơ quan, đơn vò. Số lượng đầu báo phát hành rất
ít, các loại báo được phát hành chủ yếu là cơ quan ngôn luận của các cơ quan Đảng,
Nhà nước, Chính phủ và của tỉnh/thành ủy, đoàn thể lớn, Mặt trận, Công đoàn.
Ngoài ra còn có một số tạp chí của các Bộ và Viện nghiên cứu xuất bản hàng
tháng. Ngành BĐ độc quyền PHBC trên cả nước qua mạng lưới Bưu cục.
Giai đoạn 1986–1990, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, xoá bỏ cơ chế quan
liêu bao cấp sang kinh tế thò trường. Tất cả các ngành nói chung và PHBC nói riêng
chuẩn bò hội nhập và làm quen với nền kinh tế thò trường. Từ sau 1986 đến ngày ban
hành Luật báo chí 02/01/1990, để đáp ứng nhu cầu thông tin trong thời kỳ đổi mới
nhiều ban ngành, đoàn thể phát hành tờ báo làm cơ quan ngôn luận cho cho đơn vò
mình. Các loại ấn phẩm dưới hình thức tờ tin tức lưu hành nội bộ đã trở thành tờ báo
lưu hành toàn quốc. Số loại và sản lïng báo chí phát hành ngày càng nhiều.


b ). Hoạt động phát hành báo chí sau ngày Luật báo chí được ban hành
Hoạt động PHBC sau năm 1990 đã thay đổi để phù hợp với tình hình kinh
doanh kinh tế thò trường. Luật báo chí được ban hành nhằm mục đích xoá bỏ cơ chế
độc quyền và tạo quyền tự chủ cho các cơ quan báo chí trong hoạt động xuất bản và
phát hành tờ báo đến tay độc giả.
Lónh vực PHBC sau ngày ban hành Luật báo chí phát triển không ngừng. Từ
khi nền kinh tế của Việt Nam mở cửa, số lượng báo chí phát hành tăng lên rất
nhiều. Báo chí đa dạng về chủng loại, nội dung, tôn chỉ hoạt động và kỳ xuất bản….
Ngày nay hầu hết các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, ban ngành đoàn thể, tổ

chức xã hội cũng có tờ báo làm cơ quan ngôn luận và phát hành ra xã hội. Theo luật
pháp cho phép, các toà soạn được tự chủ trong việc phát hành báo chí và được xuất
bản kèm theo tờ báo chính là các đặc san, phụ san. Năm 1992 có 268 loại ấn phẩm,
đến 2004 trên cả nước có khoảng 500 cơ quan báo chí với 650 loại ấn phẩm [ 60].

1.1.3. Khái quát tình hình phát hành báo chí trên đòa bàn cả nước
1.1.3.1. Tình hình độc giả
Hiện nay độc giả đặt mua báo đủ mọi thành phần, lứa tuổi. Mỗi người đều
chọn tờ báo có nội dung phù hợp với các chỉ tiêu mà tờ báo mang lại cho họ sự thoả
mãn các nhu cầu sau khi đọc báo như giải trí, làm tài liệu, hướng dẫn, công tác xã
hội, lưu trữ... Độc giả đã tìm đến tất cả các tổ chức và cá nhân PHBC để thoả mãn
nhu cầu đọc báo của mình. Độc giả đặt mua các loại báo quốc văn xuất bản tại TƯ
và đòa phương; đặt mua báo ngoại văn nhập khẩu chủ yếu in bằng các ngôn ngữ
Anh, Pháp, Hoa, Nga, Hàn, Nhật, Đức..., các loại báo này với đònh kỳ xuất bản hàng
ngày, tuần, tháng và năm. Độc giả đặt mua báo cho cá nhân hoặc cho các cơ quan,
đơn vò, đoàn thể...


Độc giả đến BĐ đặt mua 451 loại báo xuất bản tại TƯ, khoảng 200 loại báo
xuất bản tại 64 tỉnh/TP trên cả nước và 270 loại báo ngoại văn. Hiện nay tại các khu
vực thò tứ đông người như ở TP/thò xã, có sự tranh giành khách hàng rất gay gắt giữa
VNPT và các tổ chức, cá nhân tham gia dòch vụ PHBC. Độc giả sẽ đặt mua báo tại
tổ chức hoặc cá nhân nào nếu như họ đáp ứng được nhu cầu đọc báo sớm của họ.
Hiện tại BĐ chiếm thò phần khoảng 40 % sản lượng cả nước.

1.1.3.2. Các cơ quan đơn vò tham gia hoạt động phát hành báo chí
Dòch vụ PHBC hiện nay được thực hiện qua các mô hình của các tổ chức và cá
nhân. Nỗi bật nhất trên cả nước là các mô hình: ( 1 ). PHBC qua mạng lưới BĐ và
đại lý bán lẻ báo chí của BĐ. ( 2 ). Toà soạn tự phát hành, tiêu biểu nhất là toà soạn
báo Tuổi Trẻ. ( 3 ). Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn làm tổng đại lý

và đại lý các cấp cho toà soạn, tiêu biểu là công ty Trường Phát và Fabaco.

a ). Mô hình toà soạn tự phát hành
Mô hình toà soạn tự PHBC thông qua hệ thống đại lý bán lẻ các cấp cuả mình
tiêu biểu nhất là mô hình tự phát hành của toà soạn báo Tuổi Trẻ.
Báo Tuổi Trẻ là cơ quan ngôn luận của Đoàn thanh niên Cộng sản TP.Hồ Chí
Minh, với tôn chỉ hoạt động là công tác thanh niên và xã hội. Độc giả đến với báo
Tuổi Trẻ đa số là thanh niên, trí thức và người lớn tuổi ở các khu vực thò tứ, đông
dân. Hiện nay báo Tuổi Trẻ đã trở thành tờ báo ngày với sản lượng bình quân
300.000 tơ ø/kỳ, trong đó có khoảng 75.000 độc giả dài hạn. Là tờ báo ăn khách ở
phía Nam, báo Tuổi Trẻ xác đònh thò trường mục tiêu ở các tỉnh phía Nam trong đó
TP. Hồ Chí Minh là trọng điểm. Ngoài ra toà soạn xuất bản thêm báo Tuổi Trẻ Chủ
Nhật và Tuổi Trẻ Cười. Điểm nổi bật của mạng lưới PHBC báo Tuổi Trẻ:
1 ). Mạng lưới bán lẻ khoảng 300 đại lý cấp 1 trên khắp cả nước là bộ phận tích cực
nhất, quan trọng nhất trong việc lưu thoát sản lượng. Với sản lượng báo ngày hiện


2 ). Tổ chức 5 xe chuyên dùng vận chuyển miễn phí để giao báo sớm cho toàn bộ
các đại lý tại 11 trung tâm tỉnh/TP vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông.
3 ). Luôn tiên phong trong công tác phát triển mạng lưới phát hành và vận động dân
cư, bạn đọc mở sạp bán báo tại những vùng ngoại thành, vùng dân cư mới và vùng
dân cư đang phát triển còn thưa sạp báo.
4 ). Hợp đồng với nhà in của báo Quân đội Nhân dân để in báo Tuổi Trẻ tại các
TP. Cần Thơ, Nha Trang, Đà Nẵng, Hà Nội.
5 ). Lực lượng PHV của tòa soạn chỉ phát hành đến trung tâm tỉnh, thò xã, thò trấn
đông dân. Do đó, tòa soạn ký hợp đồng PHBC trực tiếp với các BĐ tỉnh/TP theo
hình thức Chuyển độc giả và phát hành trực tiếp qua mạng lưới Bưu cục.

b ). Mô hình công ty làm đại lý phát hành báo chí cho toà soạn
Mô hình các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn làm tổng đại lý

và đại lý PHBC trực tiếp cho toà soạn tiêu biểu nhất là công ty Trường Phát và
Fabaco.

1 ). Công ty trách nhiệm hữu hạn Trường Phát
Hệ thống PHBC của Công ty Trường Phát trải rộng khắp ba miền Bắc–
Trung–Nam thông qua mạng lưới đại lý cấp 1, cấp 2. Công ty luôn chủ động phát
hành dưới hình thức tổng đại lý các loại báo và tạp chí ăn khách có sản lượng
cao như Sài Gòn Tiếp Thò, Thế Giới Phụ Nữ, Thể Thao Ngày Nay, Kinh Tế Sài
Gòn.... Điểm nổi bật của Trường Phát là tổ chức bộ phận chuyên đảm trách
PHBC và chuyên nghiên cứu, phát triển thò trường. Bộ phận nghiên cứu thò
trường nắm bắt tình hình buôn bán tại các đại lý, các sạp; lắng nghe góp ý của


( 1 ). Xác đònh đối tượng
Trước khi nhận phân phối, phải điều tra mục đích hoạt động của tờ báo, đối
tượng phục vụ là ai, sự quan tâm và đầu tư của cơ quan chủ quản trong dài hạn,
phạm vi thò trường.
( 2 ). Marketing
Quảng bá tờ báo đến bạn đọc qua việc phát tờ rơi tại nơi công cộng, treo
Foster, quảng cáo trên báo, đài. Quảng bá tờ báo phải đúng đối tượng, đúng nơi.
( 3 ). Phân phối
Sau chiến dòch quảng cáo cho tờ báo mới, bộ phận phát hành sẽ phát hành
tờ báo đến các đại lý cấp 1 và những đại lý này sẽ phân phối lại cho các nơi như
sạp báo, nhà sách, siêu thò... ở khắp cả nước.
( 4 ). Thăm dò và điều phối
Cả hai bộ phận phát hành và nghiên cứu thò trường cùng phối hợp tại giai
đoạn này. Thăm dò ý kiến của cả hai bên người bán lẻ và người mua về nội
dung và hình thức của tờ báo, từ đó thống kê và đóng góp ý kiến về tờ báo cho
toà soạn. Điều phối nhanh số lượng những nơi bán chậm sang những nơi đang thu
hút khách hàng.


2 ). Công ty cổ phần FABACO
FABACO phát hành trực tiếp đến bạn đọc dài hạn tương tự như BĐ. Khách
hàng của công ty đủ mọi thành phần, đa số là các đơn vò lớn có số lượng báo đặt
mua nhiều. FABACO nhận phát hành báo Tuổi Trẻ mỗi kỳ 3000 tờ, tương đương số


FABACO đã lập một trang WEB trên mạng để giới thiệu sản phẩm của đơn vò
mình. Thông qua việc quảng cáo này, thương hiệu FABACO đi khắp nơi. FABACO
nhận đặt báo qua mạng, thanh toán dễ dàng bằng chuyển khoản hoặc cử nhân viên
đến thu tiền tại đòa chỉ của khách hàng.

1.1.3.3. Tình hình chung về phát hành báo chí trên cả nước
Hiện nay là thời kỳ cạnh tranh gay gắt giữa VNPT với hàng trăm tổ chức là
các cơ quan báo chí, công ty tư nhân và cá nhân trên cả nước cùng tham gia cung
cấp dòch vụ PHBC. Toà soạn PHBC vớiù sản lượng lớn đã tự tổ chức mạng lưới phát
hành. Có toà soạn tự phát hành qua mạng lưới đại lý như báo Tuổi Trẻ và Thanh
Niên. Có toà soạn không phát hành qua mạng lưới BĐ mà uỷ thác cho một tổng đại
lý như báo Công An TP. Hồ Chí Minh hoặc qua một công ty như Sài Gòn Group.
Các loại báo ăn khách được toà soạn phát hành ở khu vực thò tứ, đông dân và tờ báo
được đưa đến nơi xa bằng hình thức “Chuyển độc giả” qua BĐ.


Bảng 1.1: SẢN LƯNG CỦA MỘT SỐ LOẠI BÁO CHÍ ĂN KHÁCH

PHÁT HÀNH QUA MẠNG LƯỚI BƯU ĐIỆN
LOẠI BÁO

SẢN LƯNG/KỲ
PHÁT HÀNH QUA

(tờ/cuốn)
BƯU ĐIỆN ( % )
An Ninh Thế Giới
350.000 _400.000
Bưu điện mua lại
Công An TP.Hồ Chí Minh
350.000 _400.000
Bưu điện mua lại
Tuổi Trẻ
300.000
20
Tuổi Trẻ Chủ Nhật
120.000
20
Tuổi Trẻ Cười
150.000
20
Thanh Niên
270.000 – 300.000
20
Người Lao Động
130.000
70
Nhân Dân
120.000 – 180.000
90
Quân Đội Nhân Dân
120.000 – 180.000
90
Tiền phong

150.000
80
( Nguồn: Vụ báo chí – Văn phòng phía Nam tháng 2/2004 [ 60 ] )
BĐ phát hành tất cả các loại báo xuất bản tại Việt Nam đến khắp mọi nơi
trong cả nước. Loại báo mới xuất bản không ăn khách, loại báo mang nặng tính
tuyên truyền đều uỷ thác BĐ phát hành dưới hình thức “Báo lưu ký“ và “Chuyển
độc giả“. Hầu hết các toà soạn báo TƯ uỷ thác cho BĐ phát hành 100% số lượng
báo chí xuất bản. Báo chí phát hành qua mạng lưới BĐ chủ yếu là báo chí dài hạn.
Các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động PHBC đã khai thác những hạn chế
của VNPT trong việc thoả mãn nhu cầu đọc báo của khách hàng. Họ đã tận dụng lợi
thế không bò ràng buộc phải thực hiện nhiệm vụ chính trò và hoạt động công ích
trên lónh vực PHBC. Ngoài ra, với lợi thế là cơ quan chủ quản xuất bản báo chí và
là tổ chức tư nhân, các tòa soạn và các tổ chức, cá nhân đã chủ động chi hoa hồng
cho các đại lý, độc giả cao hơn BĐ. Từ đó, thò phần của VNPT ngày bò thu hẹp lại.


1.2. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ PHÁT HÀNH BÁO CHÍ CỦA TỔNG CÔNG
TY BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM

1.2.1. Đặc điểm dòch vụ phát hành báo chí của Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam
1.2.1.1. Phục vụ chính trò và công ích
Báo chí là cơ quan ngôn luận, đóng vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền
giáo dục các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến quần chúng nhân dân, để
mọi người nắm vững và thực hiện đúng các đường lối, chính sách và cùng nhau góp
phần bảo vệ và xây dựng đất nước. Thông qua báo chí, người dân phản hồi những tâm tư,
nguyện vọng để đóng góp cho các dường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng
hoàn thiện hơn. Ngoài ra, báo chí làø công cụ giáo dục tư tưởng và món ăn tinh thần của
nhân dân. Ở vùng sâu, vùng xa, vai trò này tỏ ra vô cùng quan trọng đối với người dân.
Phát triển báo chí đều khắp đến các cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể, quần

chúng; từng bước đáp ứng chỉ tiêu mua đọc báo cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Do đó, những tờ báo của TƯ Đảng như báo Nhân Dân, của lực
lượng vũ trang như báo Quân Đội Nhân Dân, các tờ báo của Đảng và chính quyền
đòa phương và một số tờ báo của các đoàn thể khi phát hành qua mạng lưới BĐ
thường không có lợi nhuận [ 5 ]. Bởi vì đây là việc làm công ích của VNPT. Các tổ
chức, cá nhân tham gia PHBC chỉ quan tâm đến lợi nhuận thường không phát hành
những loại báo này. Hiện nay với 8 điểm in báo tại Hà Nội, Vinh, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Đaklak, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh và Sơn La thì hầu hết các đòa phương có báo
Nhân Dân trong ngày, ngoại trừ sáu huyện biên giới tỉnh Lai Châu.

1.2.1.2. Hoạt động thương mại
Chính phủ đã cho phép VNPT kinh doanh dòch vụ PHBC, qua đó để hoàn
thành trách nhiệm phục vụ chính trò. Tuy nhiên, từ ngày Luật báo chí được ban


Bảng 1.2: DOANH THU VÀ CHI PHÍ PHBC CỦA VNPT GIAI ĐOẠN 1993 – 2003
Đvt : 1.000 đ
NĂM

PHÍ PHÁT
CHI PHÍ
BÙ LỖ
HÀNH
1993
19.690.000
67.700.000
48.010.000
1994
28.330.000
108.170.000

79.840.000
1995
42.406.068
177.459.030
135.052.962
1996
52.545.626
184.844.131
132.298.505
1997
68.720.474
139.110.335
70.389.861
1998
79.374.128
162.222.092
82.847.964
1999
87.631.773
161.538.933
73.907.160
2000
93.682.108
185.638.856
91.956.748
2001
102.555.089
187.914.447
85.359.358
2002

119.711.010
167.996.424
48.285.414
2003
142.614.647
195.257.000
52.642.353
(Nguồn: Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam tháng 3/2004 [ 4, 12 ])
Báo chí là hàng hóa đặc biệt, là sản phẩm có chu kỳ sống rất ngắn nên không
được tồn kho. Giá trò của tờ báo giảm dần theo thời gian. Tờ báo được bán lần đầu
là bán các khoảng trống trên trang báo cho nhà quảng cáo và lần sau là bán cả tờ
báo cho người đọc [ 36 ]. Dòch vụ PHBC là một hoạt động kinh doanh, có mua vào,
bán ra, bán sỉ, bán lẻ và báo ế. Hiện nay có sự cạnh tranh khốc liệt giữa BĐ sáu mươi
bốn tỉnh/TP với các cơ quan báo chí và các tổ chức, cá nhân trên thò trường PHBC.

1.2.1.3. Tính thời gian


Là phương tiện thông tin xuất bản đònh kỳ theo ngày, tuần, tháng và năm nên
báo chí mang tính thời gian và sau khi in ra phải được chuyển phát đến mọi nơi trên
cả nước, đến cả các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Hoạt động in, khai thác
và phân phối diễn ra vào khoảng 2 giờ sáng để sáng sớm báo chí được phát hành
đến tay độc giả. Thông tin trên báo chí chuyển đến tay độc giả phải là những thông
tin thời sự “sốt dẻo“. Nếu không thì các phương tiện truyền thanh và truyền hình sẽ
phát rộng rãi các thông tin đã được đăng trên báo đến khắp nơi trong buổi sáng.
Điều này làm cho tính thời gian của báo chí giảm, bởi vì khách hàng ít khi mua báo
nếu như loại báo đó đã được điểm tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Hiện nay VNPT chú trọng chỉ tiêu chất lượng hàng đầu là thời gian phát báo,
rút ngắn thời gian phát báo bằng cách kết hợp dòch vụ Bưu chính với PHBC trong
vận chuyển, phân phối bằng xe chuyên ngành trên các tuyến liên tỉnh, nội tỉnh.


1.2.1.4. Tính đa dạng, không đồng nhất
Báo chí rất đa dạng và được phân loại theo nội dung và mục đích hoạt động, theo
phương tiện truyền thông, theo đònh kỳ xuất bản và đòa bàn xuất bản [ 36 ]. Mỗi tờ báo
có nội dung, số trang, giá bán và đối tượng độc giả khác nhau. Có nhiều toà soạn xuất
bản thêm các đầu báo “ăn theo“ tờ báo chính dưới dạng phụ san, đặc san, tin nhanh...
VNPT hiện nay phát hành khoảng 451 loại báo TƯ, 200 loại báo đòa phương và 270 loại
báo ngoại văn nhập khẩu. Lực lượng PHBC tư nhân chọn lọc vài chục đầu báo ăn khách
để phát hành, trong khi đó tại các Bưu cục phải chấp nhận bất cứ loại báo nào được in
trong Mục lục báo chí (MLBC) của CT PHBC TƯ (Tham khảo phụ lục 1 _ 3).
Có những loại báo được hỗ trợ giá do hoạt động phục vụ chính trò và công ích
hoặc có doanh thu từ quảng cáo nên hiện nay giá bán báo chí đến tay người đọc
thấp hơn giá thành sản xuất [ 5 ]. Báo chí ngày càng tăng trang quảng cáo, cơ quan
xuất bản tăng thêm doanh thu do bán được phần quảng cáo. Nhưng giá bán bìa


1.2.1.5. Đòa bàn phục vụ rộng, phân tán khắp cả nước
Đa số các loại báo chí được in tại TƯ ở Hà Nội và một số tỉnh, TP trung tâm khu
vực, vùng như TP. Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Daklak, Cần Thơ...
nhưng có chỉ tiêu phát hành đến nhân dân khắp mọi miền trên cả nước.
Khâu phát báo chí đến tay độc giả phải do bưu tá trực tiếp chuyển phát. Ở
thành thò đường giao thông đi lại dễ dàng, công việc phát báo đơn giản, ít tốn kém
chi phí cho việc vận chuyển và phát báo chí. Nhưng ở vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa... đi lại rất khó khăn. Có nơi phải đi bộ khoảng 110 km hoặc phải đi bằng
ghe, xuồng và lội bộ vào sâu cả cây số mới phát được tờ báo. Vào mùa mưa lũ, lụt
lội, hạn hán, khi gặp thiên tai, đòch họa, VNPT phải huy động tất cả nguồn lực để
chuyển phát thư, báo chí đến tay người dân trong khoảng thời gian nhanh nhất, bất
chấp mọi khó khăn, gian khổ.
Các tổ chức và cá nhân tham gia PHBC chủ yếu kinh doanh chạy theo lợi nhuận
nên chỉ phát hành đến nơi thò tứ đông dân như ở trung tâm tỉnh/TP, thò xã, thò trấn.


1.2.1.6. Vận chuyển và phân phối báo chí diễn ra một chiều
Vận chuyển và phân phối báo chí chỉ hoạt động một chiều. Tại các nhà in, báo
chí được đóng thành túi để phân phối cho các BĐ tỉnh/TP theo mạng đường thư liên
tỉnh cấp 1trên khắp cả nước. Tại BĐ tỉnh/TP, báo chí được đóng lại cho các BĐ
huyện, thành phố, thò xã. Tại đây, báo chí được khai thác và phát cho độc giả, khách
hàng. Chiều ngược lại là túi rỗng màu xanh BĐ huyện trả lại cho BĐ tỉnh, và túi
màu trắng BĐ tỉnh trả lại cho CT PHBC TƯ. Hoạt động này gây lãng phí lớn đến


1.2.2. Hình thức và phương thức phát hành báo chí của Tổng công ty Bưu
chính Viễn thông Việt Nam
1.2.2.1. Hình thức phát hành báo chí
Hình thức PHBC là mối quan hệ giữa VNPT và các toà soạn có báo chí phát
hành qua BĐ. Dòch vụ PHBC của VNPT hoạt động theo bốn hình thức [ 61 ]:
1 ). Cơ quan báo chí ủy thác cho BĐ phát hành toàn bộ số lượng báo chí xuất bản.
2 ). Cơ quan báo chí ủy thác cho BĐ phát hành một phần báo chí xuất bản và một
phần báo chí xuất bản còn lại cơ quan báo chí tự phát hành.
3 ). Các cơ sở BĐ tự khai thác, mua lại các loại báo chí do cơ quan báo chí phát
hành qua một tổ chức hoặc cá nhân... để phục vụ cho độc giả, khách hàng của mình.
4 ). Phân phối tờ tin lưu hành nội bộ và các xuất bản phẩm khác không phải là báo
chí, phụ san, đặc san cho các cơ quan, đơn vò.

1.2.2.2. Phương thức phát hành báo chí
Phương thức PHBC là mối quan hệ giữa VNPT với độc giả, khách hàng đặt
mua báo chí qua mạng lưới phát hành tại các Bưu cục theo các phương thức:

a ). Phát hành báo chí dài hạn
PHBC dài hạn là bán báo chí cho độc giả đặt mua trong một thời gian dài, thời
hạn này được quy đònh phải tròn tháng và tối thiểu là một tháng. Độc giả trả tiền

trước theo đúng thời gian qui đònh của từng loại báo chí bằng tiền mặt, chéque,
chuyển khoản hoặc ghi nợ. Báo chí được phát sớm, liên tục, đều đặn theo đònh kỳ
xuất bản và phát đến đòa chỉ theo chỉ tiêu của độc giả trong suốt thời hạn đặt mua.


Bán dài hạn là một phương thức có tính chất cơ bản, chủ yếu trong hoạt động
PHBC của VNPT. Độc giả nghiên cứu các vấn đề trên báo chí được thường xuyên
và có hệ thống, không mất thời gian đi mua từng tờ. Phương thức dài hạn thực hiện
được tốt là tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý nghiệp vụ, quản lý kinh tế và
giúp cho hoạt động xuất bản báo chí được ổn đònh. Thời gian bán dài hạn càng dài, số
lượng độc giả càng tăng là hoạt động PHBC đã đi vào thế ổn đònh và vững chắc [ 14 ].

b ). Phát hành báo chí bán lẻ
PHBC bán lẻ được phân thành:
1 ). Báo chí bán lẻ hẹn ước
Thời hạn đặt mua báo chí lẻ hẹn ước không tròn tháng. Thủ tục nhận đặt mua
và quyền lợi của độc giả lẻ hẹn ước tương tự như nhận đặt mua dài hạn.
2 ). Bán lẻ từng tờ
Là bán từng tờ, từng số, bán theo giá in trên bìa của mỗi loại báo chí, bán tờ
nào thu tiền tờ đó. Hiện nay báo chí của BĐ được bán lẻ dưới hai hình thức là bán lẻ
trong ngành (Giao dòch viên trực tiếp bán lẻ tại ghi-sê PHBC) và bán lẻ ngoài ngành
(Đại lý mua báo của BĐ về bán để hưởng hoa hồng).
Ngoài ra, bán lẻ còn đóng vai trò quan trọng và hữu hiệu trong các kỳ báo ra
đôït xuất, đặc biệt phục vụ cho sự kiện lớn như lễ hội, văn hoá thể thao, những ngày
lòch sử của Đảng và dân tộc được phục vụ kòp thời, nhanh chóng và rộng rãi.
Hai phương thức trên có tính chất, chỉ tiêu và hoạt động khác nhau, nhưng đều
có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau để hình thành một
mạng lưới tổ chức phục vụ hoàn chỉnh hoạt động PHBC của VNPT [ 14 ].



×