Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN DƯỚI GÓC ĐỘ DỊCH VỤ THANH TOÁN QUA NGÂN HÀNG TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.48 KB, 9 trang )

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN DƯỚI GÓC ĐỘ
DỊCH VỤ THANH TOÁN QUA NGÂN HÀNG
TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Bài viết tập trung phân tích và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện
dưới góc độ dịch vụ thanh toán qua ngân hàng dựa vào bộ dữ liệu khảo sát đối với 425 đối
tượng phỏng vấn tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến
nghị chính sách đối với cải thiện tài chính toàn diện dưới góc độ dịch vụ thanh toán tại Việt
Nam nói chung, và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
1. Lời mở đầu
Tài chính toàn diện hoặc tiếp cận tài chính toàn diện đều là cách dịch khác nhau
của thuật ngữ Financial Inclusion. Theo Hannig và Jansen (2010) “Tài chính toàn diện là
thúc đẩy người dân không sử dụng dịch vụ ngân hàng sang sử dụng dịch vụ tài chính
chính thức để họ có cơ hội tiếp cận dịch vụ từ tiết kiệm, thanh toán đến tín dụng, bảo
hiểm”. Cùng chung quan điểm tổ công tác hành động tài chính (FATF) trong báo cáo
năm 2011 cho biết "Tài chính toàn diện là cung cấp các dịch vụ tài chính an toàn, tiện lợi
và giá cả phải chăng cho các nhóm thiệt thòi và dễ bị tổn thương, bao gồm những người
có thu nhập thấp, ở nông thôn và không có giấy tờ, những người chưa được phục vụ hoặc
loại trừ khỏi khu vực tài chính chính thức. Mặt khác, nó cũng cung cấp các dịch vụ tài
chính rộng rãi hơn cho các cá nhân hiện đang chỉ được sử dụng các sản phẩm tài chính
cơ bản" (FATF 2011a).
Để đánh giá mức độ tài chính toàn diện của một vùng/quốc gia, nhóm Nghiên cứu
Phát triển của Ngân hàng Thế giới đã xây dựng chỉ số TCTC toàn cầu (Global Findex)
với khoản tài trợ 10 năm từ Quỹ Bill & Melinda Gates. Chỉ tiêu của Global Findex được
lấy từ dữ liệu khảo sát do Gallup, Inc. thu thập trong một năm dương lịch, trên hơn 150.000
người trưởng thành ở 148 nền kinh tế trên thế giới. Sau đợt khảo sát ban đầu vào năm 2011,
các lần khảo sát thứ hai được thực hiện vào năm 2014 và tiếp tục thực hiện tiếp theo vào
năm 2017.
Chỉ tiêu đánh giá tài chính toàn diện của Global Findex được cho là cơ sở dữ liệu toàn
diện nhất đo lường mức độ tài chính toàn diện, cung cấp dữ liệu chuyên sâu về cách thức cá
nhân sử dụng tài khoản, tiết kiệm, vay mượn, thanh toán và quản lý rủi ro và tính đến nay đã


có một số phiên bản khác. Các chỉ tiêu của Global Findex đo lường việc sử dụng và tiếp cận
các dịch vụ tài chính, nghĩa là đánh giá khả năng tiếp cận đến việc cung cấp các dịch vụ của


nhà cung cấp theo nhu cầu của khách hàng và khả năng sử dụng, là mức độ và hình thức sử
dụng tài chính khác nhau giữa các nhóm khác nhau như người nghèo, thanh niên và phụ nữ.
Trên cơ sở bộ chỉ tiêu Global Findex, nghiên cứu này đã xây dựng một bộ câu hỏi để
thực hiện một cuộc khảo sát đối với các đối tượng yếm thế tại đồng bằng Bắc Bộ đối với tất cả
các dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, trong bài viết này, tác giả chỉ tập trung phân tích và đánh giá
các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện dưới góc độ dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị chính sách đối
với cải thiện tài chính toàn diện dưới góc độ dịch vụ thanh toán tại Việt Nam nói chung, và các
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến TCTC toàn diện tại các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ, tác giả đã tiến hành khảo sát trên 425 khách hàng tại tất cả các tỉnh thuộc
vùng đồng bằng Bắc Bộ, theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên trên dân số trên từ 15 tuổi
trở lên và đại diện cho một tỉnh. Số phiếu hợp lệ thu về là 400 phiếu. Đối tượng khảo sát chủ
yếu là những người dân sống ở vùng nông thôn, người có thu nhập thấp, người có việc
làm không ổn định và một phần là khách hàng của NHNNo&PTNT, NHCSXH, QTDND
ở các địa phương khác nhau của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Phương pháp điều tra: Khảo sát trực tiếp.
Quy trình điều tra: Gồm khảo sát thử và khảo sát chính thức.
Thời gian khảo sát: 1/2018-7/2018.
Một số thống kê về đối tượng phỏng vấn
Biểu đồ 1: Giới tính của khách hàng tham gia khảo sát
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả

Bảng 1: Độ tuổi của khách hàng tham gia khảo sát
TT


Độ tuổi

Số lượng (Người)

Tỷ trọng

1

Từ 15 đến 18 tuổi

17

4,3%

2

Từ 19 đến 22 tuổi

3

0,8%

3

Từ 23 đến 35 tuổi

157

39,3%


4

Từ 36 đến 45 tuổi

129

32,3%

5

Từ 46 đến 60 tuổi

78

19,5%

6

Trên 60 tuổi

16

4%


Tổng

400


Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả

Phiếu khảo sát bao gồm 22 câu hỏi về các vấn đề: (i) Thông tin cá nhân; (ii) Hiện trạng
sử dụng tài khoản ngân hàng; (iii) Hiện trạng sử dụng các loại thẻ; (iv) Hiện trạng sử dụng
dịch vụ tiết kiệm ngân hàng; (v) Hiện trạng sử dụng dịch vụ thanh toán; (vi) Hiện trạng sử
dụng dịch vụ tín dụng; (vii) các đề xuất của khách hàng.1
3. Kết quả nghiên cứu từ mẫu khảo sát
3.1. Thực trạng tài chính toàn diện qua dịch vụ thanh toán tại vùng đồng bằng Bắc
Bộ
Thanh toán qua ngân hàng là hình thức thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ thông qua
vai trò trung gian của ngân hàng, phổ biến là thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh
toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán, trong đó, ngân hàng sẽ thực hiện việc
trích từ tài khoản tiền gửi theo yêu cầu của người trả tiền để chuyển vào tài khoản cho
người thụ hưởng. Thanh toán không dùng tiền mặt là hoạt động ngân hàng dựa trên nền
tảng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, tính đến nay, vẫn còn khá đông người dân đồng
bằng Bắc Bộ vẫn chưa được tiếp cận với các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Cụ thể
như sau:
Số liệu thu được từ cuộc khảo sát cho thấy, 53% người trưởng thành tại đồng bằng
Bắc Bộ đã sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, trong khi đó số người quen với
việc mua bán, thanh toán bằng tiền mặt là 47% (Biểu đồ 2). Có nghĩa là vẫn còn gần một
nửa số người được hỏi chưa tiếp cận với sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, bởi các nhân
tố sau đây:
Biểu đồ 2: Số lượng người sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
1 Do giới hạn về thời lượng bài viết nên nhóm nghiên cứu không trình bày phiếu khảo sát trong bài. Tuy
nhiên, nhóm nghiên cứu sẵn sàng cung cấp khi có yêu cầu.


Thanh toán qua ngân hàng là việc thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng hay là

việc chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng của người trả tiền sang tài khoản ngân hàng của người
thụ hưởng. Có nhiều hình thức thanh toán qua ngân hàng như thanh toán tại quầy bằng tiền
mặt/chuyển khoản, thanh toán tự động, thanh toán qua Internet Banking/Mobile Banking,
ATM, ủy nhiệm chi... Cùng với sự gia tăng của chiếc smartphone hiện đại, những dịch vụ
mobile banking đang dần cho thấy giá trị to lớn của nó trong cuộc sống hiện đại ngày
nay. Thay vì việc thanh toán các khoản phí dịch vụ định kỳ theo cách “truyền thống”
thông qua giấy báo cước, người sử dụng dịch vụ phải di chuyển, có mặt hoặc ủy thác
người khác thanh toán hộ hoặc thanh toán qua ngân hàng với nhiều thao tác, thì bây giờ
khách hàng có thể thanh toán qua điện thoại di động, thiết bị hiện đại mà lúc nào cũng bên
cạnh mình.
Số liệu khảo sát được thể hiện ở Bảng 2 cho thấy, thanh toán qua ngân hàng tại quầy
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản là hình thức thanh toán được cá nhân sử dụng nhiều nhất,
với 135/190 người, ở mức 71,1%. Tiếp đến, dịch vụ thanh toán qua ATM với 25/190 người,
chiếm tỷ trọng 13,2% tổng người sử dụng thanh toán qua ngân hàng. Các hình thức thanh toán
hiện đại hơn như internet banking, mobile banking, thanh toán qua điểm POS chưa được các
đối tượng yếm thế thuộc khu vực nông thôn của đồng bằng Bắc Bộ biết đến và sử dụng.
Bảng 2: Các hình thức thanh toán qua ngân hàng được khách hàng sử dụng
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Hình thức thanh toán
Tại quây giao dịch của NH
(bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản)
Ủy nhiệm chi

Qua cây ATM
Qua Internet banking
Qua Mobile banking
Tại các điểm chấp nhận thẻ POS
Hình thức khác
Cộng

Số người sử dụng

TT (%)

135
3
25
17
9
0
1
190

71,1
1,6
13,2
8,9
4,7
0
0,5

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Như vậy, về cơ bản, hình thức thanh toán qua ngân hàng vẫn được cá nhân sử dụng, vẫn

là những hình thức truyền thống, còn các hình thức sử dụng công nghệ hiện đại mới được
khách hàng biết đến và bắt đầu sử dụng.
Bảng 3: Các dịch vụ được thanh toán qua điện thoại di động
Thanh toán qua điện thoại di động
Tiền điện
Tiền cước viễn thông
Tiền cước truyền hình
Nộp học phí
Tiền nước
Vé máy bay
Mua hàng online

Số lượng người sử dụng TT (%)
51
12,8
31
7,8
0
0
4
1
0
0
3
0,8
9
2,1


Chuyền tiền

Không sử dụng

20
282
400

Cộng

5
70,5

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát về mục đích sử dụng thanh
toán qua dịch vụ di động đối với mà các khách hàng vùng nông thôn của đồng bằng Bắc
Bộ. Số liệu khảo sát được thể hiện ở bảng 3 cho thấy dịch vụ mà khách hàng thanh toán
nhiều nhất qua điện thoại di động là trả tiền điện, với 51 người dùng, chiếm tỷ trọng
12,8%; tiếp theo là thanh toán cước viễn thông có 31 người dùng, chiếm tỷ trọng 7,8%;
dịch vụ chuyển tiền 20 người, với tỷ trọng 5%… và các hình thức khác rất ít. Nói chung,
thanh toán qua di động bước đầu được cá nhân dùng cho việc chi trả các dịch vụ thiết yếu
cơ bản của cuộc sống và đang được mở rộng cho các dịch vụ hiện đại hơn.
3.2. Nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận dịch vụ thanh toán qua ngân hàng từ phía cầu
3.2.1. Ảnh hưởng của độ tuổi đến sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
Theo đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ thì người
dân từ 15 tuổi trở lên có thể mở tài khoản ngân hàng. Và nếu có tài khoản ngân hàng rồi
thì khách hàng sẽ rất thuận tiện trong việc thanh toán, chi trả qua tài khoản này mà không
phải đem tiền mặt bên mình.
Bảng 4: Số lượng người sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng theo độ tuổi
Độ tuổi
15 đến 18 tuổi
19 đến 22 tuổi

23 đến 35 tuổi
36 đến 45 tuổi
46 đến 60 tuổi
Trên 60
Cộng

Sử dụng
Không sử dụng
Số lượng TT (%) Số lượng TT (%)
5
2,6
12
5,7
0
0
3
1,4
90
47,4
67
31,9
69
36,3
60
28,6
21
11,1
57
27,1
5

2,6
11
5,3
190
210

Tổng
Số lượng
17
3
157
129
78
16
400

Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Theo bảng 4 những người trong độ tuổi từ 15 đến 18, từ 19 đến 22 tuổi chỉ có 5/20
người sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, chiếm tỷ trọng 2,6% số người thanh
toán qua ngân hàng, do đây là độ tuổi học sinh, sống phụ thuộc gia đình nên chưa có nhu
cầu. Bên cạnh đó người trong độ tuổi từ 46 đến 60 và trên 60 tuổi không có nhu cầu cao
về dịch vụ này vì ở tuổi này các hoạt động kinh doanh, mua bán thanh toán cũng không
nhiều. Có 21/78 người trong độ tuổi từ 46 đến 60 sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng, chiếm tỷ trọng 11,1% người sử dụng sản phẩm này và 5/16 người trên 60 tuổi,
chiếm 2,6% khách hàng sử dụng sản phẩm này. Nhóm tuổi có tỷ lệ người sử dụng dịch
vụ thanh toán qua ngân hàng cao nhất là 23 đến 35 tuổi, với 90/157 người được hỏi sử
dụng, chiếm tỷ trọng 47,4% và nhóm đứng thứ hai là tuổi từ 36 đến 45 tuổi có 69/129


người sử dụng, chiếm tỷ trọng 36% tổng người sử dụng dịch vụ này. Do đây là khoảng

tuổi trẻ, có kiến thức về tài chính, có công việc và thu nhập ổn định, nhu cầu mua bán
nhiều nên nhu cầu sử dụng thanh toán qua ngân hàng nhiều hơn các nhóm tuổi khác.
3.2.2. Ảnh hưởng của nghề nghiệp đến sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
Công việc khách hàng đang làm có ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ thanh toán
qua ngân hàng, bảng 5 cho thấy những người làm nông nghiệp, là học sinh không có nhu
cầu dịch vụ này, với 43/173 người làm nông nghiệp sử dụng, 4/16 người sử dụng, đều ở
mức xấp xỉ 25% người được hỏi có sử dụng sản phẩm này. Kết luận này có thể giải thích
thông qua đặc thù của nghề nông với thu nhập của họ không cao (nếu không nói là quá
thấp), sinh hoạt hàng ngày chủ yếu sử dụng tiền mặt và trao đổi trực tiếp
Bảng 5: Số lượng người sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng theo nghề
nghiệp
Nghề nghiệp
Nông nghiệp
CC, VP, GV, kỹ sư
Công nhân
Tự do, kinh doanh
Học sinh
Nghỉ hưu
Cộng

Sử dụng
Không sử dụng
Tổng
Số lượng TT (%) Số lượng TT (%) Số lượng
43
22,6
130
61,9
173
95

50
36
17,2
131
14
7,4
12
5,7
26
29
15,3
16
7,6
45
4
2,1
12
5,7
16
5
2,6
4
1,9
9
190
210
400
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả

Đối tượng sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng cao nhất là cán bộ công chức,

văn phòng, giáo viên, kỹ sư với 95/131 người được hỏi có sử dụng, xấp xỉ 73% người
được hỏi, chiếm tỷ trọng 50% tổng số người sử dụng sản phẩm này; tiếp sau đó là người
làm tự do, kinh doanh với 29/45 người được hỏi, xấp xỉ 64% người được hỏi, chiếm tỷ
trọng 15,3% tổng người sử dụng sản phẩm này; nhóm cao thứ ba là những người làm
công nhân với 14/26 người, xấp xỉ 53% người trả lời có sử dụng, chiếm tỷ trọng 7,4%
trong tổng số người sử dụng dịch vụ này. Đây là những công việc có trình độ và có nhu
cầu cao về hoạt động mua bán, kinh doanh, giao dịch qua ngân hàng nên nhu cầu về sản
phẩm ngân hàng cao hơn những nghề khác.
3.3.3. Ảnh hưởng của thu nhập đến sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
Khách hàng có khả năng sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng không còn
phụ thuộc vào thu nhập của cá nhân, vì nếu khách hàng có nhu cầu nhưng không có khả
năng về tài chính thì cũng không thể sử dụng.
Bảng 6: Số lượng người sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng theo thu nhập
Thu nhập
Đến 3 triệu

Sử dụng
Không sử dụng
Số lượng TT (%) Số lượng TT (%)
4
2,1
12
5,7

Tổng
Số lượng
16


Trên 3 triệu đến 6 triệu

59
31,1
143
68,1
Trên 6 triệu đến 9 triệu
106
55,8
50
23,8
Trên 9 triệu đến 12 triệu
17
8,9
3
1,4
Trên 12 triệu
4
2,1
2
1,0
Cộng
190
210
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả

202
156
20
6
400


Bảng 6 cho thấy, những người có thu nhập từ 3 triệu đồng trở xuống chỉ có 4/16
người (xấp xỉ 25% số trả lời câu hỏi) dùng thanh toán qua ngân hàng; nhưng đến thu
nhập trên 3 triệu đến 6 triệu thì tỷ lệ người được hỏi sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng đã tăng lên với tỷ lệ 29% người tham gia khảo sát, tương ứng với 59/202 người trả
lời câu hỏi; tỷ lệ ngày càng tăng lên khi thu nhập trên 6 triệu đến 9 triệu đồng với
106/156 người (xấp xỉ 70%) người được hỏi cho biết có sử dụng dịch vụ này; cao hơn
nữa ở thu nhập trên 9 triệu đến 12 triệu có đến 17/20 người trả lời họ có sử dụng dịch vụ
này, với tỷ lệ 85% số người được hỏi. Như vậy, người có thu nhập càng cao thì sử dụng
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng càng lớn và việc thanh toán không dùng tiền mặt giúp
cho khách hàng tiết kiệm được thời gian, chi phí đi lại và hỗ trợ sự lưu thông tiền tệ
trong nền kinh tế.
3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận dịch vụ thanh toán qua ngân hàng từ phía cung
Việc tiếp cận dịch vụ thanh toán chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn, đô thị còn
ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận dịch vụ này còn rất hạn chế. Với câu hỏi
“Vui lòng cho tôi biết lý do vì sao bạn không sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng”
và các sự lựa chọn được gợi ý, khách hàng có thể lựa chọn nhiều đáp án trong đó có các
lý do thuộc về ngân hàng.
Biểu đồ 3 cho thấy, lý do chưa biết thông tin được đề cập đến nhiều thứ hai để lý
giải cho việc không sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với 60 lượt và tỷ trọng
22% khách hàng chưa biết đến thông tin thanh toán qua ngân hàng để sử dụng dịch vụ,
trong đó chủ yếu là khách hàng sống ở nông thôn. Điều đó chứng tỏ rằng do công tác
truyền thông của ngân hàng nên những người dân sống ở vùng quê xa xôi vẫn chưa biết
đến dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
Biểu đồ 3: Lý do khách hàng không sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng


Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả
Phí giao dịch cao là một trong các nguyên nhân dẫn đến không sử dụng dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng, với mức tỷ trọng 15,1%. Phần lớn khách hàng bị rào cản bởi hai lý do
này là những người trong độ tuổi từ 22 trở xuống và trên 60 tuổi; những người làm nông

nghiệp, học sinh, người nghỉ hưu; và những người sống ở vùng nông thôn là chủ yếu. Khi họ
không có nhu cầu thì giá cả với họ như nào cũng là cao.
Và có 8,1% khách hàng không dùng thanh toán qua ngân hàng do không hiểu giao
diện. Những người không có trình độ chủ yếu là làm nông nghiệp sống ở nông thôn họ
khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ thông tin, nhất là công nghệ ngân hàng nên họ
ngại tìm hiểu và dẫn đến không muốn dùng.
4. Một số đề xuất, khuyến nghị
Trên cơ sở các kết quả thu được từ khảo sát đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đối với
dịch vụ thanh toán, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm phát triển tài
chính toàn diện cho Việt Nam nói chung và cho vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Một là, NHNN có chính sách khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) ứng dụng công
nghệ tài chính số, thông tin và viễn thông để phát triển ngân hàng điện tử, tăng cường cung
ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đi kèm với ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông.
Đặc biệt, đẩy mạnh thanh toán qua điện thoại di động, phát triển mạnh các sản phẩm, dịch
vụ tài chính số, ngân hàng số cho dân cư ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Đồng
thời, NHNN có biện pháp mở rộng hiểu biết về sản phẩm dịch vụ tài chính cho người
dân để giúp người dân có kiến thức và lựa chọn sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu,
khả năng của cá nhân.
Hai là, TCTD cần thông tin và giới thiệu đầy đủ về các sản phẩm, dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp, qua đó giúp người dân hiểu và ứng dụng, sử dụng các dịch vụ đó. Các
TCTD có thể kết hợp với các hiệp hội đoàn thể tại địa phương tổ chức các buổi giới
thiệu, sinh hoạt nâng cao kiến thức về tài chính, về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng để
đối tượng khách hàng thuộc khu vực nông thôn hiểu và sử dụng.


Ba là, các mức phí khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ thanh toán qua ngân hàng cần
được xác định hợp lý hơn, phù hợp đối với đối tượng khách hàng thuộc khu vực nông
thôn.
Tài liệu tham khảo
1. Nghiêm Thanh Sơn (2017), “Ðịnh hướng và giải pháp thúc đẩy phổ cập tài chính tại

Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020”. Hội thảo Công nghệ số thúc đẩy tài chính toàn diện tại
Việt Nam.
2. Nguyễn Thị Kim Thanh (2017), “Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện góp phần xóa
đói giảm nghèo”.
/>name=News&mop=topicnews&op=newsdetail&subcatid=155&catid=15&id=7780.
3. Hannig, A. & Jansen, S. (2010). “Financial Inclusion and Financial Stability: Current
Policy Issues”. ADBI Working Paper Series No. 259.
4. Financial Action Task Force (FATF) (2011a). “Anti-Money Laundering and Terrorist
Financing Measures and Financial Inclusion”. FATF, Paris.
5. />


×