Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Phát triển cây cam trên địa bàn huyện cao phong, tỉnh hòa bình theo hướng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.18 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ THỊ VÂN TRANG

PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ THỊ VÂN TRANG

PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

Ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 8340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN PHƯỢNG LÊ


Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu đã được sử dụng trong bản luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa
hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này
đã được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2019
Tác giả

Tạ Thị Vân Trang


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Học viện Khoa
học xã hội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và
làm đề tài. Với những kiến thức đã được học và theo mong muốn nghiên cứu,
cùng với tình hình thực tiễn đặt ra, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển cây cam
trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững” làm
luận văn thạc sĩ của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Phượng Lê,
người hướng dẫn khoa học, đã định hướng và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
làm đề tài.
Tôi cũng xin được trân trọng cảm ơn Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh Hòa Bình; Ủy ban nhân dân xã, huyện; Các cán bộ, hộ nông
dân đã giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra.

Do các giới hạn về kiến thức và thời gian nghiên cứu, chắc chắn luận
văn còn có những thiếu sót và hạn chế. Tôi mong nhận được sự chỉ dẫn, góp
ý, của thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn và
các quý vị đại biểu, xin kính chúc sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng năm 2019
Tác giả

Tạ Thị Vân Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG......................................................................................................................................... 7
1.1 Cơ sở lý luận........................................................................................................................ 7
1.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................................ 21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH.................................................... 29
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Cao phong, tỉnh Hòa Bình 29
2.2 Thực trạng phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh
Hòa Bình...................................................................................................................................... 37
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÂY CAM TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN CAO PHONG, TỈNH HÒA BÌNH THEO HƯỚNG
BỀN VỮNG...................................................................................................................................... 54
3.1 Quan điểm, định hướng phát triển cây cam...................................................... 54
3.2 Một số giải pháp phát triển cây cam trên địa bàn huyện cao Phong,

tỉnh Hòa Bình............................................................................................................................ 55
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ...................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 67


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANLT:

An ninh lương thực

BĐKH:

Biến đổi khí hậu

BVTV:

Bảo vệ thực vật

DN:

Doanh nghiệp

GlobalGap:

Global Good Agricultural Practice_Thực hành nông nghiệp tốt
toàn cầu

GTNT:


Giao thông nông thôn

HĐND:

Hội đồng Nhân dân

HTX:

Hợp tác xã

HU:

huyện ủy

KH&CN:

Khoa học và công nghệ

KT-XH:

Kinh tế - Xã hội

NN&PTNT:

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NTM:

Nông thôn mới


SX-KD:

Sản xuất – Kinh doanh

UBND:

Ủy ban Nhân dân

VietGAP:

Vietnamese Good Agricultural Practices_Thực hành sản xuất
nông nghiệp tốt ở Việt Nam


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Điều kiện thích hợp trồng cây có múi............................................................. 22
Bảng 1.2 Sản lượng Cam, quýt Việt Nam giai đoạn 2007-2016............................ 27
Bảng 1.3 Chất lượng cảm quan, cơ lý và sinh hóa của cam Cao Phong............38
Bảng 2.1 Diện tích, cơ cấu các loại đất năm 2010 và năm 2015........................... 32
Bảng 2.2 Liều lượng phân bón đa lượng cần bón cho cây cam.............................. 43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cao Phong là một trong số các huyện vùng cao của tỉnh Hoà Bình, có
đường ranh giới phía đông giáp huyện Kim Bôi, phía tây giáp huyện Tân Lạc,
phía bắc giáp huyện Đà Bắc và thị xã Hoà Bình, phía nam giáp huyện Lạc
Sơn, đều thuộc tỉnh Hoà Bình. Tuy là một huyện vùng cao nhưng trên địa bàn
huyện Cao Phong lại có ít núi cao. Nhìn chung, địa hình của huyện có cấu
trúc thoai thoải, độ dốc trung bình của đồi núi khoảng 10-15 o, chủ yếu là đồi

dạng bát úp, thấp dần theo chiều từ đông nam đến tây bắc. Đa số các loại đất
ở Cao Phong có độ phì cao, thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây khác
nhau, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả cũng như phát triển chăn nuôi. Khí
hậu Cao Phong thuộc loại mát mẻ, lượng mưa khá và tương đối điều hòa.
Việt Nam có dân số đông nên nhu cầu về số lượng, chủng loại cây ăn quả
là rất lớn. Đặc biệt là các loại quả có chất lượng cao như cam (trong các loại
cây ăn quả có múi thì giá trị hàng hoá của cam quýt cao hơn, do màu sắc trái
cây và vị ngọt hấp dẫn, lượng sinh tố dồi dào [1]. Hàm lượng Vitamin A trong
cam tới 0,465mg/100 g thịt quả, hơn hẳn nhiều loại khác như chuối 0,225mg,
dứa 0,035mg, bơ 0,205 mg, ổi 0,075 mg, na 0,005 mg, sầu riêng
0,01 mg; Hàm lượng Vitamin B1 trong cam 0,09 mg, chuối 0,03 mg, xoài
0,06 mg, dứa 0,06 mg; Vitamin C trong cam 0,42 mg, chuối 0,14 mg, xoài
0,36 mg, dứa 0,22 mg, bơ 0,08 mg) phục vụ các vùng tập trung dân cư đông
và có mức sống cao như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ... Điều đó đã đặt ra cho ngành sản xuất hoa quả của nước ta
phải phát triển mạnh hơn, không những chỉ nhằm phục vụ nhu cầu trong nước
mà còn phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Quả cam quýt dùng để ăn tươi, làm
mứt, chế biến đồ hộp giải khát. Sản phẩm cam quýt còn được dùng nhiều
trong y học cổ truyền, trong công nghiệp thực phẩm, hoá mỹ phẩm...

1


Với địa hình, nguồn tài nguyên đất đai mầu mỡ và khí hậu trên, huyện
Cao Phong có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng, vật
nuôi với nhiều hình thức canh tác hoặc mô hình chăn nuôi khác nhau. Thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cao Phong lần thứ XXVI, nhiệm kỳ
2010 - 2015, huyện xác định cây ăn quả là một trong những loại cây trồng chủ
lực và có tiềm năng lớn. Trong đó cây cam là một cây trồng chủ lực của
huyện Cao Phong, là cây góp phần mang lại thu nhập cao, ổn định cho người

dân trên địa bàn huyện. Theo thông báo của UBND huyện Cao Phong, vụ sản
xuất cam, quýt năm 2018-2019 toàn huyện Cao Phong có 3.015,6 ha cam,
quýt các loại, trong đó cam, quýt thời kỳ kinh doanh trên 1.344,6 ha, sản
lượng đạt trên 35.000 tấn heo thống kê, hiện tại bình quân 1 ha cam, quýt có
tổng giá trị thu nhập gần 600 triệu đồng, trừ chi phí người nông dân thu lãi
ròng đạt 2/3.
Tuy nhiên, phát triển cây Cam trên địa bàn huyện Cao Phong hiện nay
chưa bền vững. Việc phát triển cây Cam ở huyện Cao Phong, vẫn còn nhiều
vấn đề cần được đưa ra nghiên cứu giải quyết, đó là:
- Về mặt kinh tế: tăng trưởng không ổn định, đầu ra của sản phẩm chưa
ổn định. Diện tích trồng cam và sản lượng đang tăng lên nhanh chóng qua
mỗi năm nhưng không chủ động điều tiết được sản lượng cam hợp lý theo
mức cầu của thị trường, trong vụ thu hoạch thường xảy ra tình trạng cung
vượt quá cầu.
+ Công tác đăng ký thương hiệu hàng hoá, quản lý chất lượng sản phẩm
quả bằng thương hiệu còn nhiều bất cập. Chưa có sự đầu tư thoả đáng cho chế
biến. Thị trường tiêu thụ cục bộ, chất lượng thấp.
- Việc làm, thu nhập của người dân không ổn định, nguyên nhân: một
phần do nội lực của người dân còn hạn chế; một phần do sự quan tâm đầu tư

2


của Chính phủ đối với nhân dân như: Công tác đào tạo; ứng dụng chuyển giao
khoa học công nghệ; hỗ trợ về SX, thương mại…còn hạn chế;
- Về môi trường, sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường do khả năng
tiếp cận khoa học công nghệ phục vụ sản xuất và vai trò trách nhiệm của mỗi
cá nhân đối với cộng đồng còn hạn chế, dẫn đến tình trạng sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật bừa bãi, thiếu khoa học, gây ảnh hưởng không tốt đến vệ sinh an
toàn thực phẩm, sức khỏe con người và môi trường sinh thái.

Việc nghiên cứu đề tài “Phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao
Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững” sẽ góp phần giải quyết các vấn
đề nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có một số công trình, báo cáo đánh giá, bài viết
liên quan đến đề tài nêu trên với mục đích phát triển cây ăn quả nói chung và
cây cam nói riêng theo hướng bền vững.
Có thể điểm qua một số văn bản, công trình, bài viết tiêu biểu như:
* Công trình, bài viết vềây ănc quả:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, “Phát triển cây có múi bền vững”.
Cuốn sách giới thiệu kỹ thuật trồng, chăm sóc các loại cây có múi, áp dụng biện
pháp quản lý dịch hại tổng hợp và sản xuất hữu cơ chính là nền tảng sản xuất cây có
múi bền vững. Sản xuất bền vững để giữ cân bằng sinh thái nông nghiệp.
- Nguyễn Mạnh Hà (2007), “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát

triển cây ăn quả theo hướng bền vững trên địa bàn huyện lục ngạn tỉnh Bắc
Giang”, luận văn thạc sĩ trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại
học Thái Nguyên. Tôi đã phân tích thực trạng sản xuất, phát triển cây ăn quả
theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Lục Ngạn từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm phát triển cây ăn quả theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Lục Ngạn.

* Công trình, bài viết về cây cam:

3


- Nguyễn Đăng Thực (2009), “Các giải pháp phát triển sản xuất cây
cam Canh trên địa bàn huyện Đan Phượng - Thành phố Hà Nội”, luận văn
thạc sĩ kinh tế trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội. Luận văn đã hệ thống
hóa những vấn đề lý luận chủ yếu về phát triển sản xuất cây cam Canh, đánh

giá thực trạng sản xuất cây cam canh và xác định tiềm năng phát triển sản
xuất cây cam Canh từ đó đưa ra những giải pháp kinh tế - kỹ thuật nhằm tiếp
tục phát triển sản xuất cây cam Canh một cách hợp lý trên địa bàn huyện Đan
Phượng - Thành phố Hà Nội.
- Nguyễn Thị Phương Loan, Trần Thị Tuyết Thu, Đặng Thanh An
(2016), “Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam tại huyện
Cao Phong, tỉnh Hòa Bình”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học
Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 1S (2016) 260-266. Nghiên cứu trên đã
tiến hành đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cam theo phương thức thâm
canh truyền thống và theo VietGAP để làm cơ sở cho việc phát triển bền vững
cây cam ở Cao Phong.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là đánh giá thực trạng phát triển cây
cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình. Trên cơ sở đó xây dựng
những quan điểm, phương hướng có cơ sở khoa học để đề ra một số giải pháp
khả thi cho việc phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa
Bình theo hướng bền vững.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá các vấn đề khoa học về phát triển khi đánh giá tăng trưởng,
phát triển kinh tế nói chung và cây cam theo quan điểm bền vững.

4


- Nghiên cứu đánh giá thực trạng về kết quả, hiệu quả kinh tế và phát triển
cam trên địa bàn huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao
Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu về những vấn đề làm gì để phát triển cây

cam; những tác động từ các chính sách của Nhà nước đến phát triển cây cam
theo hướng bền vững.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
4.2.1 Phạm vi về không gian
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng phát
triển cây cam và các chính sách nhằm phát triển cây cam trên địa bàn huyện
Cao Phong theo hướng bền vững.
4.2.2 Phạm vi về thời gian
Các số liệu chung được tập hợp trong giai đoạn từ năm 2015-2019.
Các số liệu điều tra kinh tế hộ thực hiện trong năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn đưa ra một số khái niệm, nội dung cơ bản về phát triển bền
vững và các yếu tố chủ yếu phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững qua đó
thấy được ý nghĩa của việc phát triển cây ăn quả theo hướng bền vững.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, tổng hợp tài liệu: nhằm thống kê, tổng hợp các
tài liệu hiện có về phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng bền vững đối với
cây ăn quả có múi nói chung và cây cam nói riêng;

5


- Phương pháp kế thừa: Tổng hợp và kế thừa các kết quả nghiên cứu hiện
có về phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững đối với cây cam hiện có tại Việt
Nam;

- Phương pháp thu thập thông tin và hồi cứu số liệu: thông tin sẽ được
thu thập qua nhiều kênh khác nhau như mạng internet, hệ thống các thư viện
thuộc các trường, viện nghiên cứu và các bộ/ngành, báo chí và phương tiện
truyền thông đại chúng
- Phương pháp phân tích kinh tế và đánh giá tổng hợp: Sau khi có đầy đủ
các thông tin, tiến hành phân tích và đánh giá tổng hợp để đưa ra những đề
xuất phù hợp;
6. Ý nghĩa lý luận vàựthc tiễn của luận văn
Luận văn tiếp cận vấn đề phát triển cây cam theo hướng bền vững từ góc
độ của chuyên ngành Quản lý kinh tế, một góc độ tiếp cận hoàn toàn khác so
với các nghiên cứu trước đây. Cụ thể là:
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về phát triển cây cam theo hướng bền vững.
- Luận văn tập trung vào nghiên cứu tình hình phát triển cây Cam, trên cơ
sở điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình sản xuất, tại một số vùng trên
địa bàn huyện, rút ra những nhận xét, kết luận và đề suất một số giải pháp khả thi
nhằm phát triển cây cam theo hướng bền vững cho huyện Cao Phong.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững.
Chương 2: Thực trạng phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao Phong,
tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển cây cam trên địa bàn huyện Cao
Phong, tỉnh Hòa Bình theo hướng bền vững.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm về cây cam
Cây cam thuộc họ cam Rutaceae, họ phụ cam quýt Aurantiodeae, chi
Citrus có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Nam Châu á. Họ
cam Rutaseae bao gồm cam, bưởi, chanh, quýt. Cam là loại quả cao cấp có giá
trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Trong thành phần thịt quả có 6-12%
đường (chủ yếu đường Saccaroza) hàm lượng Vitamin C từ 40-90mg/100g
tươi, các axit hữu cơ từ 0,4 đến 1,2%, trong đó có nhiều loại axit có tính sinh
học cao cùng với các khoáng chất và tinh dầu thơm. Quả dùng để ăn tươi, làm
mứt, nước giải khát và chữa bệnh. Tinh dầu cất từ vỏ quả, lá, hoa được dùng
nhiều trong công nghiệp thực phẩm và chế mỹ phẩm.
Cây cam là loài cây lâu năm, được phát triển qua 2 giai đoạn: kiến thiết
cơ bản và kinh doanh. Giai đoạn kiến thiết cơ bản thường kéo dài từ 3-4 năm
chỉ có chi phí và chưa có thu hoạch. Nếu giai đoạn này nếu được đầu tư chăm
sóc đúng mức chẳng những rút ngắn được giai đoạn kiến thiết cơ bản mà còn
cho năng suất cao và kéo dài giai đoạn kinh doanh. Giai đoạn kinh doanh dài,
ngắn với năng suất và sản lượng tăng dần theo tuổi cây và mật độ trồng đến
đỉnh cao rồi lại giảm dần. Giai đoạn kinh doanh dài hay ngắn tùy thuộc vào
giống cây ăn quả và mức đầu tư thâm canh. Nhìn chung, cây cam đều phải trải
qua giai đoạn non trẻ, thời kì thuần thục và cuối cùng là già cỗi. Tương ứng
với các giai đoạn này là các thời kì mà cả quá trình sinh trưởng lẫn ra hoa kết
quả cũng dần ngưng lại. Từ đặc điểm này, khả năng tạo ra sản phẩm có giá trị
kinh tế của cây cam chịu sự chi phối của môi trường khác nhau ở các giai
đoạn và sự đầu tư thâm canh ở các giai đoạn cũng khác nhau.

7



1.1.1.2 Khái niệm về phát triển
Trong thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội, “Phát triển” được
biểu hiện dưới nhiều quan niệm và trạng thái khác nhau; song tựu chung lại
“Phát triển” được hiểu là một thuật ngữ chứa đựng các chỉ tiêu phản ánh kết
quả gia tăng, tiến bộ, sau quá trình vận động biến đổi của một hay nhiều hoạt
động Kinh tế - Xã hội trong một giai đoạn, một thời kỳ nhất định. Phát triển
kinh tế là kết quả gia tăng về số lượng, quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ,
sự tiến bộ về chất lượng, cơ cấu kinh tế xã hội.
Theo Gerard Crellet thì “Phát triển là quá trình một xã hội đạt đến thoả
mãn các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản” [19]. Tác giả Raaman Weitz cho
rằng “Phát triển là một quá trình thay đổi liên tục làm tăng mức sống của con
người và phân phối công bằng những thành quả tăng trưởng trong xã hội”.
Với Ngân hàng Thế giới, phát triển với ý nghĩa rộng hơn bao gồm những
thuộc tính có liên quan đến hệ thống giá trị của con người đó là: “Sự bình
đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính trị và các quyền tự do công dân...”.
Phát triển là một khái niệm chung song mỗi chủ thể kinh tế, hoạt động kinh
tế đều có riêng một tiêu trí phát triển dựa theo khả năng, trình độ và công nghệ
của từng chủ thể. Kết quả phát triển Kinh tế - Xã hội mang lưỡng tính, gồm cả
chủ quan và khách quan vì: Khi một chủ thể kinh tế xây dựng kế hoạch phát triển
đều phải phải căn cứ vào các điều kiện chủ quan, khách quan ở quá khứ, hiện tại
và tương lai, đồng thời trong quá trình vận động biến đổi chúng luôn ảnh hưởng
và chi phối một cách chặt chẽ với nhau; mặt khác, trong mối liên hệ xã hội chủ
thể này luôn là yếu tố khách quan của chủ thể kia.

1.1.1.3 Khái niệm về phát triển bền vững
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc
tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union
for Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của
phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ


8


các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập
tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt
sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế
giới về Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment
and Development) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa
là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương
khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn
tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá
trình phát triển. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu
các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm
năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988,
GS. Grima Lino).
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng
đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm
1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát
triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: "Phát
triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế),
phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo
và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm,
phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá
rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời

sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc
nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần

9


thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng
đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de
Janeiro đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát
triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu
của thế hệ tương lai”.
Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba
bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công
bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên
được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức
cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả
“ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có
được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở
thành mục tiêu thiên niên kỷ.
1.1.2 Nội dung chủ yếu về phát triển bền vững
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn,
chất lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống
kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều
kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các
hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở
đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung
mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái
cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.

Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản:
Một là, giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua
công nghệ tiết kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ

10


không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong
tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là,
xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công nghệ sạch và sinh thái hóa công
nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng).
Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1)
Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu
nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp
càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện
hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có
biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí
đánh giá phát triển bền vững về kinh tế. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền
vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí,
như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã
hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống
xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng
giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại;
chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người
(HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân
đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về

văn hóa, văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn
cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho
tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống

11


chấp nhận được. Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính:
Một là, ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị;
Hai là, giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng
cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng
giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là, tăng cường sự tham gia của
công chúng vào các quá trình ra quyết định.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng
nông thôn mới,… đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến
môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các
yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo
đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý,
cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường
xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
và cải thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường
đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục
đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất
định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các
sinh vật sống trên trái đất.
Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là,

sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là,
phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa
dạng sinh học, bảo vệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí
nhà kính; Năm là, bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm

12


thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải
thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm…
1.1.3 Các yếu tố chủ yếu phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững
Có thể chia những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông nghiệp
thành bốn nhóm sau đây:
Thứ nhất, những yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên
Trong các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên, nhân tố đầu tiên phải kể
đến đó là điều kiện đất đai. Các tiêu thức của đất đai cần được phân tích, đánh
giá về mức độ thuận lợi hay khó khăn cho sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp là: Tổng diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp; đặc điểm về chất đất
(nguồn gốc đất, hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong đất, khả năng mà
cây trồng các loại có thể sử dụng các chất dinh dưỡng đó, độ PH của đất...);
đặc điểm về địa hình, về cao độ của đất đai.
Điểm cơ bản cần lưu ý khi đánh giá mức độ thuận lợi hay khó khăn của
đất đai là phải gắn với từng loại cây trồng cụ thể. Rất có thể một đặc điểm nào
đó của đất đai là khó khăn cho phát triển loại cây trồng này, nhưng lại là thuận
lợi cho phát triển loại cây khác.
Đồng thời cũng cần xem xét trong từng thời vụ cụ thể trong năm về ảnh
hưởng của đất đai đốivới sản xuất một loại cây trồng cụ thể.
Đối với sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, đất đai tuy thường được
xem xét trước, nhưng mức độ ảnh hưởng của nó đến sản xuất hàng hoá không
mang tính quyết định bằng điều kiện khí hậu. Những thông số cơ bản của khí

hậu như: Nhiệt độ bình quân hàng năm, hàng tháng; nhiệt độ cao nhất, thấp
nhất hàng năm, hàng tháng; lượng mưa hàng năm, hàng tháng; lượng mưa
bình quân cao nhất, thấp nhất; độ ẩm không khí; thời gian chiếu sáng, cường
độ chiếu sáng; chế độ gió; những hiện tượng đặc biệt của khí hậu như sương
muối, mưa đá, tuyết rơi, sương mù... đều phải được phân tích, đánh giá về
mức độ ảnh hưởng đến phát triển của từng loại cây trồng cụ thể.
13


Ngoài đất đai và khí hậu, nguồn nước cũng cần được xem xét. Nguồn
nước bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, hoặc khả năng đưa nước từ nơi
khác đến vùng sản xuất mà chúng ta đang xem xét.
Tóm lại, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên được xem như cơ sở tự
nhiên của phân công lao động trong nông nghiệp. Đa phần những chuyên môn
hoá theo vùng trong nông nghiệp cho đến thời đại ngày nay đều xuất phát từ
sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, trong đó chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt
về khí hậu và nguồn nước. Chính vì vậy, đối với phát triển nông nghiệp, đòi
hỏi phải nghiên cứu tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt,
thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. Mặt khác, sự khác biệt về
điều kiện tự nhiên giữa các vùng lãnh thổ đã hình thành nên các vùng cây con
đặc sản có lợi thế cạnh tranh rất cao. Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, cần phải nghiên cứu để tận dụng
tối đa điều kiện tự nhiên trong sản xuất hàng hóa nông nghiệp.
Thứ hai, các chủ thể sản xuất
Hiện nay, các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp là các doanh nghiệp và
phần đông là các hộ nông dân. Một thực trạng là điều kiện sản xuất của các
chủ thể, nhất là các hộ nông dân còn rất non yếu.. Tiến hành sản xuất, kinh
doanh trong điều kiện mới, các chủ thể sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường… Để sản xuất nông nghiệp phát triển,
mang tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, nhà nước cần phải tiếp tục

hỗ trợ cho người nông dân trên nhiều lĩnh vực nhằm phát huy hết vai trò chủ
thể trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba, yếu tố về thị trường
Do sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp có mục đích chính là sản xuất ra
nông sản hàng hoá, nên điều kiện về thị trường giữ vị trí quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của người sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Thị trường
vừa là điều kiện, vừa là môi trường của kinh tế hàng hóa; nó thừa nhận

14


giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, khối lượng nông sản hàng hóa tiêu thụ
trên thị trường, nó điều tiết (thúc đẩy hoặc hạn chế) quan hệ kinh tế của cả người
quản lý, nhà sản xuất và người tiêu dùng thông qua tín hiệu giá cả thị trường.
Chính giá cả thị trường sẽ cung cấp tín hiệu, thông tin nhanh nhạy để điều tiết
hành vi kinh tế của các chủ thể kinh tế sao cho có lợi nhất. Thông qua sự vận
động của giá cả, thị trường có tác dụng định hướng cho người sản xuất điều
chỉnh quy mô sản xuất, thay đổi mặt hàng, thay đổi kỹ thuật sản xuất cho phù
hợp với nhu cầu của thị trường. Thị trường ngày càng phát triển sẽ góp phần làm
cho sản phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú. Thị trường cũng lựa
chọn, đòi hỏi cao về số lượng và chất lượng, phong phú về chủng loại nông sản
hàng hóa. Điều kiện về thị trường bao gồm cả thị trường các yếu tố đầu vào của
sản xuất nông nghiệp và thị trường sản phẩm đầu ra.

Thị trường đầu vào bao gồm đất đai, lao động, khoa học, công nghệ sản
xuất, vốn... trong đó đặc biệt là thị trường đất và lao động.
- Trong nông nghiệp, đất đai tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ra
sản phẩm, nó là đối tượng lao động không thể thay thế được; hiệu quả của sản
xuất nông nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng đất đai. Việc cho phép nông
dân được quyền sử dụng đất sản xuất lâu dài thì nguồn tài nguyên đất đai mới

sử dụng có hiệu quả, được bảo vệ và phát triển độ màu mỡ trong quá
trình khai thác, phát huy hết khả năng kinh doanh nông nghiệp của mình. Mặt
khác, quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến đất đai vận
động theo hướng tập trung, hình thành nên các trang trại, đồn điền, có quy mô
sản xuất hàng hóa phù hợp, đem lại lợi nhuận cao.
Bên cạnh đó, với các điều kiện khác như nhau, nếu chỉ tiêu đất đai nông
nghiệp, đất canh tác trên một nhân khẩu, một lao động càng cao, sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hoá và chuyên môn hoá sản xuất nông
nghiệp hình thành và phát triển. Chỉ tiêu này không hoàn toàn cố định, nó

15


không phải là điều kiện bất biến như các điều kiện tự nhiên, nó chịu sự tác
động mạnh mẽ của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật. Trong quá trình công nghiệp
hoá, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, sẽ làm tăng chỉ tiêu
đất đai bình quân một nhân khẩu, hay một lao động. Đồng thời, tiến bộ của
khoa học và công nghệ cũng sẽ làm cho chỉ tiêu này ngày càng ít quan trọng
hơn đối với sản xuất hàng hoá và chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp.
- Cũng như đất đai, sức lao động là một trong hai yếu tố cơ bản cấu
thành quá trình sản xuất và tái sản xuất nông nghiệp. Mở rộng thị trường lao
động chính là môi trường tạo nên sự chuyển dịch người lao động từ nơi thừa
đến nơi thiếu, từ việc làm không hiệu quả sang việc làm có hiệu quả hơn, tạo
điều kiện để phân bố sức lao động hợp lý, phù hợp với khả năng, trình độ của
người lao động trong nông nghiệp. Chính sự phân công lao động và chuyên
môn hóa lao động trong nông nghiệp là cơ sở và là điều kiện để hình thành và
phát triển nông nghiệp hàng hóa. Thị trường lao động có được phát triển hay
không, nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào trình độ dân trí, khả năng lao
động, kỹ năng nghề nghiệp, tính chất cần cù, thông minh… của người lao
động. Trên trực tế, trình độ của người sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp

hàng hóa phải cao hơn người sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế tự nhiên,
biểu hiện họ là những người dám kinh doanh làm giàu cho mình và cho xã
hội, họ dám bỏ sức lực và tiền của vào sản xuất loại hàng hóa có hiệu quả
nhất. Để thực hiện điều đó, người sản xuất cần phải có những kiến thức cơ
bản về khoa học - công nghệ, về quản trị kinh doanh, biết tiếp cận và nghiên
cứu thị trường, nhận biết nhu cầu của thị trường, từ đó biết lựa chọn những
cây, con nào được người tiêu dùng đánh giá cao và có sức mua lớn.
- Khoa học - công nghệ cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong
việc thúc đẩy quá trình chuyển từ nền nông nghiệp tự cung, tự cấp sang nền

16


nông nghiệp hàng hóa. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ có vai
trò ngày càng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển sản xuất hàng
hoá nông nghiệp. Nhận định đó được thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu
sau đây:
Những tiến bộ trong khâu sản xuất và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi
mới. Các loại giống cây, con có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt cho
phép tăng qui mô sản lượng hàng hoá mà không cần mở rộng diện tích trong
nông nghiệp. Các loại giống mới có sức kháng chịu dịch bệnh cao giúp ổn
định năng suất cây trồng, vật nuôi; ổn định sản lượng sản phẩm hàng hoá.
Đặc biệt, trong công nghệ ghép mắt của cây trồng đã trưởng thành vào
gốc cây trồng non đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các vùng chuyên
canh cây trồng dài ngày mau chóng cho sản phẩm, rút ngắn thời kỳ kiến thiết
cơ bản của vườn cây, ổn định tính năng di truyền những phẩm chất tốt của cây
cung cấp mắt ghép, đồng thời lại có sức sinh trưởng cao của gốc cây non. Với
công nghệ mới đó, các loại cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp dài ngày
đang có những bước tăng trưởng cao trong những năm gần đây. Bên cạnh
những tiến bộ trên về công tác giống, còn phải kể đến xu hướng lai tạo, bình

tuyển các giống cây trồng cho sản phẩm phù hợp với kinh tế thị trường: Chịu
được va đập trong quá trình vận chuyển, giữ được độ tươi ngon dài hơn trong
quá trình vận chuyển. Có thể nói xu thế tuyển tạo các loại giống phù hợp với
yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể không lưu ý đến khả
năng chịu được những tác động của sự vận chuyển sản phẩm đi xa, trong thời
gian ngày càng dài hơn. Bên cạnh tiến bộ công nghệ trong sản xuất cây con
mới, hệ thống qui trình kỹ thuật tiên tiến cũng được hoàn thiện và phổ biến
nhanh đến người sản xuất nông nghiệp.
Sự phát triển của qui trình công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm
đang tạo ra những điều kiện có tính cách mạng để vận chuyển sản phẩm đi

17


tiêu thụ tại những thị trường xa xôi. Điều đó cũng đã có ý nghĩa to lớn để mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của từng vùng chuyên canh, xét về không
gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu thụ tại chỗ, hoặc ở vùng lân cận quanh
vùng chuyên môn hoá, thì nay sản phẩm được đưa đi tiêu thụ tại những thị
trường cách vùng sản xuất hàng ngàn, hàng vạn km nhờ công nghệ bảo quản
và chế biến nông sản tiên tiến.
Đồng thời, cuộc cách mạng trong lĩnh vực này cũng tạo điều kiện để mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của vùng chuyên môn hoá xét về thời gian.
Thay vì nông sản chỉ được tiêu dùng trong một khoảng thời gian ngắn vào
thời vụ thu hoạch, thì nay, ngày càng có điều kiện để tiêu thụ nông sản loại
nào đó ngày càng dài hơn, thậm chí là quanh năm. Công nghệ chế biến cũng
mở rộng thị trường nông sản vùng chuyên canh, làm đa dạng hoá sản phẩm
tiêu dùng cuối cùng. Trong nghiên cứu công nghệ chế biến nông sản, cần
hướng tới những mục tiêu cụ thể như, đa dạng hoá sản phẩm tiêu dùng cuối
cùng, kéo dài thời gian tiêu dùng sản phẩm trong năm, tăng dung lượng sản
phẩm nông nghiệp được tiêu thụ..., ngoài mục tiêu truyền thống là tăng giá trị

nông sản thông qua quá trình chế biến.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, vốn cũng là một trong những yếu tố quan
trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh. Vốn ở đây được xét theo nghĩa hẹp,
nó được biểu hiện một lượng tiền mặt nào đó, nó có thể biến thành một nguồn
lực cần thiết để tiến hành sản xuất kinh doanh. Do đó, vốn và việc sử dụng
vốn có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển nông nghiệp hàng hóa. Đối với
doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hoặc hộ nông dân, muốn nâng cao trình
độ sản xuất hàng hóa thì không những cần có lượng vốn đầu tư đủ lớn mà
quan trọng là cần phải biết cách nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn.
Nhưng trên thực tế cả hai vấn đề này các chủ thể sản xuất kinh doanh trong
nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn; hộ nông dân là những người có ít vốn

18


×