Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Xây dựng phong cách người công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.55 KB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LAM

CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
CỦA CÔNG AN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN LAM

CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
CỦA CÔNG AN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN MINH MẪN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận
trong luận văn chưa từng công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào. Tôi xin
chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN LAM


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CATP

Công an Thành phố

CBCS

Cán bộ, chiến sỹ

CCHC

Cải cách hành chính

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH . 11


1.1. Khái niệm, mục tiêu, bản chất của cải cách hành chính ở Việt Nam hiện
nay....................................................................................................................... 11
1.1.1.Khái niệm cải cách hành chính.............................................................. 11
1.1.2. Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay........................ 13
1.1.3. Bản chất của cải cách hành chính........................................................ 15
1.2. Sự cần thiết của cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay..........................18
1.3. Nguyên tắc, nội dung và phương thức tiến hành cải cách hành chính ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay....................................................................................... 21
1.3.1. Nguyên tắc cải cách nền hành chính ở Việt Nam..................................21
1.3.2. Nội dung, phương thức tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước
giai đoạn 2010-2020....................................................................................... 23
1.4. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả công tác cải cách hành chính.........................26
1.4.1. Yếu tố thể chế, đặc điểm tổ chức, vận hành của hệ thống chính trị.......26
1.4.2. Yếu tố tổ chức bộ máy nhà nước........................................................... 27
1.4.3. Yếu tố con người................................................................................... 28
1.4.4. Yếu tố cơ sở vật chất, tài chính............................................................. 30
1.5. Khái quát bài học kinh nghiệm về cải cách hành chính ở các nước trong khu
vực và trên thế giới.............................................................................................. 31
1.5.1. Cộng hòa Liên bang Đức...................................................................... 32
1.5.2. Hàn Quốc.............................................................................................. 33
1.5.3. Singapore.............................................................................................. 35
1.5.4. Nhật Bản............................................................................................... 36
1.5.5. Trung Quốc........................................................................................... 37
1.5.6. Bài học kinh nghiệm............................................................................. 38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI
CÔNG AN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY...................................... 41


2.1. Khái quát về cải cách hành chính trong lực lượng Công an nhân dân..........41

2.1.1. . Chủ trương, quan điểm của Bộ Công an về vấn đề cải cách hành chính
44
2.1.2. Chủ trương, quan điểm của Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an thành
phố Hồ Chí Minh về vấn đề cải cách hành chính...........................................48
2.2. Thực trạng công tác cải cách hành chính ở Công an thành phố Hồ Chí Minh
49
2.2.1. Thực trạng............................................................................................ 49
2.2.2. Nhận xét, đánh giá................................................................................ 66
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CÔNG AN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH..................................................................................................................... 73
3.1. Định hướng chung........................................................................................ 75
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính tại Công an
thành phố Hồ Chí Minh....................................................................................... 78
KẾT LUẬN............................................................................................................ 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Tại các nước
phát triển và các nước đang phát triển trên toàn thế giới hiện nay đều xem cải cách
hành chính như một động lực mạnh mẽ nhằm chủ động thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tại Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm
1986, đến nay đã tiến hành được hơn 30 năm và sẽ tiếp tục thực hiện trong thời gian
sắp tới. Đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được
tiến hành từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Khởi
đầu từ việc cải cách thủ tục hành chính, đến cải cách nền hành chính nhà nước với
ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống bộ máy nhà nước. Hiện nay tại

Việt Nam cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung cụ
thể: Cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công trong hệ thống bộ máy nhà nước.
Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy
nhanh sự phát triển đất nước theo mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong
sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Là trung tâm chính trị - văn hóa, khoa học - xã hội, kinh tế của cả nước,
thành phố Hồ Chí Minh cũng nghiêm túc thực hiện công tác cải cách hành chính.
Cùng với các cơ quan, đơn vị, địa phương, Công an thành phố Hồ Chí Minh (CA
TPHCM) xác định công tác cải cách hành chính (CCHC) là yêu cầu cấp thiết và là
một trong những mặt công tác trọng tâm, đột phá. CATP.HCM đã tập trung phát huy
vai trò của toàn thể cán bộ chiến sĩ nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước. Qua đó, công tác CCHC
ở CATP.HCM những năm qua đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đạt được những
kết quả tích cực, được các cấp, các ngành và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Phát
huy những kết quả đạt được, CATP.HCM ngày càng có những bước tiến mới trong

1


công cuộc cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu “Xây dựng phong cách người
Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”.
1. Lý do chọn đề tài
Công an nhân dân là một bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước,
là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội, trong đó công tác CCHC của lực lượng Công an nhân dân liên quan
trực tiếp đến hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp và đời sống của nhân dân.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 có quy định “Nhà nước xây
dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa
vào dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân..” [31, Điều 67]. Trên cơ sở quy

định của Hiến pháp, văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định “Xây
dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại” [16].
Để thực hiện được mục tiêu trên, lực lượng Công an nhân dân phải coi trọng
đổi mới về mọi mặt, trong đó có công tác CCHC – một công tác quan trọng có ý
nghĩa quyết định đến tổ chức và hoạt động hành chính của lực lượng Công an nhân
dân. Như vậy CCHC trong Công an nhân dân xuất phát từ những quy định của Hiến
pháp, pháp luật về mục tiêu xây lực lượng CAND “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ
và từng bước hiện đại” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và công tác Công an trong tình
hình mới.
Với chức năng, nhiệm vụ là quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm, trong công tác, lực lượng
công an thường xuyên phải tiếp xúc, giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích
thiết thực của người dân. Tuy nhiên, hiện nay thủ tục hành chính trong lực lượng
Công an còn rườm rà, gây phiền hà cho người dân, cơ chế tiếp dân chưa hiệu quả,
bộ máy tổ chức lực lượng chưa tinh gọn, thiếu phối hợp, các văn bản pháp luật còn
chồng chéo dẫn đến chất lượng công tác của cán bộ chiến sỹ bị ảnh hưởng.
Chính vì vậy, CCHC đối với lực lượng Công an nhân dân là hết sức cần thiết,
phù hợp với quan điểm CCHC của Đảng và Nhà nước. Việc nghiên cứu về lý
2


luận và thực tiễn công tác cải cách hành chính trong Công an TPHCM là cần thiết
và cấp bách để cải tiến, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an ninh trật
tự theo hướng tạo thuận lợi cho tổ chức, công dân, doanh nghiệp, cũng như các yêu
cầu nghiệp vụ của lực lượng công an.
2. Tình hình nghiên cứu
Lý luận về cải cách nền hành chính tại Việt Nam không phải là một vấn đề
mới, đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý.
Những vấn đề này được nêu và thảo luận ở nhiều hội thảo, bài viết, các công trình

nghiên cứu về quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam như:
Sách “Cải cách hành chính nhà nước – thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp” của TS. Thang Văn Phúc chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001): sách gồm 5 chương, tập trung cung cấp những nội dung về quan điểm, chủ
trương của Đảng và Nhà nước, thực trạng và phương hướng đổi mới về cải cách
hành chính trong bốn lĩnh vực quan trọng là cải cách thể chế pháp lý, cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước, cải cách trong việc quản lý và phát triển nguồn
nhân lực, cải cách trong việc quản lý tài chính công. Trong quá trình nghiên cứu, tôi
đã kế thừa có chọn lọc một số giải pháp nâng cao hiệu quả cải cách hành chính mà
tôi thấy phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Sách “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà nước” (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013) do PGS.TS Nguyễn Hữu Hải chủ biên. Sách
gồm 8 chương, tập trung cung cấp những kiến thức cơ bản về hành chính nhà nước
như: trình bày các khái niệm cơ bản, đặc điểm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
hành chính nhà nước, các lý thuyết, mô hình hành chính nhà nước, kiểm soát bên
ngoài và kiểm soát nội bộ đối với hành chính nhà nước, giải pháp nâng cao hiệu
quả, hiệu lực hành chính nhà nước. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tiếp thu và kế
thừa phần cơ sở lý luận của tác giả, đồng thời vận dụng cơ sở lý luận này vào thực
tiễn để rút ra sự khác biệt giữa từng thời kỳ, từng lĩnh vực khác nhau.
Ngoài ra, có một số đề tài nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh vực trong cải
cách hành chính như:
3


Trong sách “Cải cách chính quyền địa phương, lý luận và thực tiễn” các tác
giả Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, năm 1998) đã trình bày những cách thức, phương thức cải cách hành
chính của chính quyền địa phương ở nước ta, trong đó có chính quyền ở cấp
phường, xã về mặt tổ chức bộ máy, thể chế, tài chính, ngân sách, cán bộ. Tuy nhiên,
những nội dung này chỉ liên quan đến chính quyền ở cấp phường, xã mà chưa đề

cập chuyên sâu vào các nội dung chung cho chính quyền ở cấp lớn hơn như tại các
đô thị, tỉnh, thành phố, thành phố trực thuộc trung ương hiện nay ở nước ta.
Sách “Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay” của
tác giả Bùi Xuân Đức (Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2004) đề cập đến đổi mới hành
chính bên dưới cấp thành phố và mô hình được tổ chức linh hoạt, không nhất thiết
cấp nào cũng như nhau, có thể có một hoặc hai cấp dưới cấp thành phố, có thể là
quận hoặc có thể là phường, nhưng bộ máy hành chính phải gọn nhẹ. Tác giả đã
khẳng định cấp chính quyền ở đô thị không nhất thiết phải qua ba cấp như hiện nay,
đây là tư duy khoa học, cũng như quan điểm, nhận thức phù hợp với thực tiễn hiện
nay đòi hỏi bộ máy nhà nước cần phải đối mới cơ quan quyền lực cũng như cơ quan
ở địa phương.
Bên cạnh đó, còn có các đề tài nghiên cứu khác như bài viết “Cải cách hành
chính ở Việt Nam: thành tựu và các rào cản hiện nay” của GS.TSKH Nguyễn Văn
Thâm (2005), đề tài “Cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay” của PGS.TS Đinh Ngọc Vượng (2010) và các báo cáo định kỳ tình
hình thực hiện công tác cải cách hành chính của Bộ Nội vụ, các bài viết trên Tạp chí
cộng sản, Tạp chí Tổ chức nhà nước… Các đề tài, báo cáo này nghiên cứu kỹ hơn
về những thành tựu đã đạt được sau vài năm cải cách hành chính, nêu ra một số rào
cản trong công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam những năm 2010 và đưa ra
những giải pháp cụ thể nhằm cải cách nền hành chính nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Về quá trình và kinh nghiệm cải cách hành chính của các quốc gia phát triển
trên thế giới, có một số sách chuyên khảo như sách “Tổ chức bộ máy nhà nước và
4


cải cách hành chính ở Cộng hòa Liên bang Đức” do PTS. Thang Văn Phúc chủ
biên. Sách có 6 chương, gồm các nội dung về tổ chức bộ máy và nền hành chính
Liên bang; chế độ công chức, công vụ; tổ chức bộ máy nhà nước ở cấp bang; tổ
chức bộ máy chính quyền địa phương; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính công

ở Cộng hòa Liên bang Đức. Qua đó cho thấy tình hình lịch sử, quá trình và một số
bài học kinh nghiệm khi tiến hành cải cách hành chính tại nước Cộng hòa Liên bang
Đức.
Ngoài ra còn có quyển sách “Tìm hiểu về hành chính công Hoa Kỳ - lý thuyết
và thực tiễn” (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2009) của PGS.TS Nguyễn
Hữu Hải. Nội dung cuốn sách gồm hai phần: Phần I tập trung giới thiệu về lịch sử
phát triển của khoa học hành chính công Hoa Kỳ qua các thời kỳ, khái quát về cơ sở
thực tiễn của việc hình thành các lý thuyết về hành chính công; Phần II giới thiệu
tóm tắt các lý thuyết tiêu biểu về hành chính công của các nhà khoa học trên thế
giới trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của khoa học hành chính công theo các
chủ đề như: ngành khoa học về hành chính công, mối quan hệ giữa hành chính và
chính trị, lý thuyết tổ chức, quản lý nguồn nhân lực, quá trình ngân sách công, quản
lý công, phân tích chính sách công, thực thi và đánh giá chương trình, mối quan hệ
liên chính quyền, đạo đức hành chính, quản lý công mới.
Một số tài liệu dịch khác như “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi:
Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997” của Ngân hàng thế giới (Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998), “Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính
công trong một thế giới cạnh tranh” của S. Chiavo – Campo và P.S.A Sundaram
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội) đều đề cập đến các xu hướng cải cách
trong hoạt động của Chính phủ các nước trên thế giới [24].
Ngoài ra, đề tài cải cách hành chính cũng đã được khai thác dưới góc nhìn
pháp lý với công trình nghiên cứu ở cấp khóa luận cử nhân, luận văn thạc sĩ và công
trình dự thi nghiên cứu khoa học. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ có các luận văn sau:
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công của Lê Thị Bình Minh về “Đẩy mạnh cải
cách hành chính Nhà nước tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2011-2020”; Luận văn thạc sĩ
5


“Cải cách thủ tục Hành chính tại Ủy ban nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng
Yên” của tác giả Vũ Thị Thanh Hương (2016) [23]; “Thực trạng và giải pháp đổi

mới cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân quận
Kiến An” của tác giả Nguyễn Đình Nam (2017) [25]; “Thực hiện thủ tục hành chính
của Ủy ban nhân dân phường - Qua thực tiễn phường Trần Phú, Quận Hoàng Mai,
TP Hà Nội” của tác giả Nghiêm Xuân Hùng (2016) [22] … Các tác giả đã nghiên
cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về cải cách hành chính ở Việt Nam trong từng thời
kỳ, tại Ủy ban nhân dân của một số địa phương cụ thể, từ đó rút ra được những bài
học kinh nghiệm phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã phân tích, bình luận khá đầy đủ và
toàn diện những nội dung cơ bản về tình hình cải cách hành chính ở Việt Nam. Tuy
nhiên, các đề tài nghiên cứu và các luận văn trên chỉ nghiên cứu chung về tình hình
cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam hoặc chỉ nghiên cứu về cải cách thủ tục
hành chính tại các Ủy ban nhân dân địa phương.
Mặc dù được lựa chọn là một trong những nội dung quan trọng của Chương
trình tổng thể CCHC nhà nước, nhưng cho đến nay, các vấn đề nghiên cứu về
CCHC trong lực lượng Công an nói riêng và tại Công an thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng mới chỉ dừng lại ở các báo cáo, tổng kết của địa phương mà chưa có công
trình chuyên khảo đi sâu nghiên cứu vấn đề CCHC trong lực lượng Công an nhân
dân. Do đó việc tìm hiểu và nghiên cứu những khó khăn, hạn chế trong công tác
CCHC trong lực lượng Công an là cần thiết.
Từ việc tìm hiểu và đánh giá tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả nhận thấy
rằng cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu về công tác cải cách hành chính
trong lực lượng Công an nhân dân. Vì vậy, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về
vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học. Trong quá trình nghiên cứu, bản thân
tác giả có kế thừa, chọn lọc một số ý tưởng của các công trình nghiên cứu trên, kết
hợp với việc phân tích thực trạng của công tác CCHC tại Công an thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay. Qua đó, đưa ra những giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của

6



lực lượng Công an nhân dân TPHCM nhằm nâng cao hiệu quả công tác CCHC của
lực lượng Công an nói chung và lực lượng Công an TPHCM nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác CCHC
trong lực lượng Công an nhân dân; đưa ra các đánh giá, phân tích thực trạng của
công tác cải cách hành chính trong lực lượng Công an TPHCM. Từ kết quả lý luận
và phân tích thực tiễn, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao, hoàn thiện
công tác cải cách hành chính trong lực lượng Công an nhân dân tại TPHCM nói
riêng và Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện các mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm cải cách hành chính và sự cần thiết phải cải cách
hành chính ở Việt Nam. Đồng thời cũng liệt kê, phân tích và bình luận các nguyên
tắc, quan điểm cải cách nền hành chính Nhà nước Việt Nam. Từ đó, đánh giá và
phân tích các mục tiêu, nội dung cải cách nền hành chính nhà nước đã đạt được và
chưa đạt được trong giai đoạn 2010-2020.
Thứ hai, phân tích những chủ trương, quan điểm của Bộ Công an, của Đảng
ủy - Ban Giám Đốc CATP về vấn đề CCHC. Từ đó, đánh giá thực trạng công tác
CCHC trong lực lượng Công an TP.HCM thời gian qua.
Thứ ba, nghiên cứu lịch sử CCHC của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút
ra những kinh nghiệm cụ thể, so sánh với tình hình thực trạng công tác CCHC tại
CATP để rút ra các bài học kinh nghiệm có thể áp dụng.
Thứ tư, tổng hợp những nội dung đã nghiên cứu trên, đưa ra kiến nghị, đề
xuất góp phần hoàn thiện CCHC tại Công an TP.HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công tác CCHC trong lực lượng Công an nhân dân.

7



Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
tập trung vào công tác CCHC của lực lượng Công an nhân dân tại TPHCM trong
khoảng thời gian từ 2001 đến nay. Ngoài ra, phạm vi nghiên cứu còn bao gồm các
bài báo, bài viết khoa học, sách chuyên khảo, báo cáo tổng kết của cơ quan quản lý,
đề tài nghiên cứu khoa học, kể cả luận án, luận văn, khóa luận có liên quan đến cải
cách hành chính.
Trong quá trình nghiên cứu và phân tích đối tượng nghiên cứu, người viết
viện dẫn nội dung các văn bản của Đảng và Chính phủ để làm cơ sở phân tích các
nội dung của CCHC. Đồng thời cũng nghiên cứu công tác CCHC ở một số quốc gia
khác để rút ra ưu và khuyết điểm, từ đó đưa ra giải pháp góp phần hoàn thiện nền
hành chính Việt Nam hơn. Tuy nhiên, các nội dung này sẽ không được nghiên cứu
sâu và toàn diện mà chỉ được trích dẫn và phân tích đối với các vấn đề có liên quan
đến đối tượng nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu của đề tài này là rút ra giải pháp, các phương pháp được
sử dụng chủ yếu là liệt kê, tổng hợp, so sánh, phân tích trong quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra, đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp lý luận và phân tích
thực tiễn, từ đó đánh giá và rút ra kết luận trong từng chương mục, cụ thể như sau:
- Đối với Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính
Chương 1 của luận văn đề cập đến khái niệm cải cách hành chính; sự cần
thiết phải cải cách hành chính ở Việt Nam; nguyên tắc, quan điểm, bản chất cải cách
thủ tục hành chính Nhà nước Việt Nam; mục tiêu và nội dung cải cách nền hành
chính. Đồng thời so sánh với công tác cải cách hành chính ở một số quốc gia khác.
Do vậy, trong phần này, phương pháp tổng hợp, liệt kê, so sánh các số liệu và các
nguồn thông tin, tài liệu chính quy được sử dụng chủ yếu. Từ đó, tác giả tiếp tục sử
dụng phương pháp lý luận để trình bày và phân tích các khái niệm, đặc điểm và sự
khác biệt giữa các quốc gia
- Đối với Chương 2: Thực trạng công tác cải cách hành chính ở Công an

TPHCM
8


Đây là chương quan trọng nhất của đề tài nghiên cứu, thể hiện thành quả của
tư duy và sáng tạo của tác giả. Trong quá trình viết, tác giả đã phải sử dụng kết hợp
phương pháp tổng hợp, liệt kê, phương pháp logic và phương pháp lý luận để trình
bày từng đề mục.
- Đối với Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cải
cách hành chính ở Công an TP.HCM
Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích
thực tiễn rồi đánh giá, rút ra kết luận và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả công tác CCHC ở Công an TP.HCM.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Như đã trình bày tại phần lý do chọn đề tài, tác giả nhận thức rằng CCHC là
đề tài không mới. Tuy nhiên, thực tế tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy chưa có
công trình nghiên cứu nào trình bày một cách chuyên sâu về CCHC trong lực lượng
Công an nhân dân. Vì vậy, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở
cấp độ luận văn thạc sỹ luật học.
Trong Luận văn này, tác giả có sự thống kê, phân tích đầy đủ các yếu tố
nguyên tắc, mục tiêu, nội dung cải cách hành chính, đồng thời cũng đã có những
kiến nghị phù hợp với thực trạng công tác cải cách hành chính ở Công an TPHCM
hiện nay. Do vậy, tác giả tin rằng Luận văn này sẽ có ý nghĩa khoa học và giá trị
thực tiễn trong việc hoàn thiện quy định về cải cách hành chính, tháo gỡ những
vướng mắc, bất cập và nâng cao hiệu quả công tác CCHC trong lực lượng Công an
nhân dân nói riêng, nền hành chính Việt Nam nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở
CATP.HCM

9


Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở CATP.HCM

10


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1.

Khái niệm, mục tiêu, bản chất của CCHC ở Việt Nam hiện nay

1.1.1. Khái niệm cải cách hành chính
Thuật ngữ "cải cách" được dùng rất phổ biến trong ngôn ngữ phương Tây và
phương Đông, được hiểu cụ thể như là một quá trình, một hoạt động cụ thể có mục
đích làm thay đổi, chuyển biến những cái cũ đang có hiện nay theo hướng tốt hơn
hoặc thay thế cái cũ bằng cái mới, đáp ứng các yêu cầu khách quan của tình hình.
Cải cách có thể diễn ra ở những cấp độ, mức độ khác nhau và trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Có những hoạt động cải cách mang tính chất cách
mạng, có những cuộc cải cách chỉ là sự thay đổi hình thức so với ban đầu. Cải cách
bao gồm tập hợp của nhiều cải tiến, sáng kiến, thay đổi, chuyển đổi, chuyển hóa,
phát triển. Cải cách còn được xem là một biện pháp giải quyết những đòi hỏi của
thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình, mục đích cụ thể và yêu cầu phải hoàn
thành và có kết quả trong một thời gian cụ thể đã được xác định. Với ý nghĩa như

trên thì hoạt động cải cách luôn luôn hiện diện trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Thuật ngữ “hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” là quản lý,
lãnh đạo trong một phạm vi cụ thể, nhất định. Tuy hiện nay có nhiều cách hiểu và
giải thích khác nhau về thuật ngữ này, tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên
cứu, nhưng đặc điểm cơ bản của hành chính xuất phát từ việc trong bất kỳ xã hội
nào cũng cần có sự phân công lao động, cần tới sự xác lập những tỉ lệ giữa các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, hành chính theo nghĩa chung là quản
lý công việc, là quản lý xã hội; theo nghĩa riêng, hẹp hơn là công việc nhà nước và
tổ chức quản lý nhà nước. Về cơ bản, hành chính là tổng thể những hoạt động quản
lý của con người nhằm quản lý, cải tạo, điều chỉnh các khách thể, các hoạt động
nhằm đảm bảo cho nó vận động tới một mục tiêu, phương hướng cụ thể đã được xác
định.

11


Căn cứ vào quan niệm về cải cách và hành chính từ đó đã được bổ sung làm
rõ ở trên thì hoạt động cải cách hành chính là hoạt động có ý thức và mục đích cụ
thể của con người nhằm cải tạo, điều chỉnh, nâng cấp nhằm xây dựng và hoàn thiện
công tác quản lý đối với tất cả các hệ thống trong xã hội. Do hoạt động hành chính
luôn gắn liền với hoạt động của các cơ quan nhà nước, các thể chế chính trị nên khái
niệm CCHC thường được xem như tương đồng với khái niệm CCHC nhà nước.
Theo đó, các khái niệm CCHC thống nhất tại các điểm cụ thể như sau: CCHC là sự
thay đổi, điều chỉnh có kế hoạch theo một mục tiêu xác định nhưng không làm triệt
tiêu hay chuyển đổi bản chất của hệ thống hành chính nhà nước mà nhằm mục đích
để hệ thống hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; từ đó hướng đến
mục tiêu điều tiết những mâu thuẫn, trùng lấp trong bộ máy, cơ cấu tổ chức và các
cơ chế quản lý của bộ máy hành chính nhà nước; đồng thời tập trung vào xác địcnh
cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua đó nhằm thiết lập

một hệ thống hành chính chặt chẽ, thống nhất, có hệ thống từ trên xuống dưới.
CCHC không phải là cải cách chế độ chính trị - kinh tế - xã hội mà là quá trình điều
chỉnh, khắc phục mọi trở lực trong cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nền hành
chính, từ đó góp phần xây dựng, phát triển một cách năng động và phù hợp với sự
biến đổi kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, cũng trên cở sở của khái niệm cải cách, khi nhấn mạnh đến cấp
độ, mức độ, tính chất của các cuộc cải cách đã hình thành nên hai luồng khái niệm
về CCHC. Một số tác giả cho rằng, CCHC là phải nhằm mục tiêu thay đổi toàn bộ
các nội dung của nền hành chính như: thể chế, bộ máy, tài chính công, công vụ,
công chức… Theo đó, cần phân biệt CCHC với những biến đổi thông thường,
những "cải tiến" thường nhật trong một nền hành chính tương đối ổn định và phát
triển. Về quy mô, CCHC là một quá trình cải biến có tầm vóc và phức tạp hơn, tập
trung vào nhiều nội dung, yêu cầu lớn chứ không chỉ là các vấn đề mang tính cải
tiến. Về phạm vi, CCHC liên quan đến các bộ phận cấu thành của nền hành chính từ
thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức, hoạt động công vụ
và các nguồn lực công. Với nhận định trên, CCHC được hiểu là một quá trình cải
12


biến có kế hoạch đồng bộ chế độ hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương pháp
hành chính mới trên nhiều phương diện nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt
động của nền hành chính nhà nước.
Mặt khác, một số tác giả lại cho rằng, CCHC không bắt buộc phải tạo ra sự
thay đổi đối với toàn bộ các nội dung của nền hành chính mà là thay đổi một hoặc
một số nội dung của nền hành chính. Theo đó, tùy thuộc vào đặc thù từng quốc gia
trong từng giai đoạn phát triển nhất định, CCHC được nhận định là một quá trình
cải biến có mục đích và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục tiêu là hoàn thiện một
hay một số nội dung của nền hành chính nhà nước nhằm kiến tạo, xây dựng một nền
hành chính vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Như vậy, CCHC là những nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi

căn bản trong hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cải cách có hệ thống
hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành của nền
hành chính công. CCHC được hiểu là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài và có
mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn, thực hiện
tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của mình, với mục đích tăng cường
tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.
1.1.2. Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
Mục tiêu chung của CCHC tại Việt Nam hiện nay là xây dựng một nền hành
chính trong sạch, vững mạnh, quản lý toàn xã hội một cách hiệu quả, đáp ứng các
yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu này đòi hỏi trước hết
phải xây dựng một nền hành chính dân chủ, pháp quyền, bảo đảm các quyền công
dân theo luật định thông qua hệ thống lập quy và bằng các biện pháp cụ thể. Đó là
nền hành chính vì dân, coi công dân là trung tâm và đề cao chức năng phục vụ công.
Bằng hành động thực tiễn, nền hành chính quan tâm đảm bảo các quyền và lợi ích
của công dân, bảo đảm an sinh xã hội, công bằng, bình đẳng, tạo điều kiện cần thiết
để mọi thành viên cùng phát triển.

13


Ngay từ những năm đầ u của đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định cải
cách tổ chức và hoạt động của nhà nước là nhằm xây dựng một nhà nước xã hội chủ
nghĩa vững mạnh phục vụ cho công cuộc đổi mới với những mục tiêu cụ thể sau:
- Kiến tạo, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả
tất cả các nguồn lực cho xây dựng và phát triển đất nước.
- Tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, thông thoáng, thuận lợi,
minh bạch, hiệu quả nhằm giảm thiểu thời gian và chi phí của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ và thực hiện các thủ tục hành
chính.

- Xây dựng, củng cố, hoàn thiện hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
từ trung ương tới địa phương tinh gọn, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh, hiện đại,
hiệu lực, hiệu quả, tăng cường tính dân chủ và pháp quyền trong mọi hoạt động
quản lý, điều hành của Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước
khác.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất
đạo đức, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ từng bước đáp ứng yêu cầu
phục vụ nhân dân cũng như góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Đặc biệt hoạt động cải cách các thủ tục hành chính có ảnh hưởng đến đời
sống, các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp luôn được
chính quyền các cấp từ Trung ương đến các địa phương xác định là khâu đột phá
mạnh mẽ trong hoạt động cải cách hành chính. Theo chủ trương này và dưới sự
quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và các chính quyền
địa phương, hệ thống thủ tục ấy đã được đổi mới một bước, góp phần hoàn thiện thể
chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường
đầu tư, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong sinh hoạt, sản xuất, kinh
doanh.
14


1.1.3. Bản chất của cải cách hành chính
Để kiến tạo một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì
bắt buộc phải tìm hiểu rõ những đặc tính cụ thể, chủ yếu của nền hành chính nhà
nước. Những đặc tính này phải vừa thể hiện đầy đủ bản chất của Nhà nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa kết hợp được những đặc điểm chung của một nền
hành chính phát triển theo hướng hiện đại. CCHC không phải là làm thay đổi bản
chất của hệ thống hành chính, mà chỉ góp phần phát triển, điều chỉnh, hoàn thiện hệ
thống hành chính góp phần giúp cho hệ thống này trở nên hiệu lực, hiệu quả hơn,

bảo đảm phục vụ nhân dân được tốt hơn so với thời gian trước đây. Như vậy, ngoài
những điểm giống CCHC ở các nước, bản chất CCHC ở Việt Nam có những đặc
trưng riêng sau:
Thứ nhất, CCHC không tách rời sự lãnh đạo của Đảng.
Bất kỳ nền hành chính nhà nước nào cũng có tính lệ thuộc vào chính trị và hệ
thống chính trị. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, Đảng nào cầm quyền sẽ đứng
ra lập Chính phủ. Nền hành chính lại được tổ chức và vận hành dưới sự lãnh đạo,
điều hành của Chính phủ, vì vậy dù muốn hay không, nền hành chính phải lệ thuộc
vào hệ thống chính trị, phải phục tùng sự lãnh đạo của đảng cầm quyền. Ngoài ra,
đặc trưng này còn thể hiện ở việc các tổ chức Đảng, các đảng viên đang giữ các
chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Các thành viên này có trách nhiệm triển khai nghị quyết Đảng về CCHC thông qua
các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước.
Mặc dù lệ thuộc vào chính trị, song nền hành chính cũng có tính độc lập
tương đối về hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính. Mặt thuận
lợi từ đặc trưng này chính là ở chỗ dễ tạo sự đồng thuận trong hoạch định chính
sách, biện pháp, thể chế cho cải cách. Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt
Nam là hệ thống một đảng duy nhất cầm quyền. CCHC muốn tiến hành được, muốn
duy trì và đẩy mạnh, trước hết phải là một chủ trương trong đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải
15


cách, càng không thể có những kết quả tích cực. Từ năm 1995 cho đến nay, chủ
trương cải cách hành chính đã được xác định trong một loạt các Nghị quyết của
Đảng tại các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội
Đảng, trong đó nổi bật là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X vì đó là một
Nghị quyết riêng về CCHC.
Cải cách hành chính không tách rời sự lãnh đạo của Đảng vừa là bài học kinh

nghiệm, vừa là đặc trưng cải cách của Việt Nam.
Thứ hai, cải cách hành chính mang tính pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Với tư cách là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước, nền
hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động tuân theo những quy định pháp
luật, đồng thời yêu cầu mọi công dân và tổ chức trong xã hội phải nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật. Đảm bảo tính pháp quyền của nền hành chính là một trong
những điều kiện để xây dựng Nhà nước chính quy, hiện đại, trong đó bộ máy hành
pháp hoạt động có kỷ luật, kỷ cương.
Ở nước ta hiện nay, tính pháp quyền được thể hiện rõ ràng trên cả hai
phương diện là quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật và theo hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành. Điều đó có nghĩa là, các cơ quan hành chính nhà
nước sử dụng luật pháp là công cụ nhằm quản lý, điều chỉnh, điều tiết các mối quan
hệ xã hội đối với các đối tượng được mình quản lý. Đồng thời, tại các cơ quan hành
chính nhà nước cũng như đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ trung ương đến
địa phương cần phải được tổ chức và hoạt động theo các quy định cụ thể của pháp
luật; việc cải cách hành chính cũng phải thực hiện theo quy định của pháp luật nói
chung và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói riêng chứ không được thực
hiện một cách tự do, tuỳ tiện vượt qua hay đứng ngoài các quy định của pháp luật.
Thứ ba, CCHC mang tính phục vụ nhân dân. Nền hành chính nhà nước có
nhiệm vụ và trách nhiệm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và phục vụ
những nhu cầu thiết, chính đáng yếu của người dân. Đề cập đến nền hành chính
16


phục vụ là đề cập đến nền hành chính dân chủ, pháp quyền, trách nhiệm và lấy phục
vụ người dân làm mục đích chủ yếu, lấy hiệu quả hoạt động và sự hài lòng của
người dân làm tiêu chuẩn thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả của nền hành
chính. Bản chất của nền hành chính phục vụ là nền hành chính lấy người dân làm

trung tâm nên mọi hoạt động của nó đều thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta hiện
nay là nhà nước của dân do dân và vì dân.
Do đó, phải xây dựng một nền hành chính công bằng, bình đẳng trong sạch,
không vì mục tiêu lợi ích, không đòi hỏi lợi ích từ người được phục vụ. Bản chất
của nhà nước ta là nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tôn trọng và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là tư tưởng chủ đạo trong xây dựng, thực hiện
hệ thống thể chế hành chính ở nước ta.
Thứ tư, CCHC diễn ra đồng thời với khá nhiều cuộc cải cách khác, trên nhiều
lĩnh vực khác hiện nay cụ thể như: cải cách kinh tế, cải cách các hoạt lập pháp, tư
pháp, cải cách đội ngũ cán bộ công chức... Đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo
thống nhất, có hệ thống thứ bậc chặt chẽ, tập trung nhằm bảo đảm mục tiêu chung
của phát triển.
Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ là một trong các yếu tố bảo đảm cải
cách hành chính đạt kết quả. Do vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
Chính phủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác chỉ đạo triển khai cải
cách hành chính tại nước ta hiện nay. Đồng thời, việc đảm bảo tính thống nhất, đồng
bộ của cải cách hành chính nói riêng và các cuộc cải cách khác trong hệ thống chính
trị nói chung cũng giữ vai trò quan trọng. Qua đó tạo ra sự đồng bộ, thống nhất ở
tầm vĩ mô trong hoạch định thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm các cuộc cải
cách có thể hiệu quả hơn.
Thứ năm, CCHC được triển khai trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành chính,
nhiều nội dung trên nhiều lĩnh vực cải cách, mỗi lĩnh vực lại bao gồm một loạt các
lĩnh vực thành phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của cải cách hành chính ở Việt
Nam. Vì vậy, triển khai cải cách hành chính hết sức khó khăn và phải làm lâu dài.

17


Đối tượng tác động của nền hành chính có nội dung hoạt động phức tạp và
quan hệ đa dạng, phong phú đòi hỏi các nhà quản lý hành chính phải có kiến thức

văn hóa xã hội và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu. Ngoài ra, các mối
quan hệ xã hội và hành vi công dân cần được pháp luật điều chỉnh diễn ra một cách
thường xuyên, liên tục theo các quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy,
nền hành chính Nhà nước phải hoạt động liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động
sản xuất, lưu thông không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào. Tuy nhiên, nhà
nước là một sản phẩm của xã hội, trong khi đời sống kinh tế - xã hội luôn vận động
biến đổi, nên hành chính nhà nước cũng phải thích nghi với hoàn cảnh thực tế để
đáp ứng yêu cầu phát triển.
So với nhiều quốc gia đã tiến hành cải cách hành chính thì cải cách hành
chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, thủ
tục tới con người, các cơ chế hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin vào hành
chính v.v.... Có thể nói gần như các yếu tố cấu thành cơ bản của nền hành chính
quốc gia đều đòi hỏi phải cải cách, thay đổi. Chính vì vậy, việc triển khai không đơn
giản và cũng không thể sớm đạt kết quả.
1.2.

Sự cần thiết của cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay

Hoạt động hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
trật tự của xã hội, duy trì sự phát triển xã hội theo định hướng của nhà nước, qua đó
hiện thực hóa mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai
cấp cầm quyền trong xã hội. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước là yêu cầu và mong muốn của mọi quốc gia. CCHC đã trở
thành một trong những đòi hỏi khách quan của sự phát triển và đổi mới. Khẳng định
tầm quan trọng của cải cách hành chính nhà nước với tư cách là một bộ phận không
tách rời và quyết định thành công của đổi mới, Đảng và Nhà nước đã xác định: cải
cách hành chính là nội dung trọng tâm của công cuộc đổi mới và cải cách nhà nước
theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cải cách nền hành chính nhà nước là một quá trình liên tục mang tính quyết
định nhằm làm cho hoạt động thực thi quyền hành pháp ngày càng thích ứng hơn

18


với yêu cầu của sự vận động và phát triển nền kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Hiện nay cần phải cải cách nền hành chính xuất phát từ các lý do sau:
Về mặt khách quan: có nhiều lý do khách quan đòi hỏi cải cách nền hành
chính nhà nước.
Một là do trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, CCHC hướng tới việc nâng
cao khả năng hoạt động của bộ máy hành chính để giúp cho quá trình quản lý xã hội
của Nhà nước được tốt hơn, trước hết là quản lý nền kinh tế, định hướng cho nền
kinh tế phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước. Sự phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt
ra yêu cầu đối với Nhà nước nói chung và nói riêng đối với nền hành chính nhà
nước cần không ngừng hoàn thiện thể chế cũng như nâng cao hiệu lực pháp lý theo
cơ chế mới nhằm bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, mạnh vững vàng theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải tăng cường điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, bộ máy của các cơ quan hành chính trong việc
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được phân công quản lý.
Hai là, xu thế của thế giới hiện nay là toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Toàn
cầu hoá là một quá trình khách quan, tất yếu đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến tất
cả các quốc gia trên thế giới trong đó có cả Việt Nam. Quá trình hội nhập quốc tế là
một yêu cầu cấp thiết đối với các quốc gia để có thể tận dụng được cơ hội, thành tựu
khoa học kỹ thuật, đồng thời hạn chế những thách thức trong toàn cầu hoá để có thể
phát triển bền vững. Tổ chức bộ máy hành chính của các quốc gia phải vận động
nhanh nhạy, hiệu quả hơn để tăng cường tiềm lực của quốc gia trong quá trình hội
nhập. Hiện nay xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đã và đang đặt ra những yêu
cầu mới đối với các hoạt động hành chính của nhà nước phải thay đổi cả về nội
dung, hình thức, các phương thức thực hiện hoạt động hành chính nhà nước phải
tuân thủ nghiên ngặt theo các quy định, thông lệ quốc tế trong hoạt động hành chính

nhà nước. Từ đó đặt ra những yêu cầu mới đối với thể chế hành chính cũng như đối

19


×