Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Kỷ yếu hội thảo HỒ CHÍ MINH HIỆN THÂN CỦA NỀN VĂN HÓA TƯƠNG LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.51 MB, 224 trang )

UBND TỈNH AN GIANG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KỶ YẾU
HỘI THẢO KHOA HỌC

HỒ CHÍ MINH
HIỆN THÂN CỦA NỀN VĂN HÓA TƯƠNG LAI

An Giang, tháng 4 năm 2019


MỤC LỤC
STT

Tên bài viết

Trang

PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
1

2

3

HỒ CHÍ MINH - NHÀ VĂN HÓA HÕA BÌNH MỘT BIỂU TƯỢNG
CỦA NỀN VĂN HÓA TƯƠNG LAI
ThS Trịnh Thùy Lam
Học viện Chính trị khu vực IV


HỒ CHÍ MINH – NHÀ VĂN HÓA LỚN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
VÀ CỦA NHÂN LOẠI
ThS Nguyễn Văn Trang
Trường Đại học An Giang
TÌM HIỂU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA HAI NỀN VĂN HÓA ĐÔNG - TÂY
ĐẾN TƯ TƯỞNG VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH

2

7

11

ThS Phan Thị Ánh
Trường Đại học An Giang

4

NỀN VĂN HÓA MỚI - TỪ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐẾN
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

17

Ngô Hùng Dũng
Trường Đại học An Giang

5

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÕ CỦA VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO SINH VIÊN HIỆN NAY


22

6

ThS Lê Thị Thu Cúc
Trường Cao đẳng Nghề An Giang
NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH TRONG ĐƯỜNG LỐI
VĂN HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ThS Nguyễn Văn Trang
Trường Đại học An Giang

27

7

NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH

34

8

ThS Lê Thị Mỹ An
Trường Đại học An Giang
NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI ĐẠI
NGÀY NAY
ThS Trần Thị Lụa
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam - PVMN

38


9

GIÁ TRỊ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ RÈN LUYỆN
NHÂN CÁCH CỦA THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

41

TS Trần Văn T u, ThS Ngô Thị Kim Phượng
Trường Đại học Phú Yên

10

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THI ĐUA YÊU NƯỚC - GIÁ TRỊ
VĂN HÓA CỦA THỜI ĐẠI
TS Lê Võ Thanh Lâm - Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM.
ThS Trần Duy Long - Chủ tịch P. Linh Xuân, Quận Thủ Đức, TP.HCM

47


11

TƯ TƯỞNG VĂN HÓA CỦA HỒ CHÍ MINH – NỀN TẢNG XÂY DỰNG
NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

52

ThS Nguyễn Thị Kim Ngân
Trường Đại học An Giang


12

GIỮ GÌN, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH

58

ThS Bùi Văn Tuyển
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

PHẦN II: MỘT SỐ LĨNH VỰC CỦA VĂN HÓA THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
13

TÌM HIỂU TRIẾT LÝ DÙNG NGƯỜI TRONG VĂN HÓA CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

66

ThS Bùi Thu Hằng
Trường Đại học An Giang

14

NỀN GIÁO DỤC MỞ - TỪ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐẾN
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

69


TS Ngô Thị Huyền - Đại học Lạc Hồng

15

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THANH NIÊN
VIỆT NAM

75

Phạm Ho ng Phúc
Trường CĐSP Kiên Giang

16

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC VÀ THỰC TIỄN
VẤN ĐỀ VĂN HÓA TRONG NGÀNH GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY

79

Trần Bảo Nguyên
Trường Đại học An Giang

17

18

19

20


VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC” CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀO GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

TS Trần Đình Phụng
Trường Đại học An Giang
GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA DI CHÖC BÁC HỒ ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI” TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
ThS Nguyễn Minh Diễm Quỳnh
Trường Đại học An Giang
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC GIÁO DỤC VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT
NƯỚC TỪ 1986 ĐẾN NAY
ThS Lê Đức Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
THANH NIÊN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
ThS Phan Thị Ho ng Mai
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng

85

93

99

105



21

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA THỂ CHẤT
VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

109

ThS Nguyễn Đo n Quang Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng

22

TRIẾT LÝ SỐNG HỒ CHÍ MINH - ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG
THẾ HỆ CÁCH MẠNG TƯƠNG LAI

114

ThS Lê Thị Thu Phương
Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam

23
24

25

26

27

28


29

PHONG THÁI, CỐT CÁCH BÁC TRONG THƠ BÁC
TS Nguyễn Bá Long
Trường CĐSP Kiên Giang

GIÁO DỤC TRIẾT LÝ NHÂN SINH HỒ CHÍ MINH QUA
TÁC PHẨM NHẬT KÝ TRONG TÙ
ThS Huỳnh Ngọc An
Trường Đại học An Giang
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH QUA MỘT SỐ TRANH VẼ
TS Nguyễn Văn Ninh
ThS Dương Tấn Gi u
Đại học Sư phạm Hà Nội
Ý NGHĨA “CHẤT THÉP” TRONG THƠ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
LĨNH VỰC VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS Nguyễn Văn Thật
Phân viện miền Nam, Học Viện Thanh Thiếu niên Việt Nam
“ĐỜI SỐNG MỚI” - MỘT CHỦ TRƯƠNG ĐỘC ĐÁO CỦA VĂN
HÓA HỒ CHÍ MINH
Đại úy Nguyễn Thị Ho i
Đại học Nguyễn Huệ (Trường Sĩ quan Lục quân 2)
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM
ThS Đo n Thị Huế
Trường Đại học Văn Hiến, TP. Hồ Chí Minh
PHÕNG, CHỐNG CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN TỪ VIỆC HỌC TẬP VÀ LÀM
THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH


118
120

126

131

135

140

145

ThS Nguyễn Ngọc Quy - an Tuyên gi o C n Th
TS Nguyễn Tiến Dũng - Học viện Chính trị khu vực IV

30

31

32

HỒ CHÍ MINH - HIỆN THÂN CỦA MỘT NHÂN CÁCH ĐẸP
ThS Lê Thị Thu Phương
Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam
CN. Nguyễn Thị Kim Ngân
Khoa Nhà nước và Ph p luật, Học viện Chính trị khu vực II
BẢN DI CHÖC CỦA HỒ CHỦ TỊCH KẾT TINH PHONG CÁCH VÀ
NHỮNG TƯ TƯỞNG LỚN
ThS Nguyễn Văn Cương

Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng

XÂY DỰNG VĂN HÓA ĐẢNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH

151

158

163

GV Ngô Hùng Dũng, Tạ Văn Sang
Trường Đại học An Giang

33

DI CHÖC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ TRƯỜNG TỒN
CỦA MỘT TƯ TƯỞNG LỚN VỀ “ĐẢNG CẦM QUYỀN”

167


NGƯT. Phạm Hồng Việt - Nguyên GV Trường Đại học Sư phạm Huế
ThS Phạm Thị Hồng Vinh - Trường Đại học Đồng Nai

34

VĂN HÓA “TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH” THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH


171

ThS Nguyễn Ngọc Quy - an Tuyên gi o Thành ủy C n Th .
SV Nguyễn Thị Ngọc Nga - Trường Đại học C n Th .

35

NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH - MỘT BỘ PHẬN HỢP THÀNH VĂN HÓA ĐẢNG

176

ThS Ngô Thị Kim Ngân
an Tuyên gi o Tỉnh ủy ến Tre

36

KHOAN DUNG HỒ CHÍ MINH - KẾT TINH CỦA VĂN HÓA DÂN TỘC
VÀ VIỆC VẬN DỤNG TRONG HÕA HỢP DÂN TỘC HIỆN NAY

180

ThS Vũ Trung Kiên
Học viện Chính trị khu vực II

37

TINH THẦN KHOAN DUNG VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


189

ThS Võ Ho ng Đông
Trường Đại học An Giang

38

KHOAN DUNG VÀ HƯỚNG THIỆN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

192

ThS Từ Thị Thanh Mỵ, ThS Võ Văn Dót
Trường Đại học An Giang

39
40

41

42

GÓP PHẦN TÌM HIỂU VĂN HÓA QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
ThS Nguyễn Hồ Thanh
Trường Đại học An Giang
GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
ThS Phạm Thị Quỳnh Chi
Phân viện miền Nam - Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
TRIẾT LÝ NHÂN SINH HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH ỨNG XỬ VỚI

CON NGƯỜI
ThS Tạ Văn Sang
Trường Đại học An Giang
VĂN HÓA TRONG PHONG CÁCH ỨNG XỬ CỦA HỒ CHÍ MINH VỚI
VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAMTRONG THỜI ĐẠI MỚI

197
202

206

211

ThS Nguyễn Thị Kim Ngân
Trường Đại học An Giang

43

HÒA BÌNH TRONG VĂN HÓA NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

215

ThS Nguyễn Xuân Mỹ
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng

Bản quyền thuộc về Trường Đại học An Giang, tuy nhiên quan điểm trình bày
trong kỷ yếu này là quan điểm của tác giả. Trường Đại học An Giang không
đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu trình bày trong kỷ yếu này và không
chịu bất cứ trách nhiệm nào do việc sử dụng các dữ liệu này gây ra



LỜI GIỚI THIỆU
Hội thảo khoa học với chủ đề “Hồ Chí Minh – Hiện thân của nền văn hóa
tương lai” đã nhận được tổng cộng 51 bài viết của các tác giả, nhà khoa học, giảng
viên đến từ nhiều đơn vị. Nội dung bài viết rất phong phú, đa dạng xoay quanh chủ
đề, gồm 2 phần cụ thể:
Phần I: Những vấn đề chung về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Phần II: Một số lĩnh vực của văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình biên tập bài viết, Ban biên tập chỉ chỉnh sửa lỗi kỹ thuật, lỗi
chính tả và một số lỗi câu cho rõ nghĩa. Còn nội dung của bài viết, Ban biên tập nhất
trí với tư tưởng và quan điểm của tác giả. Bản quyền thuộc về Trường Đại học An
Giang, tuy nhiên quan điểm trình bày trong kỷ yếu này là quan điểm của tác giả.
Trường Đại học An Giang không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu trình bày
trong kỷ yếu này và không chịu bất cứ trách nhiệm nào do việc sử dụng các dữ liệu
này gây ra.
Thay mặt Ban tổ chức Hội thảo khoa học, chúng tôi chân thành cám ơn sự
hợp tác của các tác giả, các nhà khoa học, các giảng viên, sinh viên và sự hợp tác
của các thành viên tổ chức Hội thảo.
Trân trọng kính chào!
BAN BIÊN TẬP

i


PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1



HỒ CHÍ MINH - NHÀ VĂN HÓA HÕA BÌNHMỘT BIỂU TƢỢNG
CỦA NỀN VĂN HÓA TƢƠNG LAI
ThS Trịnh Thùy Lam
Học viện Chính trị khu vực IV
Tóm tắt: Nội dung bài viết làm rõ hơn một trong những biểu hiện của nền văn hóa tương lai
Hồ Chí Minh đó là nhà văn hóa hòa bình Hồ Chí Minh - một biểu tượng của nền văn hóa tương lai.
Bài viết mô tả được con đường Hồ Chí Minh trở thành nhà văn hóa hòa bình, đặc trưng, bản chất,
nội dung nhà văn hóa hòa bình - Hồ Chí Minh. Vận dụng những nội dung tư tưởng, quan điểm ấy
vào việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay đặc biệt phải gắn độc lập
dân tộc không chỉ với nền hòa bình dân tộc mà còn nền hòa bình thế giới. Điều đó là sự chứng
minh giá trị lý luận cũng như giá trị thực tiễn về nhà văn hóa hòa bình Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Văn hóa hòa bình, văn hóa tương lai, ngoại giao hòa bình
giới, văn hóa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh là sản phẩm đặc trưng triết học đó và
tính chất tương lai của văn hóa cũng là ở
phương diện đó. Theo người viết, những nội
dung đặc trưng nền văn hóa tương lai
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh gồm: Văn
hóa hòa bình; Văn hóa chính trị; Văn hóa
ngoại giao; Văn hóa khoan dung; Văn hóa
đạo đức; Văn hóa ứng xử; Văn hóa giáo dục;
triết lý sống Hồ Chí Minh…Trong đó, Văn
hóa hòa bình là nét đặc sắc nhất trong những
giá trị văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
cống hiến vào kho báu của nhân loại. Điều
này đã được thế giới thừa nhận từ rất sớm,
năm 1952, cố thủ tướng Ấn Độ J.Nêru-một
người bạn chiến đấu thân thiết của Hồ Chí

Minh đã từng nói “Thế giới ngày nay đang
trải qua một cuộc khủng hoảng, khủng hoảng
về tâm lý. Cái cần bây giờ là tiếp cận hòa
bình, hữu nghị và tình bạn. Tiến sĩ Hồ là biểu
hiện cho sự tiếp cận đó” 1.

Nội dung bài viết:
Năm 1923, nhà báo Liên Xô Ôxip
Manđenxtan trong bài báo “Thăm một chiến
sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc” đăng
trên Tạp chí Ngọn lửa nhỏ đã nhận xét: “Từ
Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa,
không phải văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là
một nền văn hóa của tương lai...”. Vậy,
những nội dung cơ bản của nhà văn hóa
tương lai Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là
gì? Nội dung nào là biểu hiện của nền văn
hóa tương lai? Ý nghĩa của nền văn hóa
tương lai ấy trong thời đại ngày nay?
Trước hết, có thể nói, đặc trưng bản
chất nhất của nhà văn hóa tương lai, nhà văn
hóa kiểu mới Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh là ở sự thâu thái tri thức của nhân loại
để tạo cho mình một trình độ văn hóa vượt ra
khỏi phạm vi văn hóa dân tộc, văn hóa khu
vực vươn tới tầm văn hóa thế giới và hiện
đại. Và đó cũng là con đường Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh trở thành nhà văn hóa
tương lai. Để trở thành nhà văn hóa tương lai,
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh phải có

trình độ bác ngữ, vốn trí thức sách vỡ, vốn tri
thức thực tiễn, một nếp sống văn hóa…đặc
biệt, là sự tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin với
ý nghĩa tạo một cơ sở triết học, một cơ sở
nhận thức tiên tiến nhất và có sức sống tương
lai làm nền cho phẩm chất văn hóa mới, văn
hóa tương lai. Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh lại có ý thức và khả năng hiện
thực hóa tư tưởng tri thức văn hóa, góp phần
tạo ra nền văn hóa mới có sức lan tỏa, ảnh
hưởng rộng ra ngoài phạm vi, đất nước dân
tộc. Bởi đặc trưng triết học Mác không chỉ
giải thích thế giới mà còn ở chỗ cải tạo thế

Hòa bình là khát vọng chung của
toàn nhân loại, dân tộc nào chịu nhiều đau
khổ, mất mát do chiến tranh gây ra, dân tộc
đó thiết tha với hòa bình. Trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam phải liên
tục đối đầu với các thế lực hùng mạnh đến từ
các lục địa Á-Âu-Mỹ. Những thắng lợi hiển
hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta không chỉ phản ánh sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí
đấu tranh cho độc lập, tự do, tự chủ, tự cường
mà còn phản ánh truyền thống nhân hậu,
khoan dung, thiết tha với nền hòa bình của
dân tộc “Lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn.

1


2

Báo Nhân Dân số ra ngày 11 tháng 11 năm 1989.


Lấy chí nhân để thay cường bạo”1. Trong
cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm
lược, dưới sự chỉ huy tài ba của danh tướng
Lý Thường Kiệt, quân Tống đi mười phần thì
về chưa được ba phần, trên đà thế thắng, Lý
Thường Kiệt lại chủ động bàn hòa, mở một
lối thoát cho quân Tống, cũng là một lối thoát
cho hòa bình để đỡ tốn xương máu của cả hai
bên “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng
sĩ, đỡ tốn xương máu mà bảo toàn được tôn
miếu” (theo văn bia chùa Linh Xứng). Trong
cuộc chiến chống quân Minh xâm lược, tội ác
của giặc nói như Danh nhân văn hóa Nguyễn
Trãi “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Nước
Đông Hải không rữa sạch mùi”2 nhưng khi
“quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra
hàng”3. Ta chẳng giết hại, mở đường hiếu
sinh, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, phát
cho vài nghìn cỗ ngựa hồi hương vì “Ta lấy
toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”4 và
hơn hết tạo ra nền thái bình muôn thuở vững
chắc. Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống
hòa hiếu, nhân văn, khoan dung, nhân nghĩa
của dân tộc để nâng lên một tầm cao mới

thành văn hóa hòa bình Hồ Chí Minh trong
thời đại mới.

nhưng vẫn không được chấp nhận. Thực tế
đó không làm Người nản lòng trong cuộc đấu
tranh giành độc lập, hòa bình, xây dựng nền
văn hóa mới. Nó được thể hiện rõ trong việc
Hồ Chí Minh hoạch định đường lối chính
trính trị - quân sự - ngoại giao, củng cố, xây
dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội
mà nhất là trong hai cuộc kháng chiến thần
thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngay khi cách mạng Tháng Tám
thành công - cuộc cách mạng hòa bình, núp
dưới bóng quân Anh, với lược lượng quân sự
hùng hậu, thực dân Pháp có dã tâm xâm lược
nước ta lần thứ hai. Trong cuộc xung đột Việt
- Pháp, Hồ Chí Minh luôn chọn lựa giải pháp
hòa bình: sẵng sàng chấp nhận thỏa hiệp,
nhân nhượng để tránh một cuộc chiến tranh
đau thương cho cả hai dân tộc bằng Hiệp
định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 và Tạm
ước ngày 14 tháng 9 năm 1946. Ngày 20
tháng 10 năm 1945, trong Thư gửi những
người Pháp ở Đông Dương, Người viết:
“Hỡi những người Pháp ở Đông Dương!
Các bạn không nghĩ rằng máu nhân loại đã
chảy nhiều, rằng hòa bình - một nền hòa bình
chân chính xây trên công bình và lý tưởng

dân chủ - phải thay cho chiến tranh, rằng tự
do, bình đẵng bác ái phải thực hiện trên khắp
các nước không phân biệt chủng tộc và màu
da”5. Đây cũng là tinh thần nhất quán được
Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc lại trong các
cuộc gặp gỡ, đối thoại, trao đổi thư điện với
các chính khách, tướng lĩnh thực dân và trên
các diễn đàn báo chí trong và ngoài nước.
Nhưng với tâm địa thực dân, Pháp khước từ
mọi thiện chí hòa bình ấy. Đầu năm 1946,
khi căng thẳng quan hệ Pháp - Việt lên đến
đỉnh điểm, Hồ Chí Minh vẫn nổ lực gửi đi
thông điệp hòa bình đến phía Pháp:“Đồng
bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình.
Chúng tôi không muốn chiến tranh. Cuộc
chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng
mọi cách…Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu
người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng
tôi sẽ làm. Chúng tôi không lạ gì những điều
đang đợi chúng tôi…Dù sao, tôi cũng mong
rằng chúng ta sẽ không đi tới cách giải quyết
ấy”6. Ngay cả khi chiến tranh đã bùng nổ, Hồ
Chí Minh vẫn không buông ngọn cờ hòa
bình, vẫn tiếp tục kiếm tìm giải pháp thương
lượng hòa bình với điều kiện tiên quyết là kẻ

Nét nổi bật trong quan niệm Hồ Chí
Minh về văn hóa hòa bình là gắn liền sự
nghiệp giải phóng dân tộc với việc giữ gìn
hòa bình cho dân tộc. Do đó, Hồ Chí Minh là

biểu tượng cho khát vọng hòa bình ở Việt
Nam.
Năm 1919, khi Hồ Chí Minh hoạt
động tại Pháp, nhân Hội nghị Véc xây (Hội
nghị giữa các nước thắng trận như Mỹ, Anh,
Pháp, Ý, Nhật… với nước thua trận là Đức),
Người gửi bản Yêu sách của nhân dân An
Nam đến các đại biểu cường quốc tham dự
Hội nghị này đòi các quyền tự do dân chủ tối
thiểu cho nhân dân ta. Vì trước đó, Tổng
thống Mỹ U. Uynxơn (Woodrow Wilson) gửi
thông điệp cho nghị viện Mỹ, trong đó đề ra
14 điểm được gọi là “chương trình hòa bình
toàn diện” và tuyên bố với thế giới là trao trả
độc lập cho các nước thuộc địa. Như vậy, Hồ
Chí Minh bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng
một thông điệp hòa bình, mặc dù bản Yêu
sách ôn hòa cả về nội dung lẫn hình thức
1

Trích trong Bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi (bản dịch của Ngô Tất Tố).
2
Trích trong Bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi (bản dịch của Ngô Tất Tố).
3
Trích trong Bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn
Trãi (bản dịch của Ngô Tất Tố).
4
Trích trong Bài “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn

Trãi (bản dịch của Ngô Tất Tố).

5

Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia-Sự Thật, tập 4, tr.76-77.
6
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia-Sự Thật, tập 4, tr.526.
3


thù phải thực sự tôn trọng nền độc lập của
Việt Nam. Các nhà sử học chứng minh rằng:
Với phương châm “còn nước còn tát”, chỉ
trong một thời gian ngắn từ tháng 12 năm
1946 đến tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh đã
8 lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội và cả
Tổng thống Pháp, đề nghị “lập lại ngay nền
hòa bình - nền hòa bình trong độc lập, tự do”.
Người cũng đã viết thư gửi đến Liên hiệp
quốc thể hiện rõ quan điểm “Nhân dân chúng
tôi thành thật mong muốn hòa bình”. Sau
này, chính Xanhtơny (Jean Sainteny - đại
diện Chính phủ Pháp ở Đông Dương) thừa
nhận: Nếu Hồ Chí Minh đạt được mục đích
của mình mà không phải nổ một phát súng
nào, không phải đổ một giọt máu nào thì chắc
Cụ là một người hạnh phúc nhất đời rồi.


rõ điều đó. Khi Chính phủ Pháp muốn tìm
đến giải pháp thương lượng để rút ra khỏi
cuộc chiến tranh sau 9 năm sa lầy ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh khẳng định thiện chí sẵn
sàng đàm phán: “Cuộc chiến tranh ở Việt
Nam là do Chính phủ Pháp gây ra... nhưng
nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học...,
muốn đi đến đình chiến bằng cách thương
lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối
hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng tiếp nhận ý
muốn đó. Cơ sở của việc đình chiến là Chính
phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực
sự của Việt Nam”2. Sau đó, trong cuộc đối
đầu với Mỹ, thật chất là cuộc chiến đấu
chống kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, Hồ
Chí Minh nhiều lần chỉ rõ, cách tốt nhất là
một tay đánh, một tay mở cho nó ra, phải có
cách chủ động để đi tới cho nó ra, tạo thế cho
nó rút lui trong danh dự. Người luôn khẳng
định quan điểm: “Sẵn sàng trải thảm đỏ và
rắc hoa cho Mỹ rút lui''3, “sẵn sàng đem
nhạc và hoa tiễn họ và mọi thứ khác mà họ
thích”4…Từ đó, cho thấy khát vọng hòa bình
Hồ Chí Minh không phải hòa bình bất cứ giá
nào mà phải là một nền hòa bình thật sự trên
cơ sở độc lập, tự do, thống nhất của dân tộc
cũng như nền hòa bình ấy phù hợp với công
lý, dân chủ, văn minh, tiến bộ xã hội.


Cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp kéo dài 9 năm, với những thắng lợi liên
tiếp của ta về mặt quân sự, chính trị, ngoại
giao đặc biệt là ở mặt trận Điện Biên Phủ,
những kẻ theo đuổi chiến tranh trong giới
chính trị Pháp mới chịu vào ngồi ban thương
lượng với ta tại Giơnevơ. Vì thiết tha với hòa
bình, ta đã ký Hiệp định Giơnevơ với những
nhân nhượng nhất định để lập lại hòa bình ở
Đông Dương. Trong suốt giai đoạn từ năm
1954 đến năm 1958, Hồ Chí Minh và Chính
phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa cố gắng
theo đuổi các giải pháp hòa bình để thống
nhất đất nước, mặc dù đế quốc Mỹ và chính
quyền Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại hiệp
định. Mãi đến tháng 1 năm 1959 - tức là khi
thời điểm thống nhất đất nước bằng biện
pháp hòa bình theo quy định của Hiệp định
Giơnevơ đã qua đi hơn hai năm (Theo nội
dung Hiệp định, Việt Nam sẽ tiến hành Tổng
tuyển cử vào tháng 7 năm 1956), Hội nghị
Trung ương lần thứ 15 của Đảng Lao động
Việt Nam mới quyết định: "Phải qua con
đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực để
đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của
Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ"1.

Hồ Chí Minh không chỉ là biểu
tưởng cho khát vọng hòa bình ở Việt Nam

mà còn là sứ giả hòa bình và hữu nghị giữa
các dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên năm 1987,
nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh, UNESCO ra nghị quyết
24C/18.65 tôn vinh Hồ Chí Minh giá trị kép,
vừa là anh hùng giải phóng dân tộc vừa là
nhà văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh là anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam - người
kiến tạo thành công sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt Nam nói chung và các dân tộc thuộc
địa nói riêng thì cũng nói đến tư cách nhà văn
hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh vì những tư tưởng
của Người là hiện thân của những khát vọng
của các dân tộc mong muốn được khẳng định
bản sắc văn hóa của mình và mong muốn

Khát vọng hòa bình của Hồ Chí
Minh còn thể hiện ở chỗ khi âm mưu kẻ thù
thất bại và muốn xuống thang chiến tranh thì
Người sẵn sàng đàm phán để kẻ thù rút lui.
Hồ Chí Minh cho rằng, đánh giặc
không phải là tiêu diệt hết lực lượng của đội
quân xâm lược, mà chủ yếu là đánh bại ý chí
xâm lược của chúng. Lịch sử hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ đều thể hiện

2

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc

gia-Sự Thật, tập 7, tr.168.
3
Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
(1991), Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới
của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội, tr.103.
4
Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ (1990), Tiếp xúc bí
mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pa-ri, Viện
Quan hệ quốc tế Hà Nội, tr.158.

1

Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước
(1985), Nxb Sự thật, Hà Nội, tập 1 (1954-1964)
tr.117.
4


tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân
tộc. Thực tế cho thấy, trong khi đấu tranh vì
độc lập, tự do, hòa bình cho dân tộc Việt
Nam, Hồ Chí Minh cũng góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh cho hòa bình, hữu nghị và
tiến bộ nhân loại. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí
Minh thật sự là sứ giả của hòa bình và hữu
nghị của các dân tộc, là một chiến sĩ tiên
phong, một biểu tượng rực rỡ về đấu tranh
cho sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các
dân tộc. Do đó, Hồ Chí Minh được xem là
một “lãnh tụ thế giới vào lúc loài người đang

ở bước ngoặt có tính cách mạng nhất, là một
nhà kiến trúc và tạo hình làm nên quá trình
cách mạng thế giới”1.

Đối với nước Pháp-nước đang tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã tuyên bố:“Việt Nam sẵn
sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp.
Những người Pháp tư bản hay công nhân,
thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà
cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân
Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu
bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự
tuyệt những người Pháp quân phiệt… kiên
quyết cự tuyệt quân đội Pháp đóng ở Việt
Nam”5 .
Đối với các nước dân chủ, nước Việt
Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và
hợp tác trên mọi lĩnh vực: Nước Việt Nam
dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của
các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong
tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước
Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân
bay và đường sá giao thông cho việc buôn
bán và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam
chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh
tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp
quốc.

Có lẽ Hồ Chí Minh là nhà hoạt động

cách mạng đi nhiều nước nhất trong thế kỷ
XX, bước chân của Người trải khắp 5 châu
bốn bể, đã từng sống, hoạt động, tiếp xúc với
nhiều chính khách, nhân dân các nước từ Mỹ,
Anh, Pháp, Đức, Nga, Ý, Tây Ban Nha… đến
các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và Mỹ
latinh. Vì vậy, Người không chỉ là người đặt
cơ sở quan hệ đối ngoại đầu tiên giữa nhân
dân Việt Nam với nhân dân thế giới mà còn
thông qua những hoạt động thực tiễn ấy, nhất
là những bản án kết tội chủ nghĩa thực dân
của Người đã góp phần thức tỉnh nhiều dân
tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh tự giải
phóng dân tộc mình - đây là cuộc đấu tranh
vì phẩm giá của các dân tộc bị áp bức.

Đối với các nước trong khu vực, có
thể chế chính trị khác nhau, như Ấn Độ,
Miến Điện (Mianma), Inđônêxia…Hồ Chí
Minh cũng hết sức coi trọng thiết lập mối
quan hệ hữu nghị với các nước trên tinh thần
Việt Nam “sẵn sàng thân thiện hợp tác chặt
chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn
nhau trong sự nghiệp xây dựng và giữ gìn
nền độc lập”6. Trong quan hệ hữu nghị, hợp
tác rộng mở đó, Hồ Chí Minh dành sự ưu tiên
cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần
gũi trong khu vực, nhất là các nước có chung
biên giới với Việt Nam. Đối với Trung Quốc,
một nước có quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời

với Việt Nam, phát huy truyền thống hòa
hiếu của cha ông, Hồ Chí Minh chủ trương
“thắt chặt tình thân ái hai dân tộc Việt - Hoa
tương trợ cùng tiến hóa7. Đối với Lào và
Campuchia, Việt Nam lấy quan hệ dân tộc tự
quyết làm nền tảng và thắt chặt mối quan hệ
với các nước Đông Dương vì các nước này
“có nhiều mối quan hệ về kinh tế nên sẽ giúp
đỡ lẫn nhau và sánh vai nhau mà tiến hóa”8.
Đến cuối đời, dù đang lâm bện nặng, trong lá
thư viết trả lời Tổng thống Mỹ R.Níchxơn
ngày 25 tháng 8 năm 1969, Hồ Chí Minh
khẳng định “nhân dân Việt Nam chúng tôi

Sau khi nước ta giành lại được độc
lập, Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố:
“Việt Nam làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù oán với một ai”2.
“Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì
chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả
các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa
bình”3. “Bất kỳ nước nào thật thà muốn đưa
tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục
đích làm lợi cho cả hai bên, thì Việt Nam sẽ
rất hoan nghênh. Bất kỳ nước nào mong đưa
tư bản đến để ràng buộc áp chế Việt Nam thì
Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt”4. Có thể
xem những lời tuyên bố trên đây của Hồ Chí
Minh là tư tưởng đặt nền móng cho phương
châm đa phương hóa, đa dạng hóa công tác

đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1

Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí Minh
(1975), Nxb Sự Thật, Hà Nội, tr.8.
2
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, t. 6, tr.145.
3
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, t. 6, tr.56.
4
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia-Sự Thật, tập 4, tr.523.

5

6

Báo Cứu quốc, số 57, ngày 3-10-1945.

Báo Cứu quốc, số 57, ngày 3-10-1945.
Báo Cứu quốc, số 57, ngày 3-10-1945.
8
Báo Cứu quốc, số 57, ngày 3-10-1945.
7

5



yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân
chính trong độc lập, tự do”1. Như vậy, cả
cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn theo đuổi lý
tưởng hữu ái, đoàn kết thân thiện của các dân
tộc và Người trở thành biểu tượng hòa bình
trong thế kỷ XX. Bất cứ nơi nào chiến đấu
cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ nơi
nào chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó
có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh
bay cao.

quốc tế cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc. Ngày nay, Việt Nam phải tích cực và chủ
động hội nhập kinh tế thế giới để xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chỉ như vậy,
chúng ta mới có được nền độc lập thực sự và
nền hòa bình thực sự.
Người ta không thể trở thành Hồ Chí
Minh nhưng mỗi người có thể học một số
điều làm cho mình trở nên tốt hơn. Vì vậy,
quán triệt quan điểm, nội dung tư tưởng của
Người về một nền văn hóa hòa bình vô cùng
cần thiết và phù hợp với xu thế vận động và
phát triển của thế giới ngày nay. Hồ Chí
Minh - nhà văn hóa hòa bình – một biểu
tượng của nền văn hóa tương lai mãi mãi
trường tồn cùng năm tháng./.

Thế giới ngày nay diễn biến phức

tạp, khó lường, vừa hợp tác thỏa hiệp, vừa
cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Do
đó, việc thấu hiểu tư tưởng hòa bình và hợp
tác hữu nghị của Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, nhất là hiện nay trên một
thế giới tồn tại hơn 200 quốc gia, vùng lãnh
thổ với những lợi ích vừa thống nhất, vừa đối
lập thì sự xung đột lợi ích là điều không tránh
khỏi. Vì thế, chúng ta phải quán triệt tư
tưởng hòa bình của Hồ Chí Minh: Lấy đối
thoại thay cho đối đầu, bảo vệ lợi ích dân tộc
nhưng không để xảy ra xung đột vũ trang và
không phá vỡ sự hợp tác. Bên cạnh đó, với
lòng yêu chuộng hòa bình và tư duy vượt thời
đại, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng để xây
dựng cho Việt Nam nền ngoại giao đa
phương trên tinh thần cùng chung sống hòa
bình và các bên cùng có lợi. Và xu thế lớn
của thế giới hiện đại là hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển. Vì vậy,
Việt Nam cần chủ động tăng cường xu hướng
ngoại giao đó. Mặt khác, chúng ta không để
cho bất cứ kẻ nào xâm lược nước mình cũng
như không bao giờ xâm lược nước khác. Độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn toàn lãnh thổ là
những lợi ích dân tộc cốt lõi cần phải bảo vệ
đến cùng và khi bảo vệ những quyền chân
chính đó chính là bảo vệ nền hòa bình thực
sự. Chúng ta không bao giờ vì một thứ hòa
bình, hữu nghị viển vông nào mà làm tổn hại

đến lợi ích căn bản của dân tộc. Thông điệp
hòa bình mà cương quyết đó của dân tộc Việt
Nam phải tiếp tục được tuyên truyền, quảng
bá đến toàn nhân loại. Hồ Chí Minh từng nói:
“Nền hòa bình thực sự phải gắn liền với nền
độc lập thực sự”2, nhưng muốn có độc lập
thực sự thì phải có tiềm lực về mọi mặt, trước
hết là tiềm lực kinh tế. Trước đây, Hồ Chí
Minh gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Cứu quốc, số 57, ngày 3-10-1945
2. Báo Nhân Dân số ra ngày 11 tháng 11 năm
1989
3. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự
Việt Nam (1991), Cuộc chiến tranh xâm
lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở
Việt Nam, Hà Nội.
4. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (bản dịch
của
Ngô
Tất
Tố).
truy
cập:
/>on=com_content&task=view&id=1359&Ite
mid=5
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia-Sự Thật, tập 4.

6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tập 6.
7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội tập 7.
8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tập 12.
9.
Một số văn kiện của
Đảng về chống Mỹ, cứu nước (1985), Nxb
Sự thật, Hà Nội, tập 1 (1954-1964).
10. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ (1990),
Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước
Hội nghị Pa-ri, Viện Quan hệ quốc tế Hà
Nội.
11. Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí
Minh (1975), Nxb Sự Thật, Hà Nội.

1

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tập 12, tr.488.
2
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tập 12, tr.488.
6


HỒ CHÍ MINH – NHÀ VĂN HÓA LỚN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
VÀ CỦA NHÂN LOẠI
ThS Nguyễn Văn Trang

Trường Đại học An Giang
Tóm tắt: Bài viết "Hồ Chí Minh – nhà văn hóa lớn của dân tộc và của nhân loại” phân
tích văn hóa Hồ Chí Minh trong văn hóa dân tộc Việt Nam và văn hóa Hồ Chí Minh đối với
nhân loại. Từ sự phân tích đó làm rõ những giá trị trong văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh
những tinh hoa của văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, giữa tinh hoa văn hóa phương Đông
và văn hóa phương Tây, giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh
mãi mãi là di sản văn hóa bất tử của dân tộc Việt Nam và của toàn nhân loại. Học tập và làm
theo tư tưởng, phong cách và văn hóa của Người luôn là vấn đề quan trọng và cần thiết.
Từ khóa: Hồ Chí Minh, văn hóa
1. Mở đầu

Hồ Chí Minh ngày nay; sức mạnh của nền
văn hóa và nhiều mặt khác của truyền thống
dân tộc góp phần to lớn cho việc tồn tại và
phát triển của đất nước và nhân dân ta. Hồ
Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa dân
tộc một cách nhuần nhuyễn, sâu sắc, điều
đó có tác dụng lớn đối với sự phát triển của
lịch sử. Ở Hồ Chí Minh, văn hóa và truyền
thống dân tộc không mâu thuẫn với hiện
đại; tinh hoa văn hóa nhân loại không trái
với bản sắc văn hóa dân tộc mà kết hợp
chặt chẽ với nhau, tạo nên sức mạnh vừa
bảo tồn giá trị ngàn xưa lại vừa đạt tới đỉnh
cao của trí tuệ ngày nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới
tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hoá kiệt xuất. Nghị quyết
của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày

sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Những đóng góp quan trọng và
nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên
các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ
thuật chính là sự kết tinh của truyền thống
văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt
Nam, và những tư tưởng của Người là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc
mong muốn được khẳng định bản sắc văn
hóa của mình và mong muốn tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”1. Nhà
văn hóa Hồ Chí Minh là sản phẩm quá trình
phát triển lâu đời của nền văn hóa Việt
Nam kết hợp với việc tiếp nhận những tinh
hoa văn hóa của nhân loại.

Tiếp thu truyền thống dân tộc và nền
văn hóa xưa của tổ tiên, Hồ Chí Minh đã
phát triển di sản quý báu ấy lên một mức
cao, đáp ứng được yêu cầu của thời đại
mới. Ví như, tài “trị nước an dân”, nghệ
thuật quân sự tuyệt vời của Hồ Chí Minh là
sự tiếp nối và phát triển tài trí, tâm hồn và
tư tưởng của các nhà chính trị kiệt xuất, các
danh tướng trong lịch sử dân tộc để phù
hợp với các yêu cầu ngày nay. Tất cả tinh
hoa của cha ông xưa hội tụ ở Hồ Chí Minh
và được thể hiện trong tình cảm, tư tưởng,
đường lối, chủ trương của Người về giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng

đất nước,…

2. Nội dung
Trước hết, Hồ Chí Minh là tượng
trưng cao đẹp nhất của văn hóa Việt Nam
được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử.
“Người là tượng trưng cho tinh hoa của
dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất
khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn
ngàn năm lịch sử” (Lê Duẩn – Điếu văn
cuả Ban Chấp hành Trung ương Đảng
trong lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Việt Nam là một nước có nền văn hiến lâu
đời; một nước có nền văn hóa, văn minh
mang bản sắc riêng. Trải qua các thời đại
Văn Lang, Âu Lạc, Đại Việt trước kia và

Thấm nhuần tâm hồn và tính cách
Việt Nam, Hồ Chí Minh, nhà yêu nước vĩ
đại, chiến sĩ quốc tế kiệt xuất, nhà văn hóa
lớn, đã thể hiện phẩm chất thanh cao trong
việc không màng danh lợi, hết lòng phục vụ
nhân dân và cách mạng, mong muốn được
hưởng thú vui lâm tuyền. Người có ước
vọng khi nhiệm vụ đã hoàn thành thì làm
một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước

1

Phạm Khải: Về nghị quyết của UNESCO

vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo
Nhân dân điện tử, 18/09/2010
7


biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm
bạn với các cụ già hái cũi, em trẻ chăn trâu,
không dính líu gì với vòng danh lợi. Suy
nghĩ, mong muốn của Hồ Chí Minh làm
chúng ta nhớ đến phong cách, tư tưởng của
các vua đời Trần (đặc biệt là Trần Nhân
Tông), của Ức Trai Nguyễn Trãi khi về Côn
Sơn. Tuy không ham muốn công danh phú
quí, nhưng Người không hề có tư tưởng
“xuất thế”, “vô vi”, mà mong muốn tạo
điều kiện cho lớp trẻ phát triển tài năng
gánh vác công việc, để mình có điều kiện
tập trung suy nghĩ phục vụ nhân dân nhiều
hơn, tốt hơn.

chẽ văn hóa Đông và Tây, truyền thống và
hiện đại. Năm 1923, nhà báo Liên Xô Ôxip
Manđenxtam đã ghi lại cảm tưởng tốt đẹp
của mình khi thăm một chiến sĩ Quốc tế
Cộng sản - Nguyễn Ái Quốc:”Từ Nguyễn
Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không
phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền
văn hóa tương lai…Qua phong thái thanh
cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn
Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai,

như thấy sự yên tỉnh mênh mông của tình
hữu ái toàn thế giới”1.
Công lao to lớn của Hồ Chí Minh về
mặt văn hóa không chỉ giới hạn ở việc xây
dựng một nền văn hóa Việt Nam mới; tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà còn góp
phần phát triển văn hóa của nhân loại, đặc
biệt của các dân tộc đang đấu tranh thoát
khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
và xây dựng độc lập, tự do. Sự đóng góp ấy
thể hiện trên một số quan điểm cơ bản sau
đây:

Tâm hồn cao đẹp của Hồ Chí Minh
cũng thể hiện một nét đẹp của truyền thống
dân tộc; đó là trong đánh giặc, cũng như
trong xây dựng đất nước vẫn làm thơ. Thơ
ca của Người không chỉ nói lên cảm xúc
của riêng mình trước tình cảnh đất nước mà
còn là công cụ, vũ khí trong cuộc đấu tranh.
Không thể có rung cảm chân thực với thiên
nhiên, con người nếu không hòa mình vào
thiên nhiên và xã hội, nhất là không xác
định được trách nhiệm của mình. Chính vì
vậy, khi đọc Thiên gia thi, Hồ Chí Minh đã
nảy sinh cảm xúc:

Thứ nhất, khai thác truyền thống văn
hóa dân tộc, trước hết và chủ yếu là chủ
nghĩa yêu nước, để làm phương tiện, vũ khí

sắc bén trong công cuộc đấu tranh cho độc
lập tự do và tiến bộ xã hội. Trong đấu tranh
cách mạng, văn hóa là một mặt trận. Trong
xây dựng đất nước, văn hóa là một trong
những nhân tố quan trọng để xây dựng xã
hội.

“Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng biết phải xung phong”
(Trích bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”
trong “Nhật ký trong tù”)
Trong lịch sử Việt Nam, không phải
anh hùng nào cũng là nhà văn hóa, nhưng
Hồ Chí Minh vừa là anh hùng dân tộc, vừa
là nhà văn hóa kiệt xuất. Cùng với sự hiểu
biết uyên bác về Hán học và những kiến
thức ban đầu về văn hóa phương Tây, chủ
yếu là văn hóa Pháp, trong quá trình tìm
đường cứu nước và hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc, có chọn
lọc nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại: văn
hóa Trung Hoa cổ đại, tư tưởng thời Khai
sáng Pháp, các nhà văn hóa tiến bộ,…, cả
Tân ước và Cựu ước của Giêsu, chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Dật Tiên và quan trọng
nhất là các tác phẩm của Mác, Ăngghen,
đặc biệt của Lênin. Các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin có vai trò, ý nghĩa rất
quan trọng đối với quá trình Hồ Chí Minh
trở thành một nhà cách mạng, một nhà văn

hóa lớn của dân tộc và thế giới.

Thứ hai, quần chúng nhân dân là chủ
nhân thực sự của văn hóa, nên phải trân
trọng những di sản văn hóa vật chất và tinh
thần của tổ tiên, phải dựa vào và phát huy
sức sáng tạo của quần chúng nhân dân,
hướng vào việc phục vụ quần chúng nhân
dân làm mục tiêu cao cả của hoạt động văn
hóa.
Thứ ba, phải bảo tồn “cốt cách dân
tộc”, song không vì vậy mà “đóng cửa”.
Trái lại, phải mở rộng giao lưu văn hóa,
tiếp nhận tinh hoa văn hóa của nhân dân các
nước, của nhân loại nói chung để làm
phong phú cho dân tộc mình.
Thứ tư, tư tưởng nhân văn của Hồ
Chí Minh. Đây là đóng góp nổi bật nhất.
Trong xây dựng nền văn hóa mới, luôn luôn
phải dựa vào tư tưởng đạo đức, tư tưởng
nhân văn làm nền tảng. Vì vậy, khi nói đến
công lao của Người đối với sự hình thành
và phát triển nền văn hóa mới, không thể

Gắn liền với hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh đã sớm biểu hiện nhân cách
của một nhà văn hóa lớn, tiêu biểu cho một
nền văn hóa mới, cách mạng, kết hợp chặt

1


Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 262, 263.
8


không nhắc đến những đóng góp trên lĩnh
vực đạo đức và chủ nghĩa nhân văn. Trong
khuôn khổ bài này, xin đề cập nhiều về chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.

con người, cho sự giải phóng và phúc lợi
của toàn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng
do Người phát động đã mang tầm cỡ thế
giới.

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là
kết tinh truyền thống nhân ái của dân tộc
với những tư tưởng nhân đạo cao cả của
loài người. Toàn bộ cuộc đời của Người là
quá trình đấu tranh liên tục, không mệt mỏi
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Nghị quyết
UNESCO về Kỷ niệm 100 năm ngày sinh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Anh hùng giải
phóng dân tộc của Việt Nam – nhà văn hóa
lớn (1990) đã khẳng định rằng trong lịch sử
thế giới ở thế kỷ XX, Hồ Chí Minh “là một
biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả
một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình

cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân
dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu
tranh chung của các dân tộc vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội”1.

Khác với chủ nghĩa nhân văn tư sản
chỉ đề cao chủ nghĩa cá nhân mà không hề
đá động đến việc giải phóng người lao
động. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đề
xướng giải phóng hoàn toàn con người, mà
trước hết và chủ yếu là giải phóng người
lao động bị áp bức và bị bóc lột, thủ tiêu
mọi gông xiềng nô lệ và bất công, đem lại
độc lập, tự do hạnh phúc, cơm no áo ấm
cho các dân tộc và mỗi con người. Trong tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, việc giải
phóng người lao động không chỉ là sự giải
phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân đế quốc mà còn là sự vươn lên làm chủ
về mọi mặt.
Như vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn, thấm
đượm tinh thần yêu nước, lòng thương người,
truyền thống văn hóa của dân tộc và nhân
loại. Nó không giới hạn ở tình cảm thương
người, ở lòng trắc ẩn chung chung, mà còn
mở rộng ra cộc đấu tranh cho việc giải phóng
và vươn lên của con người bị áp bức, bị bóc
lột… Do đó, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí

Minh là một chủ nghĩa nhân văn thấm nhuần
bản chất vô sản, tiêu biểu cho thời đại.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
trước hết biểu hiện ở lòng thương yêu đồng
bào bị đau khổ, những người bị đọa đày
trên khắp hành tinh. Lòng thương yêu con
người của Hồ Chí Minh không dừng lại ở
sự thông cảm, sự an ủi vỗ về mà khơi lên
lòng quyết tâm hành động để xóa bỏ những
nguyên nhân làm nảy sinh bất công. Hồ Chí
Minh là một trong những người đầu tiên
trên thế giới thành lập hình thức mặt trận
liên kết các dân tộc thuộc địa, từ Hội liên
hiệp thuộc địa ( tháng 7.1921) đến Hội liên
hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (đầu
năm 1925). Càng yêu thương nhân dân
thuộc địa bị áp bức, bị thống trị, Hồ Chí
Minh càng khơi dậy sự căm ghét, tố cáo
mạnh mẽ, toàn diện và có hệ thống tội ác
của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa tư bản
(Bản án chế độ thực dân Pháp - năm 1925).
Hồ Chí Minh viết Nô lệ thức tỉnh nhằm
biểu lộ sức mạnh của đông đảo nhân dân
chống chủ nghĩa thực dân.

Giá trị của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh được xác định vào thời điểm nhân
loại đang phải chứng kiến “sự xuất hiện tàn
nhẫn của ham muốn cá nhân, ích kỷ đã

thống trị như chưa hề thấy. Chính sư xuyên
tạc của giá trị nhân đạo đã làm nảy sinh
nhiều sự thiên lệch nghiêm trọng, xa rời
con đường biến đổi cách mạng về xã hội và
văn hóa của con người ở xung quanh ta.
Điều cần nói đến là cuộc nổi dây về đạo
đức, một sự phục hưng mới chống lại quá
trình bất ổn định, phi nhân tính này, ít
nhiều nổi bật khắp thế giới”2. Giữa cơn
khủng hoảng đó, tư tưởng nhân văn của Hồ
Chí Minh “xuất hiện trước mắt ta như ngọn
hải đăng dẫn đường cho cuộc chiến đấu
sống còn của chúng ta”3

Lòng nhân ái của Hồ Chí Minh xuất
phát từ sự tôn trọng con người, lấy con
người làm xuất phát điểm và việc đem lại
hạnh phúc cho con người làm mục đích
cuối cùng. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh mang tính chiến đấu. Người muốn
tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời
đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm Hà
Nội và Viện Thông tin Khoa học xã hội
xuất bản, Hà Nội, 1992, trang 117.
3
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời
đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm Hà
2


1

Phạm Khải: Về nghị quyết của UNESCO
vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo
Nhân dân điện tử, 18/09/2010.
9


Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cũng
bao gồm một nội dung cơ bản là tư tưởng
đạo đức của Người. Bởi vì, Người quan
niệm rằng muốn yêu thương con người, đấu
tranh để giải phóng và đem lại hạnh phúc,
ấm no cho mọi người thì trước hết phải tu
dưỡng đạo đức bản thân. Đạo đức là cái gốc:
“Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng
cho loài người là một công việc to tát, mà tự
mình không có đạo đức, không có căn bản,
tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì”1. Khi chuẩn bị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, trong tác phẩm Đường cách
mệnh viết năm 1927, tập hợp những bài
giảng của Người trong các lớp huấn luyện
cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ở
Quảng Châu (Trung Hoa), Người đã đặt tư
cách người cách mệnh lên hàng đầu. Có thể
xem đây là nội dung cơ bản được khởi thảo
đầu tiên về đạo đức cách mạng, là một cơ sở
cho việc xây dựng điều lệ Đảng và điều lệ

các tổ chức cách mạng quần chúng. Hồ Chí
Minh rất coi trong xây dựng đạo đức cách
mạng trong cán bộ, đảng viên; đó là nền tảng
để hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Người thường xuyên căn dặn Đảng phải là
đạo đức, là văn minh. Theo Người, đạo đức
cách mạng là đạo đức mới, được xây dựng
trên cơ sở kế thừa những yếu tốt tốt đẹp của
truyền thống đạo đức dân tộc và nhân loại,
nhưng lại phản ánh phẩm chất tốt đẹp của
giai cấp công nhân. Nó tạo thành đạo đức
cộng sản chủ nghĩa, đỉnh cao của đạo đức
loài người.

răn dạy mà còn là những nguyên tắc, tiêu
chí cho hành động thực tiễn.. .
3. Kết luận
Tóm lại, từ sự trình bày trên, Hồ
Chí Minh không chỉ là sản phẩm của dân
tộc, của nhân loại, của thời đại mà còn góp
phần to lớn cho sự phát triển của lịch sử
dân tộc, của văn hóa dân tộc và văn hóa
nhân loại. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự hội
tụ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tinh hoa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ
nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với tài năng và
phẩm chất của bản thân, đã tạo điều kiện
cho Hồ Chí Minh góp phần to lớn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội và giải phóng con người. Sự đóng góp

to lớn của Người trên nhiều lĩnh vực bắt
nguồn ở những nguyên nhau khác nhau,
trong đó có một nguyên nhân quan trọng là
đạo đức yêu nước thương dân và tư tưởng
nhân văn của Người./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội và Viện Thông tin Khoa học xã hội
xuất bản, Hà Nội, 1992.
2. Phạm Khải: Về nghị quyết của
UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Báo Nhân dân điện tử, 18/09/2010.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.

Hồ Chí Minh đã xác định nội dung
cơ bản của đạo đức mới là cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; trung với nước, hiếu
với dân, chống chủ nghĩa cá nhân; đặt lợi
ích của dân tộc, tập thể lên trên; khiêm tốn,
thật thà, dũng cảm; đoàn kết, nhân ái, dân
chủ …
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà đạo
đức học mà bản thân người là tấm gương
sáng về đạo đức cách mạng cho mọi người
noi theo. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh

không chỉ nắm vững những nội dung lý
luận bài học mà Người nêu lên, quan trọng
hơn là làm theo những điều Người đã thực
hiện suốt đời vì dân, vì nước, vì nhân loại.
Đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ là lời

Nội và Viện Thông tin Khoa học xã hội
xuất bản, Hà Nội, 1992, trang 253
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 178, 179.
10


TÌM HIỂU SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA HAI NỀN VĂN HÓA ĐÔNG TÂY ĐẾN TƢ TƢỞNG VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
ThS Phan Thị Ánh
Trường Đại học An Giang
Tóm tắt:
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng
nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa
của nhiều nền văn hóa thế giới, để không ngừng hoàn thiện mình. Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ XII (2016) xác định: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với hoàn
cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”1.
Bản sắc văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm
rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những anh hùng, nhà văn hóa của mình.
Có anh hùng không phải là “nhà văn hóa”, có nhà văn hóa lại không phải là “anh hùng”. Còn
Hồ Chí Minh một thiên tài đa diện, lãnh tụ kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc, nhà ngoại giao bậc
thầy, nhà giáo, nhà báo, nhà thơ, nhà văn…Song điều mà UNESCO và cả thế giới ghi nhận:
Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.
Từ khóa: Văn hóa Việt Nam, sáng tạo, khí phách, bản lĩnh


1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, trang 127.
11


mấy, dù chiến tranh có kéo dài 5 năm, 10
năm… hay lâu hơn nữa, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được
độc lập.

1. Quan niệm của Hồ Chí Minh
về văn hóa Việt Nam
Hồ Chí Minh sớm đưa ra quan
niệm về văn hóa, về xây dựng văn hóa dân
tộc và ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người sáng tạo và phát minh ra, ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức
sinh hoạt cùng biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”1.


Như vậy, chủ nghĩa yêu nước trở
thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo
lý làm người, đó là niềm tự hào và là nhân
tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của
Hồ Chí Minh nói riêng và nhân dân Việt
Nam nói chung, Người nói: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”5.

Trên thực tế khi bàn về văn hóa, Hồ
Chí Minh ý thức rất rõ ràng về bản sắc văn
hóa dân tộc – giá trị văn hóa tinh thần và
văn hóa vật chất. Bắt đầu vào con đường
hoạt động cách mạng, Người đã chú ý tới
vấn đề càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lênin, càng phải chú trọng những truyền
thống tốt đẹp của cha ông mà trước hết là
truyền thống yêu nước.

Trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh cùng với lòng yêu nước là chủ nghĩa
nhân đạo với triết lý sống nhân nghĩa,
thương yêu và quý trọng con người, ngay
thẳng thật thà làm điều thiện, tránh điều
ác…Sứ mệnh to lớn của văn hóa là luôn

khẳng định một sự thật hiển nhiên; nhân
dân ta từ lâu đời đã sống với nhau có tình,
có nghĩa, Người nói:

Ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã chịu
ảnh hưởng của nền giáo huấn yêu nước và
gần dân của gia đình, truyền thống chống
giặc ngoại xâm của dân tộc và nền văn hóa
lâu đời của nước nhà. Sinh ra trong cảnh
“nước mất nhà tan”. Chứng kiến bao cảnh
khủng bố chém giết, tù đày, nhân dân nghẹt
thở trong cuộc sống đã mất hết tự do,
Người viết:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Đồng bào cả nước phải thương nhau
cùng”6.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta, ngoài tinh thần yêu nước,
thương người, còn nhiều vấn đề khác như
tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động,
đoàn kết, lạc quan, yêu đời…Để văn hóa đi
vào xây dựng đời sống mới, tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức của nhân dân,
hướng tới chân, thiện, mỹ, Hồ Chí Minh
nói:

“Trên đời có ngàn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do”2
Để thoát khỏi cảnh sống lầm than,

khổ cực, bị mất nước, Người đã kêu gọi
toàn dân: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”3. Năm
1966, khi đế quốc Mỹ leo thang ném bom
ra miền Bắc, Người cũng nêu ra một chân
lý nổi tiếng bất diệt: “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”4 và dù phải hy sinh đến

“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”7
Sử ta dạy cho ta những câu chuyện
vẻ vang về tổ tiên ta, dân ta là con Rồng,
cháu Tiên. Vì vậy, chúng ta phải giữ gìn và
phát huy những truyền thống, bản sắc văn
hóa dân tộc, nhằm hướng tới một nền văn
minh vì những giá trị nhân đạo và tiến bộ
xã hội. Để giữ gìn truyền thống dân tộc, Hồ
Chí Minh cho rằng phải phát huy vốn quý

1

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 3, trang 431.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 3, trang 332.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 4, trang 480.

4
Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 12, trang 107.

5

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 6, trang 171.
6
Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 12, trang 106.
7
Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 1, trang 221.
12


báu của dân tộc, tức là khôi phục cái gì tốt,
cái gì không tốt thì phải loại dần ra “Cái gì
cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không
xấu nhưng phiền phức thì phải sửa lại cho
hợp lý; cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển
thêm; cái gì mới mà hay thì ta phải làm”1.

lẽ là một nền văn hóa tương lai”2. Lý giải
cho nhận xét đó ông viết: “Dân An Nam là
một dân tộc giản dị và lịch thiệp, qua phong
thái thanh cao, giọng nói trầm ấm của
Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy
ngày mai, như nghe thấy sự yên tĩnh mênh

mông của tình hữu ái toàn thế giới”3. Từ sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn
hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của
văn hóa truyền thống hàng nghìn năm của
nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của
Người là hiện thân của những khát vọng
của các dân tộc trong việc khẳng định bản
sắc văn hóa dân tộc của mình và tiêu biểu
cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Đức độ của Người là sự kết tinh những
truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc ta,
gắn liền với phẩm chất cao quý nhất của
giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.

Vận dụng tư tưởng trên của Người
vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa, tôn
trọng phong tục, tập quán, văn hóa các dân
tộc ít người, đồng thời triệt để tẩy trừ đi
mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch
của văn hóa đế quốc, xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
2. Sự ảnh hƣởng của hai nền văn
hóa Đông – Tây đến tƣ tƣởng văn hóa Hồ
Chí Minh
Sự cống hiến trọn đời mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc bị áp

bức, bị bóc lột, vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội… Sự đóng góp to
lớn đó của Người không dừng lại ở sự khái
quát cao toàn bộ công lao của Người mà
còn là sự gián tiếp khẳng định vai trò, ý
nghĩa và sự đóng góp của cách mạng Việt
Nam đối với không chỉ lịch sử Việt Nam
mà cả với quốc tế. Đây là sự “văn hóa hóa”
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt
Nam, gắn liền với tên tuổi và sự lãnh đạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh
được thể hiện không phải trong những tác
phẩm chuyên sâu, nặng về lý luận, mà là
những tác phẩm văn hóa cụ thể, những
phong trào văn hóa do Người phát động và
đôi khi lại thấm đượm toát lên trong những
hành động, cử chỉ đời thường của Người.
Có thể nói Hồ Chí Minh là người Việt Nam
đầu tiên nhận thấy sự phù hợp giữa truyền
thống văn hóa dân tộc – một quốc gia
phương Đông chậm phát triển – với đỉnh
cao và tinh hoa văn hóa nhân loại là chủ
nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh cũng là
người biết phát huy cao nhất truyền thống
văn hóa Việt Nam phát triển lên một tầm
cao mới về chất, kết hợp với tinh hoa văn
hóa nhân loại để tạo nên cơ sở cho dân tộc
đủ sức đương đầu và chiến thắng những kẻ

thù to nhất, có vũ khí hiện đại nhất. Trên
bước đường hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh thấy rất rõ sự ảnh
hưởng của hai nền văn hóa phương Đông
và phương Tây đến tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh nói riêng và bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam nói chung, với phương châm
cái gì tốt của phương Đông hay phương
Tây ta phải học lấy để tạo nên một nền văn
hóa mới Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người luôn quan tâm sâu
sắc đến quả trình xây dựng và phát triển
văn hóa mới Việt Nam. Người đã làm rạng
rỡ dân tộc Việt Nam bằng sự nghiệp văn
hóa của chính mình. Sự đóng góp của
Người về văn hóa rất phong phú, đa dạng,
thấm đượm toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp
của Người được tỏa sáng trong từng việc
làm, từng cử chỉ, từng mối quan hệ với
đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế. Danh
nhân văn hóa kiệt xuất của Người không
chỉ là của thế kỷ XX mà còn là của các thế
kỷ tiếp theo, góp phần soi rọi ánh sáng văn
hóa của mình cho nhân loại đi tới. Nhà văn
Ôxip Manđenxtem năm 1923 đã nhận xét:
“Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn
hóa, không phải là văn hóa châu Âu, mà có


Quả thật, văn hóa phương Đông có
ảnh hưởng đầu tiên và ảnh hưởng rất sớm
đến Hồ Chí Minh. Người xuất thân trong
2

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 1, trang 478.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 1, trang 479.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 5, trang 94.
13


một gia đình Nho học, nên ngay từ thuở
thiếu thời, Người đã được sống trong môi
trường Nho giáo với tất cả những nguyên
tắc, luân lý, đạo đức từng thống trị tư tưởng
– tình cảm của nhiều dân tộc phương Đông
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và
Việt Nam hàng nghìn năm như Tam cương,
Ngũ thường, Trung hiếu, Tiết nghĩa…cùng
với ảnh hưởng đậm nét của Nho giáo. Đạo
phật cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội
Phong kiến Việt Nam. Sự ảnh hưởng của
đạo phật đối với Việt Nam thời trước thể

hiện ở chỗ không một làng nào ở nông thôn
Việt Nam lại không có chùa, hình ảnh
“chùa làng” đã đi vào ký ức bao con người
Việt Nam, các ngôi chùa ở Việt Nam không
chỉ là nơi thờ cúng Phật mà còn là nơi giáo
dục tư tưởng từ bi – bác ái, nơi giáo thiện trừ gian… Trên thực tế lịch sử, Nho giáo và
Phật giáo vào Việt Nam không giữ nguyên
vẹn tính chất giáo điều, khắc khổ ban đầu
mà kỳ lạ thay cả Nho giáo và Phật giáo khi
vào Việt Nam đã được dân gian hóa trên nền
tảng một truyền thống đoàn kết dân chủ và
nhân ái của người Việt Nam, truyền thống
này được định hình rất sớm và nó ngày càng
được củng cố và phát triển trong quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc.

càng thấy rằng năm 1911 khi bước chân
xuống tàu rời Tổ quốc ra đi tìm con đường
cứu nước, cứu dân với mục đích duy nhất là
giải phóng dân tộc, thì sự hiểu biết về văn
hóa phương Tây đối với người mang tên
Văn Ba còn quá ít ỏi, mặc dù những tư
tưởng tiến bộ của các cuộc cách mạng tư
sản phương Tây đã gây cho Người sự chú ý
“khi tôi độ 13 tuổi lần đầu tiên tôi được
nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác
ái. Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau
những chữ ấy”1.
Việc tiếp xúc với học vấn phương

Tây – tại trường tiểu học Pháp – Việt tại
Vinh (nhà trường của chế độ thuộc địa) có
thể coi là một cái mốc quan trọng. Chính
trong thời gian này Người được làm quen
với những tư tưởng phương Tây mới lạ,
nặng về tính chất áp đặt và sau này khi đã
bôn ba tìm đường cứu nước, Người dày
công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư
sản, say sưa nghiên cứu các tư tưởng của
Rútxô, Moongtexkia…Người tiếp nhận có
phê phán những tư tưởng tiến bộ của nền
văn hóa phương Tây, đồng thời cũng vạch
rõ những bất công trong xã hội tư bản, đối
lập với những lời nói hoa mỹ cả những
chính trị gia tư sản. Những lý tưởng “Tự do
– Bình đẳng – Bác ái” được nêu ra trong
thời đại các cuộc cách mạng tư sản đã bị
phản bội trở thành những hình ảnh mị dân,
hình thức,với trình độ tương đương năm
thứ hai trung học cơ sở cấp (phải thôi học ở
trường Quốc học Huế do tham gia cuộc
biểu tình chống thuế của nông dân miền
Trung), tuy trình độ chưa cao nhưng với trí
ham học hỏi của Nguyễn Tất Thành thì đó
là vốn cơ bản để vươn lên tiếp nhận văn
hóa phương Tây.

Khi đi học cậu bé Nguyễn Sinh
Cung được học các thầy Vương Thúc Độ,
Vương Thúc Quý… là những người tiểu trí

thức sống ở nông thôn thời Thuộc Pháp, họ
có cuộc sống hòa mình vào người dân lao
động, có vai trò lãnh đạo tinh thần trong
cộng đồng làng xóm và chính họ cũng là
người nêu gương sáng về tinh thần yêu quê
hương, đất nước, quyết xả thân vì nghĩa
lớn, vì độc lập, tự do của dân tộc. Trong
hoàn cảnh một nước thuộc địa, nửa phong
kiến, ngay trong thời kỳ học chữ Nho,
Nguyễn Sinh Cung đã sớm có điều kiện
tiếp xúc, làm quen với “Tân học” tức là nền
học mới chịu ảnh hưởng của văn hóa giáo
dục phương Tây, mà người thầy đầu tiên đã
giúp Nguyễn Sinh Cung vượt qua nền học
vấn Nho học để đến với “Tân học” là thầy
Nguyễn Quý Song – một tiến sĩ Nho học có
tư tưởng tiến bộ.

Ngay từ buổi đầu thế kỷ còn đang
đi tìm đường cứu nước, cứu dân tộc thoát
khỏi ách thực dân, Người cũng đã mang
nền văn hóa của dân tộc mình “đối thoại”
với nền văn hóa của nhân dân Pháp và các
dân tộc khác trên thế giới. Đúng như giờ
đây UNESCO càng kêu gọi thúc đẩy: cuộc
đối thoại giữa các nền văn hóa để hướng tới
sự đoàn kết mới giữa nhân dân các nước
bởi vì: Đã từ lâu nền văn hóa bao giờ cũng
là phương tiện ưu tiên trong cuộc giao lưu
giữa các dân tộc, khi nó có thể cống hiến

mạnh mẽ cho việc tăng cường sự hiểu biết

Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp
nhận văn hóa phương Tây (chủ yếu là văn
hóa Pháp), sau khi đã tiếp nhận văn hóa
phương Đông đến một trình độ nhất định,
có thể nói, Người đã có cái nền tảng vững
chắc cần thiết về cổ học phương Đông như
một vũ khí để vận dụng khi cần thiết vào
công cuộc cách mạng. Đồng thời, chúng ta

1

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 1, trang 477.
14


lẫn nhau trên phạm vi quốc tế, đi đôi với sự
nhìn nhận những đặc trưng của mỗi xã hội
trong các hình thức diễn đạt những giá trị
văn hóa của mình.

bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam từ
những năm 1921.
Kết hợp với các giá trị truyền thống
của phương Đông với các thành tựu hiện
đại của phương Tây, chính là một sáng tạo
bao trùm cả nền văn hóa mới do Hồ Chí
Minh xây dựng. Trong việc làm sáng tạo

đó, Người dã luôn luôn bám sát thực tiễn
Việt Nam, căn cứ vào các đặc điểm về kinh
tế - xã hội, nhất là các đặc điểm văn hóa
truyền thống. Chính Người đã tổng kết các
biện pháp tuyên truyền, vận động, du nhập
văn hóa đầy tính sáng tạo ấy; bằng cách lấy
kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa
nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh
thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh
thần dân chủ.

Khi tiếp nhận văn hóa phương Tây
ở thời điểm đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tất
Thành không tiếp nhận bằng con đường học
hành chính thống ở ghế nhà trường mà
bằng con đường kiên nhẫn học hỏi trong
quá trình xâm nhập quần chúng lao động,
bằng việc tìm đọc tài liệu ở các Thư viện.
Một đặc điểm khác là đã tiếp nhận văn hóa
phương Tây trong quá trình tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây –
trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ tự do, tiến bộ của cách mạng tư sản dân
quyền Pháp 1789, từ đó tiếp nhận lý tưởng
của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917,
trong thực tế là một bước phát triển mới,
cao hơn cả về lượng lẫn về chất, lượng là
muốn nói đế sự hưởng ứng tham gia của
đông đảo quần chúng cách mạng, chất là
nói về sự phát triển của tư tưởng nhân văn

của lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Đề ra yêu cầu kết hợp “văn hóa
xưa” và “văn hóa nay”, hiển nhiên là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác định sự kết hợp
giữa “truyền thống và hiện đại” cũng như
giữa “phương Đông và phương Tây” trong
nền văn hóa mới Việt Nam, và chính bản
thân Người, cuộc sống của Người là hiện
thân của nền văn hóa mới đó. Tại Hội nghị
cán bộ văn hóa năm 1957, Hồ Chí Minh đã
nêu nguyên tắc phát triển của nền văn hóa
dân tộc là: “Phát huy vốn cũ quý báu của
dân tộc và học tập văn hóa tiên tiến của các
nước”1, nhằm xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có sự tiếp
nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời
mang dấu ấn sâu sắc của giai cấp, thời đại,
một nền văn hóa không chỉ phục vụ riêng
cho cách mạng Việt Nam mà còn góp phần
tích cực nhất vào sự phát triển chung của
cách mạng thế giới, đó chính là nội dung
đích thực của tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh.

Hàng chục thế kỷ qua trong lịch sử
của mình, nhân dân Việt Nam vốn không
ngớt đem nền văn hóa đất nước đi “đối
thoại” với các nước như: Trung Quốc, Ấn
Độ… cho nên từ Nguyễn Trãi, Phan Bội

Châu… đến Hồ Chí Minh đều là các anh
hùng dân tộc đã tỏ rõ diện mạo văn hóa
trước sau tiêu biểu cho văn hóa truyền
thống lâu đời của đất nước mình; lý tưởng
“bốn bể anh em” trong cõi “năm châu một
nhà”, vẫn là khát vọng của đất nước thanh
bình,và nguyện ước rửa sạch nỗi ô nhục của
nhân dân dưới ách thực dân lúc bấy giờ.
Hơn 30 năm bôn ba ở nước ngoài,
chủ yếu là hoạt động ở ngay ngọn nguồn
của văn minh phương Tây, Nguyễn Ái
Quốc có đủ thời gian, điều kiện và trí tuệ để
chọn lọc, tiếp nhận những tinh hoa của nền
văn hóa phương Tây rực rỡ. Đặc sắc hơn
nữa là nhờ có sự am hiểu thấu đáo, tinh
thông sâu sắc tinh hoa văn hóa phương Tây
mà Hồ Chí Minh càng hiểu sâu thêm, đúng
đắn và đầy đủ hơn văn hóa phương Đông
đã từng được học, ảnh hưởng từ thuở thơ
ấu, cho nên cũng dễ hiểu khi thấy Người
vận dụng tất cả những kiến thức của lịch sử
nước Nam, nước Trung Quốc, của học
thuyết Khổng Tử, Mạnh Tử, giáo lý của
đạo Phật… được Người giải thích theo
quan điểm mới để phục vụ cho việc truyền

3. Kết luận
Xây dựng văn hoá là một mặt trận
đấu tranh gay go, gian khổ. Sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa mới của nước ta trong

điều kiện hiện nay đang có nhiều thuận lợi,
song cũng đang đứng trước những thách
thức, nguy cơ lớn. Vì vậy, cùng với việc
nắm chắc thời cơ, tận dụng thuận lợi, chúng
ta cũng cần nâng cao cảnh giác, tính chiến
đấu, vượt qua mọi thử thách. Kẻ thù cũng
hiểu rõ rằng văn hóa là nền tảng sức mạnh
của dân tộc ta, đã góp phần to lớn làm nên
những chiến thắng vĩ đại trong lịch sử. Do
1

Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb Chính trị
Quốc Gia, tập 8, trang 326.
15


đó kẻ thù luôn tìm mọi cách để làm xói
mòn băng hoại những giá trị tốt đẹp, thực
hiện “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn
hóa. Điều này đặt ra yêu cầu trong khi xây
dựng nền văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, phải đấu tranh với những xu
hướng phản văn hóa du nhập trong quá
trình toàn cầu hóa. Đó chính là cụ thể hóa
tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh vào xây
dựng đất nước ta giàu đẹp hơn trong thời kỳ
đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.

5. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 4.

6. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 5.
7. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 6.
8. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 8.
9. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 12.
10. GS. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh
nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. UBKHXH Việt Nam (1990), Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa, Tập thể tác giả,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. UBKHXH Việt Nam (1995), Chủ tịch
Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa lớn, Tập thể tác
giả, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


3. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 1.
4. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Nxb
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tập 3.

16


NỀN VĂN HÓA MỚI - TỪ TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ĐẾN QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngô Hùng Dũng
Trường Đại học An Giang
hệ giá trị mới trên nền tảng và kế tục giá trị
truyền thống, bù đắp những thiếu hụt những
giá trị truyền thống và tạo tiền đề để hình
thành giá trị tương lai. Hệ thống giá trị tinh
thần của mỗi dân tộc hình thành nên bản
sắc của mỗi dân tộc, văn hóa thực chất là
cái để phân biệt dân tộc này với dân tộc
khác. Hồ Chí Minh cho rằng phải giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc, lấy văn hóa
xưa để bồi đắp cho văn hóa nay. Người ca
ngợi truyền thống yêu nước, thương người,
tinh thần dân chủ, tinh thần quốc tế, đoàn
kết, yêu đời, lạc quan, nhất là ca ngợi các
anh hùng và danh nhân Việt Nam. Người
giáo dục “dân ta phải biết sử ta cho tường
gốc tích nước nhà Việt Nam”. Đồng thời
Người khẳng định khi phát huy vốn cũ quí
báu của văn hóa dân tộc tức là khôi phục

những gì tốt đẹp, phải loại dần ra cái gì là
không tốt, không phù hợp. Hồ Chí Minh
cũng chỉ ra là chúng ta phải biết học tập cái
hay, cái tốt của văn hóa thế giới, trên cơ sở
phát huy cái gốc của văn hóa dân tộc.

1. Đặt vấn đề
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân
của tinh hoa văn hóa Việt Nam. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa là một trong
những di sản quí báu mà Người đã để lại
cho chúng ta hôm nay. Cho đến nay, nhiều
nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: Ở Hồ
Chí Minh, nhà chính trị hòa quyện với nhà
nhân văn, nhà đạo đức, nhà văn hóa hình
thành một diện mạo, một nhân cách riêng
của Hồ Chí Minh… Trong nghị quyết kỷ
niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, UNESCO có đoạn viết: “Sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn
hóa, giáo dục và nghệ thuật…”1. Một trong
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa là xây dựng “nền văn hóa
mới” Việt Nam. Bài viết tập trung làm rõ
quan điểm của Hồ Chí Minh về nền văn hóa
mới và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ
Chí Minh về nền văn hóa mới


Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự
nghiệp xây dựng văn hóa nước nhà, coi đó
là một phần việc quan trọng của cách mạng.
Theo Người: Trong sự nghiệp vĩ đại kháng
chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa
gánh một phần rất quan trọng. Người đánh
giá cao vai trò dẫn dắt định hướng xã hội
của văn hóa -Văn hóa soi đường cho quốc
dân đi. Vì thế, ngay từ những năm đầu sau
Cách mạng Tháng Tám, Người đã liên tiếp
viết hai tác phẩm “Đời sống mới” và “Sửa
đổi lối làm việc” để kêu gọi, động viên,
hướng dẫn nhân dân, cán bộ học tập, thực
hiện. Người cũng luôn nhấn mạnh, trong
công cuộc kiến thiết nước nhà cố bốn vấn
đề phải chú ý đến, phải coi trọng ngang
nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Người thường nói, “phải làm cho văn hóa
ăn sâu vào tâm lý quốc dân” với mong
muốn làm sao cho văn hóa bồi bổ, vun đắp
những tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình
yêu thương con người, yêu chân - thiện mỹ, yêu sự chân thật, ghét những thói hư tật
xấu và coi đó là thứ giặc nội xâm rất nguy
hiểm. Khi nói “văn hóa soi đường cho quốc

Nền văn hóa mới theo quan điểm
của Hồ Chí Minh chứa đựng nhiều nội
dung phong phú rộng lớn, liên quan tới các
vấn đề như ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự

cường, chống chủ nghĩa cá nhân, luôn biết
đặt lợi ích của nhân dân, của tổ quốc lên
trên hết, trước hết; quyền làm chủ, bình
đẳng, tự do, hạnh phúc tức là dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đó là mối quan hệ giữa giáo dục đạo đức và
pháp luật, khai thác truyền thống dân chủ
xóm làng, để xây dựng một xã hội mới, một
nền văn hóa mới được điều hành bằng luật.
Trong xã hội mới, người dân phải biết
nghĩa vụ, quyền lợi và biết hưởng hạnh
phúc, quyền dân chủ mà mình được hưởng.
Từ đó xuất hiện một nền dân chủ cao, thật
sự, chứa đựng quan hệ tốt đẹp giữa người
với người. Nền văn hóa mới là xác lập quan
1

Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo Nhân
dân 19/5/1989
17


dân đi” chính là Người muốn nhấn mạnh
vai trò soi rọi, mở mang tầm nhìn, trí tuệ,
tâm hồn, tình cảm cho con người, văn hóa
giúp cho lý trí con người thêm sáng suốt,
tình cảm con người thêm cao đẹp.

dân. Người thường căn dặn những người

làm công tác văn hóa, văn nghệ phải đi sâu
vào thực tế cuộc sống, hiểu được tâm tư
tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu... của nhân
dân để từ đó sáng tác phục vụ nhân dân một
cách tốt nhất, đồng thời Người cũng luôn
uốn nắn, phê bình lối nói, lối viết và lối
sáng tác xa rời quần chúng, không phù hợp
với trình độ và thị hiếu thẩm mĩ của các
tầng lớp nhân dân. Cùng với việc đề cao và
phát huy cái gốc của văn hóa truyền thống,
lấy văn hóa xưa để bồi đắp cho văn hóa
nay, khôi phục những gì tốt đẹp của quá
khứ và loại bỏ dần những gì không tốt,
không phù hợp. Người cho rằng, chúng ta
phải biết học tập cái hay, cái tốt của văn
hóa thế giới, tiếp thu những gì tinh túy của
văn hóa nhân loại.

Quan điểm xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là văn hóa phải phụng
sự nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân,
của dân tộc làm cơ sở. Người nêu rõ: “Nền
văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh
phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở.
Phải học lấy những điều tốt đẹp của văn
hóa nước ngoài tạo ra nền văn hóa Việt
Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi
được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa
xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ,
độc lập”. Nền văn hóa mới theo Hồ Chủ

tịch có nhiệm vụ xóa bỏ những tàn dư lạc
hậu của chế độ cũ và xây dựng nội dung
mới của nền văn hóa cách mạng. Trong tác
phẩm Đời sống mới, Người chi rõ: “Đời
sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết,
không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ
mà xấu thì phải bỏ... Cái gì cũ mà tốt thì
phải phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì
ta phải làm”1. Nền văn hóa mới chỉ có thể
xác lập khi các tầng lớp nhân dân đều thấm
nhuần tinh thần tự giác, tự chủ, tích cực
tham gia. Người nói: Nếu mọi người đều cố
gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc
nhất định sẽ phú cường. Là một nhà văn
hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức
sâu sắc vai trò của văn hóa trong việc nâng
cao dân trí. Ngay từ những ngày đầu cách
mạng, một trong ba nhiệm vụ cấp bách được
Hồ Chủ tịch đề ra là diệt giặc dốt, bởi theo
Người “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Với tầm nhìn xa rộng đó, công cuộc bình
dân học vụ đã nhanh chóng được triển khai
trong toàn quốc, đem lại những kết quả kỳ
diệu, đưa dân tộc Việt Nam từ chỗ 80% dân
số mù chữ nhanh chóng nâng cao sức mạnh
trí tuệ để chiến đấu và kiến thiết đất nước.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng văn hóa mới phải đi đôi với xây
dựng con người mới. Theo Người: “Muốn

xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con
người xã hội chủ nghĩa”2. Trong quá trình
xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân tố quyết
định thắng lợi chính là con người. Con
người thực sự là nguồn lực của mọi nguồn
lực, khởi đầu của mọi sức mạnh, quyết định
sự phát triển và phồn thịnh của mỗi quốc
gia. Trong tác phẩm Đời sổng mới, Người
chi rõ mối quan hệ then chốt này: “Nếu
người này cũng xấu, người kia cũng xấu,
thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi
người đều tốt, thì thành làng tốt, nước
mạnh. Người là gốc của làng nước”3. Con
người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải
là người vừa “hồng” vừa “chuyên", có cả
“tài" và “đức”, bởi người có tài mà không
có đức là người vô dụng. Người có đức mà
không có tài làm việc gì cũng khó. Người
còn ví người có đức mà không có tài giống
như ông bụt ngồi trong chùa, chẳng giúp
được cho ai. “Đức” ở đây bao gồm những
phẩm chất tốt đẹp của con người, tiêu biểu
là các đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư... “Tài” hàm chứa những gì liên
quan đến tư chất, năng lực, chuyên môn,
nghiệp vụ... Đạo đức và năng lực phải hòa
quyện với nhau, giúp mỗi người thực hiện
sứ mệnh cao cả của mình, đem lại hạnh
phúc cho bản thân, gia đình, cộng đồng và
dân tộc. Trong quá trình xây dựng con

người, Hồ Chí Minh luôn đề cao việc xây

Trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa mới, bên cạnh việc đề cao tính dân tộc,
Người cũng luôn chú trọng tới tính khoa
học và đại chúng. Người thường nói: Cái
văn hóa mới này cần phải có tính khoa học,
tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu
tiến hóa của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta
đã được độc lập, tinh thần được giải phóng,
cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa
học và hợp với cả nguyện vọng của nhân

2

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập , tập 12, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 604.
3
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập , tập 5, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 117, 292.

1

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập , tập 7, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 246.
18


dựng đạo đức, coi đức là nền tàng, là cái
gốc của người cách mạng. Người cho rằng,

đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển
con người, như cái gốc của cây, như ngọn
nguồn của sông suối. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Chính vì vậy, theo Người, sự
nghiệp xây dựng con người phải bắt đầu từ
những phẩm chất này, tạo ra những con
người “tài, đức vẹn toàn” để xây dựng đất
nước. Người luôn nhắc nhở, giáo dục phải
toàn diện: Đức, trí, lao động, thể, mỹ.
Những mặt ấy thống nhất với nhau, tạo điều
kiện cho nhau, giúp cho con người phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần, hoàn thiện
mình để đạt được hiệu quả công việc cao
nhất, hoàn thành tốt nhất vai trò của một
công dân.

bất kỳ giá nào, thậm chí hy sinh mặt xã hội,
mặt văn hóa, hy sinh môi trường sinh thái,
mà mục tiêu của phát triển bền vững là
nâng cao chất lượng cuộc sống con người,
bảo đảm phát triển hài hòa giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần, bảo vệ môi
trường sinh thái, sống hòa hợp với tự nhiên.
Trên cơ sở nền tảng lý luận và điều
kiện thực tế, Đảng và Nhà nước xem phát
triển bền vững là một yêu cầu cấp bách,
trong quá trình đổi mới, tránh thiên lệch
kinh tế mà cần xác định con người là trung

tâm của mọi sự phát triển, là thước đo của
mọi sự thành công về chính sách, điều tiết
xã hội, tại Đại hội Đảng lần thứ XI Đảng
khẳng định: “Phát triển nhanh gắn liền với
phát triển bền vững… Tăng trưởng kinh tế
phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Phát triển kinh tế xã hội
phải luôn coi trọng bảo vệ và cải tạo môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu… Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn
định chính trị-xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh
và bền vững”2.

2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về nền
văn hóa mới hiện nay.
Những tư tưởng lớn lao, sâu sắc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nền văn hóa
mới đến nay vẫn là điểm tựa lý luận vững
chãi cho xây dựng lối sống văn hóa của
người Việt Nam hiện nay. Thấm nhuần tư
tưởng “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”
của Hồ Chủ tịch, chúng ta đã và đang nâng
cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai
trò của văn hóa. Nhận thức rõ vị trí, vai trò,

tầm quan trọng của văn hóa và con người
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Đảng khẳng định: “Phát triển văn hóa
vì sự hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa”1.
Trong quá trình phát triển văn hóa phải
luôn chú trọng chăm lo xây dựng con
người, mà trọng tâm là xây dựng nhân cách,
đạo đức, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính
cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo... Quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh về “chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa - bốn vấn đề phải coi
trọng ngang nhau” theo đó, ngày nay vị trí,
vai trò của văn hóa ngày càng được khẳng
định, đặc biệt là trong phát triển bền vững.

Việc xây dựng nền văn hóa mới
của Việt Nam – nền văn hóa tiên tiến, đậm
đã bản sắc dân tộc đã góp phần làm cho
“Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng
phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc được phát huy, nhiều
chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình
thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ
thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công
nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng
có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong
trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết
quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền

thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng
đồng…”3. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước
cũng thừa nhận rằng: “So với những thành
tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong
lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ

Phần lớn các quốc gia trên thế giới
hiện nay đều hướng tới sự phát triển bền
vững. Phát triển không phải chỉ là tăng
trưởng đơn thuần là phát triển kinh tế với

2

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3
Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
(theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam).

1

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 14-5-2014 của
Hội nghị lần thứ chín BCH TW khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

19


×