Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Kí ức tuổi thơ trong hồi kí những ngày thơ ấu của nguyên hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.8 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
------------------

TRẦN THỊ HÀ

KÍ ỨC TUỔI THƠ TRONG HỒI KÍ

NHỮNG NGÀY THƠ ẤU CỦA NGUYÊN HỒNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

Người hướng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ THỊ HUYỀN TRANG

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
------------------

TRẦN THỊ HÀ

KÍ ỨC TUỔI THƠ TRONG HỒI KÍ

NHỮNG NGÀY THƠ ẤU CỦA NGUYÊN HỒNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi


Người hướng dẫn khoa học
ThS. ĐỖ THỊ HUYỀN TRANG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu
học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn cô Đỗ Thị Huyền Trang - người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Với điều kiện thời gian nghiên cứu và vốn kiến thức còn hạn chế, chắc chắn
đề tài sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Hà


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Kí ức tuổi thơ trong
hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của cô giáo Ths. Đỗ Thị Huyền Trang. Đề tài
này chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Trần Thị Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 4
6. Bố cục của khóa luận ................................................................................................... 4
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................................. 5
1.1. Tác giả Nguyên Hồng ............................................................................................... 5
1.1.1. Con người và cuộc đời ........................................................................................ 5
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác .............................................................................................. 8
1.2. Khái quát về thể loại hồi kí trong văn học hiện đại Việt Nam ............................ 10
1.3. Hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng ....................................................... 15
Chương 2. ........................................................................................................................... 19
NHỮNG NGÀY THƠ ẤU – CUỐN HỒI KÍ VỀ TUỔI THƠ ......................................... 19
2.1. Bối cảnh xã hội với tuổi thơ của Nguyên Hồng .................................................... 19
2.2. “Tôi có một tuổi thơ không hạnh phúc” (Tuổi thơ với các thành viên trong gia
đình) ................................................................................................................................ 21
2.2.1. Kí ức về gia đình trong những ngày còn êm ấm. ............................................ 21
2.2.2. Kí ức về mẹ ........................................................................................................ 24
2.2.3. Kí ức về cha ....................................................................................................... 27
2.2.4. Kí ức về bà ......................................................................................................... 32
2.2.5. Kí ức với những người họ hàng ....................................................................... 35
2.3. Tuổi thơ với trò đánh đáo, với bạn bè và mái trường. ........................................ 36

2.3.1. Tuổi thơ với trò chơi đánh đáo ......................................................................... 36
2.3.2. Tuổi thơ với những người bạn ......................................................................... 39
2.3.3. Tuổi thơ với mái trường ................................................................................... 41
2.4. Tuổi thơ với những nỗi ám ảnh khôn nguôi ......................................................... 42
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 48


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hầu như mỗi người trong chúng ta đều dành cả tuổi thơ để ước rằng
mình mau chóng lớn lên rồi lại dành cả quãng thời gian trưởng thành để mong
mình bé lại. Như Karl Ove knausgard đã từng nói: “Mỗi lần nhìn lại thời thơ
ấu tự do, thứ nay đã vĩnh viễn mất đi, chôn vùi luôn tất cả những cảm xúc
sung sướng hay hạnh phúc mãnh liệt nhất, tôi thỉnh thoảng vẫn nghĩ trẻ con
mới thực sự là lúc mình cảm nhận được hết thảy ý nghĩa của cuộc sống, và
chúng ta - những người lớn, bất quá chỉ là nô lệ mãi phụ thuộc, hoài niệm về
cái thời đã qua ấy mà thôi. Mục đích sống của mỗi người, có lẽ cũng chỉ có
vậy”. Và mỗi người cũng chỉ có thể mua vé đi tuổi thơ qua những trang
truyện ngắn, những tiểu thuyết, những hồi kí,… Có lẽ cũng bởi thế mà kí ức
tuổi thơ đã trở thành đề tài được rất nhiều các nhà văn khai thác trong sự
nghiệp văn chương của mình.
Nguyên Hồng là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời
kì 1930 - 1945. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói về ông với biết bao trân trọng :
“Nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo thống thiết”[15, 428], “Nhà văn của những
người cùng khổ”[15, 450], “Nguyên Hồng quằn cả bút, cạn cả máu vì tầng
lớp cần lao”[18, 5]. Ngay từ nhỏ cuộc sống của ông đã gắn liền với những
người lao động cùng cực, những người phu xe, thợ nề, những người bán hàng
rong, những đứa trẻ đầu đường xó chợ,… Tuổi thơ ông là một tuổi thơ thiếu
tình thương, một tuổi thơ cực nhọc, vào đời sớm, đói khát, mệt mỏi, trưởng

thành một cách ngây ngô thiếu sự dẫn dắt của gia đình, thầy cô nhưng tuổi thơ
ấy vẫn mang những nét hồn nhiên, trong trẻo, ngọt ngào của một thời thơ ấu
mà người ta luôn muốn quay trở về.
Những ngày thơ ấu là hồi kí đầu tay của Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ
của mình. Tác phẩm được viết rất thật, rất chân thành về tuổi thơ khắc nghiệt

1


nhưng cũng không kém phần lãng mạn của tác giả. Ở hồi kí này người đọc
không chỉ nhận thấy sự “gia công nghệ thuật” mà được kết dệt với những
“rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài với những lề lối khắc
nghiệt của một gia đình sắp tàn”( Thạch Lam).
Là một giáo viên Tiểu học tương lai, tôi muốn trau dồi được nhiều kiến
thức về văn học cũng như các lĩnh vực khác để làm giàu thêm tri thức của bản
thân, để phục vụ công tác giảng dạy sau này. Đồng thời có thể mang tác phẩm
Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng đến gần với học sinh thông qua các
hoạt động ngoại khóa nhằm giúp học sinh tăng thêm khả năng cảm thụ văn
học đồng thời giáo dục đạo đức cho học sinh. Bên cạnh đó, trang bị cho bản
thân những kinh nghiệm trong bước đầu nghiên cứu khoa học, người viết lựa
chọn đề tài “Ký ức tuổi thơ trong hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng”.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyên Hồng là một nhà văn lớn trong trào lưu văn học hiện thực phê
phán 1930 - 1945 nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Các nhà
nghiên cứu đã tìm hiểu về ông và các tác phẩm của ông trên nhiều góc độ:
cuộc đời, thế giới quan, nội dung sáng tác, phong cách sáng tác, phong cách
nghệ thuật,…
- Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (quyển 4, 1942), có bài
viết Tác phẩm Nguyên Hồng trước cách mạng tháng 8 có đề cập đến những

tác phẩm của nhà văn trước cách mạng tháng 8 trong đó có hồi kí Những ngày
thơ ấu. Ông đánh giá: “Lối tự truyện này ở Anh, ở Mỹ, ở Nga rất thịnh hành,
nhưng ở nước Việt Nam ta, viết được tôi cho là can đảm lắm”; “Đọc tự truyện
của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có dưới mắt quyển sách của một nhà văn Anh
hay nhà văn Nga”.[19, 273]

2


- Nguyễn Đăng Hiệp trong Đặc sắc hồi kí của Nguyên Hồng đã
nhận định: “Toàn bộ những trang sách ấy là một thứ trữ tình được thể hiện
bằng văn xuôi, tạo thành một bức chân dung tự họa”. [11, 318]
- Phan Diễm Phương trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam đã
nhận xét: “Thiên hồi kí Những ngày thơ ấu đã làm nên bộ mặt của xã hội thị
dân tiểu tư sản lạnh lùng và tàn ác. Trong xã hội đó, tình cảm con người , kể
cả tình cảm ruột thịt, đã bị đồng tiền và thói nhỏ nhen độc ác làm cho khô
héo, lụi tàn. Tác phẩm hấp dẫn người đọc bằng lối viết giản dị, chân thực
bằng tấm lòng yêu thương tha thiết, chân thành. Những ngày thơ ấu là một
trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng trước cách mạng.”
[1, 593]
- Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học bộ mới: “Những ngày
thơ ấu thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng. Một trái tim yêu
thương tha thiết, chân thành, những “rung động cực điểm của một linh hồn
trẻ dại” (Thạch Lam), một bút pháp chân thực giản dị mà thắm đượm trữ
tình. Về nhiều mặt, ngòi bút Nguyên Hồng trong Những ngày thơ ấu tỏ ra già
dặn hơn trong Bỉ vỏ cùng tác giả” [7, 1292]
- Phạm Thị Loan, Thế giới nghệ thuật trong hồi kí Những ngày thơ ấu
của Nguyên Hồng (Khóa luận tốt nghiệp): “Những ngày thơ ấu có lẽ là hồi kí
xúc động nhất, chân thành và trong sáng nhất trong cả cuộc đời viết văn của
Nguyên Hồng. Nó ngân vang mạnh mẽ, thu hút tình cảm của người đọc khiến

cho người ta không thể dửng dưng, lạnh nhạt trước một sự chân thành, thắm
thiết đến vậy.” [12]
- Lê Thị Lệ Thủy, Hồi kí văn học (của các nhà văn) Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại (Luận án tiến sĩ văn học) đã nhận xét: “Trong các di
sản văn học của Nguyên Hồng có những tác phẩm tuy không đồ sộ về quy mô

3


nhưng lại khắc sâu vào tâm trí người đọc những ấn tượng và những niềm xúc
động. Cuốn truyện tự thuật Những ngày thơ ấu là tác phẩm tiêu biểu cho
khuynh hướng sáng tạo mà người xưa bảo là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”.”
[23]
Qua khảo sát nhận thấy các tác phẩm truyện ngắn của Nguyên Hồng
được nghiên cứu, tìm hiểu khá cặn kẽ tuy nhiên hồi kí của ông thì chưa được
xem xét, tìm hiểu một cách có hệ thống. Nếu có cũng chỉ mang tính chất
thoáng qua, lẻ tẻ. Song đó lại là những gợi ý bước đầu cho tôi tiếp cận đề tài
này. Vì vậy, từ những gợi ý quý báu của những người đi trước, tôi tìm hiểu đề
tài: Kí ức tuổi thơ trong hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những kí ức, kỉ niệm về thời ấu thơ của nhà văn qua tác
phẩm Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: kí ức tuổi thơ của Nguyên Hồng trong hồi kí
Những ngày thơ ấu.
- Phạm vi nghiên cứu: Tư liệu: Nguyên Hồng, (tái bản 2015), Những
ngày thơ ấu, Nxb Văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thống kê, khảo sát

6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận được triển khai gồm có 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Những ngày thơ ấu - cuốn hồi kí về tuổi thơ

4


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tác giả Nguyên Hồng
1.1.1. Con người và cuộc đời
Nguyên Hồng tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày
5/11/1918 tại phố Hàng Cau, thành phố Nam Định, mất ngày 2/5/1982 tại ấp
Cầu Đen, huyện Yên Thế, Bắc Giang. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia
đình đang thời kì sa sút, sống những ngày tháng đói khổ, tủi nhục chịu biết
bao nhiêu dằn vặt, đày đọa trong sự tối tăm của xã hội cũ. Mười hai tuổi, bố
ho lao chết, mẹ đi bước nữa trong sự ruồng bỏ, hắt hủi của gia đình chồng.
Nguyên Hồng thiếu tình thương của mẹ sống nhờ vào cô và chịu sự rẻ rúng
khinh miệt của họ hàng. Cảnh ngộ ấy đã ném Nguyên Hồng vào môi trường
những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Lúc ở với cô, với lòng thương
người và không chịu được cảnh áp bức, khi thấy ông chú dượng ngược đãi,
đánh đập bà cô, Nguyên Hồng đã cầm dao đâm ông ấy và bị bắt đi cải tạo mãi
đến năm 16 tuổi mới được tha. Hai mẹ con rời quê tới sinh sống trong một
xóm nghèo tại Hải Phòng (xóm Cấm). Tại đây, cuộc sống của ông gắn liền
với tầng lớp người dân bần cùng thuộc tầng đáy của lớp dân thành thị. Tại
đây, Nguyên Hồng gặp Thế Lữ - thi nhân mà ông khao khát gặp mặt, xác định
hướng đi, và viết văn, ông viết miệt mài, không ngừng nghỉ.
Với hơn 40 năm cầm bút, Nguyên Hồng đã để lại cho văn học nước nhà

hàng vạn trang sách, với số lượng gần 40 tác phẩm, có đủ các thể loại: tiểu
thuyết, truyện ngắn, bút kí, thơ, kịch,…trong đó nhiều tác phẩm có giá trị lâu
dài cho nền văn học dân tộc như Bỉ vỏ, Cửa biển, Một tuổi thơ văn, và tập hồi
kí Những ngày thơ ấu,…
Khác với nhiều cây bút cùng thời, ngay từ tác phẩm đầu tay, Nguyên
Hồng đã chọn cho mình con đường của chủ nghĩa nhân đạo, hướng về những

5


lớp người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Trong giai đoạn 1930 – 1945, văn
học Việt Nam xuất hiện hai luồng tư tưởng chủ yếu là chủ nghĩa lãng mạn và
chủ nghĩa hiện thực. Thế Lữ là người có ảnh hưởng rất lớn đến Nguyên Hồng
trong những ngày đầu viết văn. Nhưng không giống như Thế Lữ, Nguyên
Hồng không đi theo chủ nghĩa lãng mạn mà các tác phẩm của ông được viết
với một bút pháp hiện thực tỉnh táo. Phải chăng chính cuộc đời đói khổ và
lam lũ đã giúp Nguyên Hồng vững bước với chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa
nhân đạo sâu sắc.
Văn Nguyên Hồng là thứ văn bám riết, quấn quýt lấy cuộc sống, một
thứ văn sôi nổi, hăm hở, tràn đầy chất thơ trữ tình lãng mạn. Dường như ông
cứ đặt bút xuống là cuộc sống đã trổ tràn trên giấy với những chi tiết sinh
động, “ngồn ngộn”, “phập phồng tươi rói”. Ở Nguyên Hồng không có những
câu văn “dài ngoẵng” tràn đầy trang sách như Huy-gô, không xáo trộn vô ý
thức thành một dòng triền miên bất tận như Mácxen Prút, không trạm trổ sơn
mài như Nguyễn Tuân, không “xiếc” như Chế Lan Viên cũng không “lý sự”
như Nam Cao mà văn Nguyên Hồng xác định một chỗ đứng khó tranh chấp,
xê dịch trong kí ức người đọc nhờ một đặc sắc khác. Đó là tiếng kêu nức nở,
tiếng kêu khắc khoải của con người. Ông đã viết về lớp dân nghèo thành thị
với một “niềm tin tưởng tha thiết”, một “tình thương yêu đắm đuối”, một
niềm thương cảm sâu sắc của những người “cùng một hoàn cảnh, cùng một

cuộc đời thấp kém và tối tăm, vì thiếu thốn đủ thứ, vì phải chịu đựng đủ mọi
thứ” (Lớp học lẩn lút). Nguyên Hồng viết văn bằng tình yêu thương, một tình
thương không kiềm chế được. Nguyên Hồng viết văn bằng nước mắt, nước
mắt không có giọt cuối cùng. Chìm dưới đáy mỗi một câu văn là một giọt
nước mắt lớn như thế.
Dường như mỗi nhà văn đều có một nguồn suối tinh thần yêu thương
của họ. Ngô Tất Tố tiếp thu được cái hơi thở khỏe mạnh, hồn hậu, lạc quan

6


của nông dân, còn Nguyên Hồng thì bắt rễ sâu vào cuộc sống và những tình
cảm tốt đẹp của những người dân nghèo, thợ thuyền thành phố. Ông luôn luôn
nói đến những người lao động nghèo khổ với lòng biết ơn và sự gắn bó trọn
đời thủy chung. Nguyên Hồng tồn tại trong văn học Việt Nam như một nhà
văn có cuộc sống rất gần với nhân vật của mình, nghĩa là cũng đủ cay đắng,
cơ cực như bất cứ cuộc đời dưới đáy nào khác. Trong khi phơi bày tình cảnh
cực khổ thê thảm của những hạng người bị coi là cặn bã của xã hội ấy,
Nguyên Hồng đã dành cho họ một tấm lòng yêu thương thắm thiết, từ đó
bênh vực và khẳng định phẩm chất của họ. Ông viết văn bằng trái tim hơn là
bằng lí trí. Ông cảm thông sâu sắc và có quan điểm tiến bộ trong việc thể hiện
nỗi đau khổ và những khát vọng chính đáng của người dân lao động. Nguyên
Hồng yêu văn, say mê văn chương. Ông cho văn chương là vắt ruột, vắt máu
mà viết ra. Hai câu thơ mà ông thường ngâm nga thể hiện rõ tình yêu văn
chương nồng nàn tha thiết của mình:
“Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài tạ không sơn khâu…
(Khuất Nguyên, văn sáng bừng trời đất
Vua Sở, lâu đài trở đất hoang)”
Sinh thời Nguyên Hồng là người luôn biết chia sẻ những kinh nghiệm

cầm bút, viết văn với đồng nghiệp, nhất là những cây bút trẻ. Ông đã viết văn
trong cái cực nhọc của đời thường để kiếm sống, mò mẫm viết trong sự thiếu
thốn từ kiến thức đến bạn bè tâm giao. Vì vậy nên ông hiểu cái tâm trạng, cái
cực nhọc, cái sự háo hức, say mê, ngông cuồng, cái non dại vụng về của
những người trẻ. Ông thường khuyên nhủ: “Phải tự rèn, tự luyện cho mình.
Sắt thép lấy từ quặng mỏ của sự sống, của cuộc đời. Muốn mầu nhiệm và linh
thiêng phải có máu thịt, máu thịt của con người, của chính mình. Muốn sử
dụng thật hiệu nghiệm, thật có kết quả, thật là tuyệt sự mầu nhiệm và linh

7


thiêng thì vừa phải học, vừa xung trận. Thầy học là tổ tiên, là ông cha, là nhân
loại.” [21]
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Một số tác phẩm trong kho tàng đồ sộ mà Nguyên Hồng để lại cho nền
văn học nước nhà:
* 1936: - Đăng truyện ngắn đầu tay Linh hồn trên Tiểu thuyết thứ bảy.
* 1937: - Tiểu thuyết Bỉ vỏ được đăng tải trên các báo và được trao giải
thưởng văn chương của Tự Lực văn đoàn.
* 1938: - Tham gia vào Mặt trận dân chủ ở Hải Phòng.
- Viết cho các báo: Ngày nay; Tiểu thuyết thứ bảy; Thế giới; Người mới
ở Hà Nội; Mới, Đông Phương ở Sài Gòn.
- Hồi kí Những ngày thơ ấu được đăng nhiều kì trên Ngày nay từ số
134 (ra ngày 29/10/1938).
* 1939: - In truyện ngắn Người đàn bà Tàu (sau đổi là Một người mẹ
Trung Quốc) và một số truyện khác.
* 1940: - In Những ngày thơ ấu (Nxb Đời nay). Viết Xóm cháy nhưng
bị mất bản thảo.
* 1941: - In truyện ngắn Bảy Hựu.

* 1942: - In truyện Qua những màn tối và tiểu thuyết Cuộc sống (Nxb
Tân Dân).
* 1943: - In truyện ngắn Hai dòng sữa, tiểu thuyết Quán Nải và tiểu
thuyết Đàn chim non.
* 1944: - In truyện Vực thẳm, tiểu thuyết Hơi thở tàn.
* 1945: - In truyện vừa Ngọn lửa và truyện ngắn Miếng bánh.
* 1946: - Viết tập truyện ngắn Địa ngục và lò lửa.
- Tham gia Hội văn nghệ Việt Nam.
* 1949: - In Đất nước yêu dấu (ký).

8


* 1952: - Viết Đêm giải phóng.
- Phụ trách Trường văn nghệ nhân dân Trung Ương, Ban Văn hóa
công nhân.
* 1955: - Về làm báo tại Hải Phòng, in Giữ thóc.
* 1956: - Trở thành biên tập viên của báo Văn nghệ.
- In lại Địa ngục và lò lửa, in Giọt máu.
* 1957: - Tham gia ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam vừa thành
lập, phụ trách báo Văn.
* 1959: - Viết Sóng ngầm (trong bộ tiểu thuyết Cửa biển).
* 1960: - In tập thơ Trời xanh.
* 1961: - In Sóng ngầm.
* 1963: - Tham gia Ban vận động thành lập Chi hội văn nghệ Hải Phòng.
- In Sức sống ngòi bút.
* 1964: - Được bầu làm chủ tịch Chi hội văn nghệ Hải Phòng.
* 1967: - In Cơn bão đã đến (trong Cửa biển).
* 1971: - In Bước đường viết văn (hồi kí).
* 1972: - In Cháu gái người Mãi võ họ Hoa.

* 1973: - In Thời kì đen tối, hồi kí Một tuổi thơ văn, thơ Sông núi
quê hương.
* 1976: - In Khi đứa con ra đời (tập cuối), hoàn thành Cửa biển.
* 1978: - In hồi kí Những nhân vật ấy đã sống với tôi.
* 1981: - In Thù nhà nợ nước (tập I bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế).
* Năm 1996, ông được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật.
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, ông thuộc số ít những nhà văn
sống và viết dưới hai chế độ khác nhau, nhưng trong số ấy cũng ít ai có được
hai phần sự nghiệp cân xứng, liền mạch, có sự thống nhất về tư tưởng và

9


phong cách như ông. Hơn bốn mươi năm liên tục cầm bút, gần 5000 trang
sách đã in, còn hàng nghìn trang đang trong bản thảo, nhà văn Nguyên Hồng
đã để lại cho chúng ta bài học lớn về một nhân cách nhà văn cách mạng trong
sáng, chân tình và trung thành, một người lao động nghiêm túc và có hiệu suất
cao. Sự nghiệp văn học của Nguyên Hồng là một đóng góp lớn của nhà văn
đối với đất nước nói chung và nền văn học hiện đại Việt Nam nói riêng.
1.2. Khái quát về thể loại hồi kí trong văn học hiện đại Việt Nam
Về khái niệm hồi kí, có rất nhiều ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất
ở những điểm cơ bản: tái hiện quá khứ người thật, việc thật, tác giả chính là
người trong cuộc hoặc chứng kiến.
Cuốn từ điển Thuật ngữ văn học của tập thể tác giả: Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: “Một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại
những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc
chứng kiến”. [6, 127]
Trong Từ điển văn học (bộ mới), Lại Nguyên Ân viết: “Tác phẩm hồi kí
là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả (“tôi” tác giả, không phải “tôi” hư cấu ở

một số tiểu thuyết, truyện ngắn), kể về những sự kiện có thực trong quá khứ
mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến.” [7, 646]
Giáo sư Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học: “Cuối cùng hồi kí với
đặc điểm là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại những sự việc
trong quá khứ. Hồi kí có thể nặng về người hoặc việc, có thể theo dạng kết
cấu cốt truyện hoặc kết cấu liên tưởng”. [13, 436]
Theo Hà Minh Đức: “Hồi kí là những trang ghi chép dựa trên sự hồi
tưởng lại những sự việc đã lùi vào quá khứ. Viết hồi kí là nhằm đáp ứng
những nhu cầu hiện tại bằng những câu chuyện kể về người thật, việc thật
ngày hôm qua, do chính người kể chứng kiến hay tham gia vào sự việc”.
[4, 230]

10


Theo Lê Thị Lệ Thủy trong Hồi kí văn học của các nhà văn Việt Nam
hiện đại – nhìn từ góc độ thể loại (Luận án tiến sĩ): “Hồi kí là một dạng thức
thuộc loại hình kí. Hồi kí kể lại những sự việc xảy ra trong quá khứ mà tác giả
là người tham dự hay chứng kiến. Nội dung phản ánh trong hồi kí mang tính
xác thực cao. Đó là những sự việc và con người để lại ấn tượng sâu sắc, gắn
với những kỉ niệm riêng nhưng đồng thời tái hiện chân thực đời sống
lịch sử - xã hội và văn hóa của thời đã qua.” [23]
Hồi kí là một phương tiện hữu hiệu để người viết được tìm về quá khứ,
lắng lại tâm hồn, suy xét nhận thức, kiểm chứng về những sự việc, những kí
ức đẹp đẽ hay đau buồn, ám ảnh tâm can người cầm bút, thôi thúc được giải
tỏa trên trang viết. Viết hồi kí là cách thức hợp lí để người viết giãi bày tâm
sự, tình cảm, bộc lộ suy ngẫm của mình.
Theo giới nghiên cứu phương Tây, hồi kí được phân thành nhiều tiểu loại
nhỏ, như hồi kí của các nhà văn, hồi kí của các chính khách kể về cuộc đời
hoạt động chính trị, hồi kí của các tác giả là chứng nhân cho một sự kiện

chính trị xã hội quan trọng,…
Trở lại với cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đã đưa ra sự ra
đời của hồi kí: “Thể loại hồi kí ra đời từ rất sớm, từ thời cổ Hy Lạp. Hồi ức
của Kxênophon và Xôcrat và những ghi chép của các ông về các cuộc hành
quân của người Hi Lạp (thế kỉ thứ V trước CN) là những tác phẩm hồi kí cổ
xưa nhất” [6, 128]. Từ đó tới nay, biết bao biến cố, thăng trầm của xã hội qua
mỗi thời kì lại được ghi lại bằng hồi ức của con người. Thế giới biết đến hồi
kí của công nương nước Anh Diana, tổng thống Mỹ Kenerdy, ngoại trưởng
mỹ Hilary Clinton, hồi kí Từ ngôi sao điện ảnh đến nữ tỉ phú của Lưu Hiểu
Khánh, Dreams from My Father của Barrack Obama - tổng thống da màu đầu
tiên của Mỹ hay Long walk to freedom của Nelson Madela,…
Ở Việt Nam, so với các thể loại khác thì hồi kí xuất hiện muộn hơn.
Trong suốt mười thế kỉ văn chương trung đại Việt Nam, mặc dù có thể thấy

11


những tiền đề của hồi kí từ những tác phẩm kí sự như: Thượng kinh kí sự,
Hoàng Lê nhất thống chí,… nhưng hồi kí vẫn chưa xuất hiện với đầy đủ
những đặc điểm và quan niệm như ngày nay. Mãi đến đầu thế kỉ thứ XX, thể
loại hồi kí mới dần được hình thành và phát triển. Một số tác phẩm: Tập án
cái đình của Ngô Tất Tố, Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy tây, Làm đĩ, Cơm thầy
cơm cô, Lục xì của Vũ Trọng Phụng, Ngõ hẻm ngoại ô của Nguyễn Đình Lạp,
Tôi kéo xe của Tam Lang, Hà Nội lầm than, Làm tiền của Trọng Lang,… Như
vậy, có thể thấy hồi kí là một trong những thành tựu đáng kể về phương diện
hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Nếu thơ mới là biểu hiện sinh động của
sự cách tân thi ca thì hồi kí là thể loại văn xuôi có đóng góp quan trọng để
làm nên nét hiện đại cho diện mạo văn học dân tộc ở cuối thế kỉ thứ XX. Tuy
nhiên, phải sau Cách mạng tháng Tám hồi kí mới thực sự phát triển rực rỡ,
lên đến đỉnh cao, sánh ngang với các thể loại văn chương khác.

Trong nền văn học hiện đại, hồi kí cách mạng chiếm vị trí vô cùng quan
trọng. Đó là những hồi kí ghi lại những năm tháng đấu tranh gian khổ cho độc
lập dân tộc, là những hồi kí kể về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về chiến
thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu trấn động địa cầu, những hồi kí về
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, về những chiến sĩ cách mạng, những anh bộ đội
cụ Hồ vượt đường Trường Sơn đi cứu nước,…Có thể kể ra những hồi kí như:
Sống như anh viết về người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, Bất khuất của
Nguyễn Đức Thuận, Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến, Những năm tháng
không thể nào quên của đại tướng Võ Nguyên Giáp,….
Cùng với hồi kí về đề tài cách mạng, hồi kí văn học của các nhà văn
cũng có vị trí rất đặc biệt. Nội dung của hồi kí văn học cung cấp cho người
đọc những tư liệu về đời tư của các nhà văn như thông tin về thân thế, tiểu sử,
cuộc đời, sự nghiệp của tác giả cũng như quá trình sáng tác, con đường đưa
họ đến với văn chương, cả những suy nghĩ, tâm tư suốt cuộc đời hoạt động

12


nghệ thuật góp phần hình thành nên sự nghiệp của nhà văn, phong cách của
mỗi tác giả. Đồng thời các tác phẩm còn tái hiện lại hoàn cảnh lịch sử xã hội
mà tác giả từng trải qua, những chặng đường văn học quá khứ và những thông
tin về các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng,….
Trong thực tiễn sáng tác, hồi kí văn học của các nhà văn phát triển với
những biểu hiện rất phong phú, tạo ra nhiều nhánh, nhiều dạng, nhiều sự kết
hợp, đan xen giữa hồi kí và các thể kí khác cũng như hồi kí với các thể tự
truyện, tiểu thuyết,…Căn cứ vào một số phương diện chính như đề tài,
khuynh hướng cảm hứng, phương thức thể hiện, có thể phân loại hồi kí văn
học của các nhà văn thành hồi kí tự truyện và hồi kí chân dung văn học. Hồi
kí tự truyện, theo giáo sư Trần Đình Sử, là “một dạng tự truyện của tác giả,
cung cấp những tư liệu quá khứ mà đương thời chưa có điều kiện để nói ra

được”. Hồi kí chân dung văn học là hồi kí của các nhà văn, nhà thơ bắt nguồn
từ chính cuộc đời của họ. Qua những trang sách người đọc không chỉ biết
được những tư liệu quý giá, những bí mật về cuộc sống và thời đại của người
viết mà còn cảm nhận được tình cảm, lòng nhiệt thành, sự tâm huyết của nhà
văn. Từ năm 1975 đến nay, hồi kí văn học thực sự nở rộ. Sau 1975, chiến
tranh khép lại, đất nước bước vào giai đoạn hòa bình. Đây là giai đoạn mà đời
sống có nhiều bước chuyển mình, biến đổi, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của con
người, đặc biệt là các văn nghệ sĩ. Ý thức của con người cá nhân được tạm
gác qua một bên để hòa vào cộng đồng trong cuộc kháng chiến trường kì và
vĩ đại của dân tộc, giờ đây lại có điều kiện để thức tỉnh trở lại, trỗi dậy mạnh
mẽ khiến hồi kí văn học phát triển hơn bao giờ hết. Nhắc đến hồi kí văn học
chúng ta không thể không nhắc đến những hồi kí như Những ngày thơ ấu,
Bước đường viết văn của Nguyên Hồng; Đời viết văn của tôi của Nguyễn
Công Hoan; Cỏ dại, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Tự truyện của Tô Hoài;
Hồi kí song đôi của Huy Cận; Nhớ lại một thời của Tố Hữu; Hồi kí của Đặng

13


Thai Mai; Nhớ lại của Đào Xuân Quý; Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ
thương của Ma Văn Kháng; Mất để mà còn của Hoàng Minh Châu, Bốn mươi
năm nói láo của Vũ Bằng,…
Tố Hữu trong lời mở đầu Cùng bạn đọc yêu quý đã tâm sự: “Tôi sẽ là
một kẻ vô ơn, bất nghĩa nếu không kể lại những tấm gương trong sáng, những
công lao cao quý của đồng bào, đồng chí mà tôi được biết và mang nặng ân
tình. Vì vậy, đã đến lúc tôi cần viết một bản hồi kí về cuộc đời chúng tôi đã
sống, trong đó có cuộc đời riêng mình” [10, 6]. Còn Tô Hoài lại nói: “Tôi viết
hồi kí là khó khăn hơn cả sáng tác. Bởi đó là một cuộc đấu tranh tư tưởng để
viết ra. Nó chân thành hay dối trá, nó thanh minh hay báo công khoe khoang.
Làm thế nào cho khách quan nhất với một dụng ý về vấn đề thật rõ ràng. Đây

là một cuộc mổ xẻ toàn diện, không phải nhẹ nhàng và chỉ có cảm hứng.”
[8, 142]
Các nhà văn từ những nhu cầu khác nhau mà viết hồi kí. So với tiểu
thuyết, thơ hay truyện ngắn, hồi kí không có bề dày lịch sử tồn tại lâu dài và
khối lượng tác phẩm đồ sộ, nhưng trong nền văn học Việt Nam nói chung và
văn học hiện đại Việt Nam nói riêng hồi kí vẫn khẳng định được vị thế riêng
của mình. Hồi kí văn học như một “loại đặc sản quý hiếm trong nền văn học,
là lõi trầm kết tụ tự nhiên, không sản xuất đại trà được”. Đội ngũ sáng tác hồi
kí tuy không đông về số lượng nhưng gồm những nhà văn có tay nghề vững
vàng, có năng lực ngôn ngữ, có óc sáng tạo, có tư tưởng và phong cách nghệ
thuật độc đáo. Trong số đó, với sự nghiệp sáng tác đồ sộ, Tô Hoài, Nguyên
Hồng hoàn toàn xứng đáng ở ngôi vị hàng đầu. Nguyên Hồng là người khai
sinh và góp công sức lớn nhất vào quá trính phát triển của thể loại hồi kí văn
học trong văn học Việt Nam hiện đại. Tiếp theo, chúng ta có hàng loạt những
tên tuổi lớn với các tác phẩm tiêu biểu, mỗi người một vẻ, góp phần làm rạng
rỡ diện mạo, phong phú sắc hương cho hồi kí văn học Việt Nam hiện đại.

14


Quá trình hình thành và phát triển của thể loại hồi kí văn học là một hiện
tượng mang tính quy luật, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc với thời
đại, giữa truyền thống với cách tân, giữa phương Đông với phương Tây trong
ý thức sáng tạo của con nguời Việt Nam. Xã hội ngày càng phát triển, cùng
với sự thay đổi của kinh tế, xã hội, văn học nghệ thuật cũng có những bước
chuyển mình phù hợp. Khi những giá trị cũ cần được nhìn lại thì vai trò của
mỗi con người và của mỗi cái “tôi” sẽ được đặt đúng vị trí của nó. Chính vì
vậy hồi kí ngày càng được đánh giá cao và ngày càng có nhiều người tìm đến
hồi kí như là một phương tiện nghệ thuật hết sức cần thiết để góp phần chia
sẻ, cảm thông, an ủi, cân bằng và thanh lọc tâm hồn con người.

1.3. Hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng
Ngót nửa thế kỉ sống bằng nghề viết, Nguyên Hồng đã để lại cho chúng
ta một gia tài văn học khá dầy dặn và đặc sắc. Chiếm tỉ lệ đáng kể trong các
tập sách của Nguyên Hồng là bốn tập hồi kí: Những ngày thơ ấu, Bước đường
viết văn, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Một tuổi thơ văn. Những trang
sách ấy như là một thứ trữ tình được thể hiện bằng văn xuôi tạo hợp thành
một bức chân dung tự họa của Nguyên Hồng.
Những ngày thơ ấu chính là cuốn hồi kí đầu tay ra đời vào năm 1938,
được đăng dần trên báo Ngày nay, chuyên mục Tiểu thuyết thứ bảy, của Tự
lực văn đoàn từ số 134 ra ngày 29 tháng 10 năm 1938. Đây là tập hồi kí được
nhà văn viết khi còn rất trẻ (khoảng 20 tuổi). Có thể coi Nguyên Hồng là
người đầu tiên mở màn cho thể loại này trong văn học Việt Nam hiện đại. Có
lẽ vì thế mà lúc đầu nhà xuất bản Đời nay không để tên tác phẩm là hồi kí mà
gọi mơ hồ là tiểu thuyết. Tác phẩm này của Nguyên Hồng tuy không đồ sộ về
quy mô nhưng lại khắc sâu vào tâm trí người đọc những ấn tượng và những
niềm xúc động sâu sắc, thật đúng là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tác phẩm
chỉ gồm 9 chương:

15


Chương 1: Tiếng kèn
Chương 2: Chúa thương xót chúng con
Chương 3: Trụy lạc
Chương 4: Trong lòng mẹ
Chương 5: Đêm nô-en
Chương 6: Trong đêm đông
Chương 7: Đồng xu cái
Chương 8: Sa ngã
Chương 9: Một bước ngắn

Tập truyện đã cho người đọc thấy được hoàn cảnh gia đình cũng như cái
buổi thiếu thời long đong của tác giả. Số phận của cậu bé Hồng cũng giống
như biết bao số phận con người trong những năm tháng trước Cách mạng những người sống dưới đáy xã hội, những người nghèo, những thân phận bất
hạnh, cô đơn, những con người yếu thế nhưng bao giờ cũng cố vươn lên đấu
tranh để bảo vệ nhân phẩm của mình. Tập truyện chỉ vẹn vẹn có chín chương,
khoảng một trăm trang nhưng từng dòng, từng trang đã chạm đến trái tim của
người đọc.
Hồi kí Những ngày thơ ấu cũng là những trang viết xúc động nhất về mẹ
của Nguyên Hồng. Ngay trang đầu tiên của hồi kí in trên báo Ngày nay,
Nguyên Hồng đã viết dòng giản dị nhưng chân thành: “Kính tặng mẹ tôi”. Và
trong suốt những trang hồi kí ấy hình ảnh người mẹ dịu hiền của Nguyên
Hồng luôn được hiện lên bằng những câu từ chất đầy tình cảm và lòng yêu
thương vô bờ bến. Đôi khi người mẹ lại được nhắc đến qua những tiếng gọi
xé lòng, sự khao khát, mong muốn có được vòng tay mẹ của cậu bé Hồng:
“Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi lâu thế? Mãi không về!”; “Người ta lại
còn chửi con, chửi cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không?” [9, 50]

16


Nguyên Hồng có cách viết hồi kí rất riêng, rất khác biệt. Hồi kí của ông
không tái hiện sự kiện theo kiểu niên biểu khô cứng mà trên cái nền sự kiện,
biến cố, ông tập trung vào những điểm chính, sinh động nhất để dựng lại một
thời quá vãng đã qua. Cái mà Nguyên Hồng quan tâm hơn cả là làm sao để
thể hiện thật chính xác tâm trạng của mình trong những thời khắc khó quên
ấy. Những ngày thơ ấu là hồi kí theo dòng tâm trạng, những mốc quan trọng
là những cảm xúc khác nhau của nhà văn. Ta có thể bắt gặp những dòng cảm
xúc tinh tế khi tác giả thấy mẹ nhìn tốp lính thổi kèn đi khuất: “Và cho tới
ngày trọn đời, tôi không thể quên được cái cảm giác là lạ do một bàn tay nhỏ
nhắn run run bỗng từ đầu tượt xuống vai tôi, và một màng lành lạnh mong

manh vươn qua một cặp mắt lờ đờ nhìn vào mắt tôi chợt làm ngực tôi lạnh dợt
đi…” [9, 13]. Hay là nỗi nhớ, nỗi thèm khát tình yêu thương từ mẹ: “Tôi ngồi
trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những
cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo
mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm
tho lạ thường.” [9, 41]
Đến với Những ngày thơ ấu, ta dễ dàng nhận ra trong hồi kí là chất thơ,
chất trữ tình nổi trội lấn át chất phân tích, tự sự. Điều này xuất phát từ mạch
văn chung của Nguyên Hồng, đó là thứ văn giàu tình cảm nồng say. Văn của
Nguyên Hồng là phương tiện để nói lên nỗi lòng, để giải tỏa tâm trạng của
ông. Điều này được thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong Những ngày thơ
ấu, khiến cho tác phẩm này trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất
của Nguyên Hồng góp vào nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tác phẩm Những ngày thơ ấu, lúc đầu được viết không phải dành cho trẻ
em, đó là nỗi lòng, là sự giãi bày về một tuổi thơ không hạnh phúc của tác giả.
Nhưng thời gian trôi qua, dưới cái nhìn của người đọc, tác phẩm là sự phản
ánh tuổi thơ của cả một thế hệ lúc bấy giờ, khi Pháp tiến hành khai thác thuộc

17


địa lần thứ hai, trong xã hội rất nhiều trẻ em phải chịu cảnh cực khổ cả về vật
chất lẫn tinh thần. Chính vì thế Những này thơ ấu không còn chỉ là tác phẩm
dành cho người lớn mà ngay cả trẻ em cũng có thể đọc và say mê nó.

18


Chương 2.
NHỮNG NGÀY THƠ ẤU – CUỐN HỒI KÍ VỀ TUỔI THƠ

2.1. Bối cảnh xã hội với tuổi thơ của Nguyên Hồng
Những ngày thơ ấu viết về tuổi thơ Nguyên Hồng trong những năm 20
của thế kỉ thứ XX. Khi đó, thực dân Pháp đang tiến hành và đẩy mạnh khai
thác thuộc địa lần thứ hai. Chúng ra sức cướp đoạt ruộng đất lập đồn điền
trồng lúa, các cây công nghiệp như chè, cao su, cà phê phục vụ cho thị trường
thế giới và thị trường Pháp. Cơ cấu kinh tế Việt Nam phát triển mất cân đối:
nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ bên cạnh nền công nghiệp mỏng manh, yếu
ớt; trong công nghiệp, ngành khai thác mỏ chiếm phần lớn công việc kinh
doanh, các ngành sản xuất công nghiệp khác thì hầu như không phát triển.
Trước sự chi phối của kinh tế, ảnh hưởng của những chính sách xã hội do
chính quyền thực dân - phong kiến thi hành, xã hội Việt Nam cũng có những
chuyển biến, thay đổi. Tình hình “sinh hoạt văn hóa” có ít nhiều biến đổi và
phát triển chủ yếu ở các đô thị. Ở nông thôn, “văn hóa làng” vẫn tồn tại trong
cái sự “bần cùng hóa” và “ngu dân hóa”. Những thói hư, tật xấu được bao
che, dung dưỡng. Nạn cờ bạc không bị cấm mà còn được khuyến khích bằng
cách cho mở các sòng bạc để thu thuế. Việc uống rượu không bị hạn chế, dân
ta còn bị bắt phải uống một loại rượu cồn độ nặng do hãng rượu độc quyền
Phông ten (Fontaine) sản xuất trên khắp cả nước. Thực dân Pháp còn mở các
cơ quan thu mua và các ti bán thuốc phiện để lập quỹ cho Phủ Toàn quyền,
chính là trực tiếp khuyến khích nạn nghiện hút. Đi kèm với đó là thuế rượu và
thuế thuốc. Ở nông thôn, hủ tục ma chay cưới xin, tệ hương ẩm, nạn thù hằn
giữa các phe giáp vẫn tồn tại thêm vào đó nạn mê tín dị đoan, đồng bóng ngày
càng nặng nề. Pháp còn tranh thủ, lợi dụng tôn giáo như một thứ vũ khí để
khủng bố và mị dân. Các loại sách bói toán, tướng số, kiếm hiệp được bày bán

19


khắp nơi. Các sòng bạc, tiệm hút, nhà chứa mở ra nhan nhản ở các thành phố
để lôi kéo thanh niên vào cuộc sống trụy lạc.

Thực dân Pháp coi văn hóa là một vũ khí đắc lực phục vụ cho công cuộc
khai thác thuộc địa của mình. Chính quyền Pháp ưu tiên cho xuất bản các
sách báo phổ biến tư tưởng Âu châu, cho ra Nam Phong tạp chí thay cho
Đông Dương tạp chí; cho lập “Hội Khai trí tiến đức” tập hợp những người
thuộc các tầng lớp trên trong xã hội lúc bấy giờ. Trên tờ Nam phong tạp chí
và các báo chí thực dân, một số học giả Việt Nam thân Pháp ra sức viết bài
tán dương, tuyên truyền, ngợi ca văn minh Pháp như là nền văn minh bậc nhất
của phương Tây. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một nền văn hóa mới của dân tộc
cũng đang trên đường hình thành và phát triển mạnh mẽ. Sau chiến tranh thế
giới thứ nhất, văn học mới đã chiếm được ưu thế trên văn đàn và đã được
công chúng thành thị đón nhận với tấm lòng ưu ái. Nhiều tiểu thuyết, truyện
ngắn, kịch, thơ ra đời nhằm mục đích phê phán tình trạng thối nát của xã hội
đương thời và nêu lên những xung đột giữa các quan điểm phong kiến và tư
tưởng tư sản mới nảy sinh. Đồng thời đả kích những kẻ trưởng giả học đòi
làm sang, phơi bày những cảnh lầm than, khốn khổ của quần chúng lao động
bị bọn thực dân, địa chủ, quan lại ức hiếp, bóc lột và nói lên tình cảm yêu
nước thương nòi và sự bất lực chán chường của tầng lướp tiểu tư sản thành thị
trước thời cuộc.
Nguyên Hồng sinh ra tại thành Nam (nay là thành phố Nam Định), là
một trong những thành phố đầu tiên được Pháp công nhận ở Bắc Kì. Thành
Nam thuở bấy giờ là một trong những thành phố phồn hoa bậc nhất. Nếu
thành Hà Nội có 36 phố cổ nổi tiếng thì thành Nam cũng có đến hơn 40 phố
phường: bên bờ sông Vị Hoàng những người buôn bè tụ tập về đây lập thành
phố Hàng Cót, Hàng Nâu; người Bát Tràng Gia Lâm đưa hàng xuống lập
thành phố Hàng Bát, Hàng Mâm, hàng Song; phía bên trên có phố Hàng Sắt,

20



×