Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Con đường tơ lụa trên biển thế kỉ XXI của trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 83 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

======

NGUYỄN THỊ THU THỦY

CON ĐƢỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN
THẾ KỈ XXI CỦA TRUNG QUỐC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy giáo, Cô giáo trong
KHOA LỊCH SỬ
khoa Lịch sử, trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền

======

đạt kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trƣờng cũng
nhƣ trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Ths.Nguyễn Văn Vinh đã
NGUYỄN THỊ THU THỦY

tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện
khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những ngƣời



CON ĐƢỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN

thân đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho em hoàn thành tốt khóa luận của
mình.

THẾ KỈ XXI CỦA TRUNG QUỐC

Em xin chân thành cảm ơn!

Ngƣời thực hiện

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch Nguyễn
sử Thế Thị
giớiThu Thủy
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. NGUYỄN VĂN VINH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI của Trung
Quốc” đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn tận tình của Thầy giáo Nguyễn
Văn Vinh.
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em,
không trùng lặp với bất kì kết quả nghiên cứu của tác giả nào khác. Những kết
quả thu đƣợc là hoàn toàn chân thực. Nếu sai em xin chịu trách nhiệm.

Ngƣời thực hiện

Nguyễn Thị Thu Thủy


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

1

Tên

Tên

Tên

viết tắt

Tiếng anh

Tiếng việt

ASEAN

Association of South East Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á

Asia Nationl
2


3

AIIB

OBOR

Asian

Infrastructure Ngân hàng đầu tƣ hạ

Investment Bank

tầng châu Á

One belt, one road

Một vành đai, một con
đƣờng

4

SREB

Silk Road Economic Belt

Vanh đai kinh tế con
đƣờng tơ lụa

5


MSR

Marintime Silk Road

Con đƣờng tơ lụa trên
biển thế kỉ XXI

6

ADB

Asian Development Bank

Ngân hàng phát triển
châu Á


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................. 3
3.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 3
3.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .............................................. 4
4.1. Nguồn tài liệu ..................................................................................... 4
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu.................................................................... 4
5. Đóng góp của đề tài................................................................................... 4

5.1.Về phƣơng diện khoa học ................................................................... 4
5.2. Về phƣơng diện thực tiễn ................................................................... 5
6. Bố cục........................................................................................................ 5
CHƢƠNG 1: ..................................................................................................... 6
NHÂN TỐ THÚC ĐẨY TRUNG QUỐC XÂY DỰNG.................................. 6
CON ĐƢỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỈ XXI ....................................... 6
1.1. Nhân tố khách quan ................................................................................ 6
1.1.1. Chiến lƣợc “xoay trục” của Mỹ ...................................................... 6
1.1.2. Ảnh hƣởng của Ấn Độ tại Ấn Độ Dƣơng ..................................... 10
1.2. Nhân tố chủ quan ................................................................................. 12


1.2.1.Tình hình Trung Quốc.................................................................... 12
1.2.2. Tham vọng thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”............................ 15
1.3. Ý tƣởng về xây dựng Con đƣờng tơ trên biển thế kỉ XXI ................... 17
Tiểu kết ............................................................................................................ 20
Chƣơng 2: ........................................................................................................ 21
TRUNG QUỐC THIẾT LẬP CON ĐƢỜNG TƠ LỤA ................................. 21
TRÊN BIỂN THẾ KỈ XXI .............................................................................. 21
2.1. Mục tiêu và nội dung Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI ............. 21
2.1.1. Mục tiêu chiến lƣợc....................................................................... 21
2.1.2. Nội dung chiến lƣợc ...................................................................... 23
2.2. Khả năng thực thi và triển vọng ........................................................... 36
2.3. Quá tình triển khai sáng kiến Con đƣờng tơ lụa thế kỷ XXI ............... 39
2.3.1.Triển khai sáng kiến trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao ............ 39
2.3.2. Triển khai sáng kiến trong lĩnh vực đầu tƣ cơ sở hạ tầng ............. 42
2.3.3. Triển khai sáng kiến trong lĩnh vực tài chính ............................... 54
2.4. Tác động Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỷ XXI đối với Việt Nam .. 57
Tiểu kết ............................................................................................................ 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 67
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn chƣa thoát khỏi cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu, chủ nghĩa bảo hộ và xu hƣớng đi ngƣợc toàn cầu hóa đang
nổi lên. Chính vì thế việc một sáng kiến đang mang lại những cơ hội hợp tác,
liên kết và kết nối khu vực với quy mô lớn sẽ nhận đƣợc sự quan tấm lớn của
thế giới.
Từ Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2012) đến nay,
lãnh đạo cấp cao Trung Quốc do Chủ tịch Tập Cận Bình đứng đầu đã khởi
xƣớng nhiều sáng kiến có quy mô lớn. Trong đó, sáng kiến “Một vành đai,
một con đƣờng” có vị trí và vai trò nổi bật trong chính sách của Trung Quốc,
đƣợc lãnh đạo cấp cao trực tiếp công bố và chỉ đạo. Sáng kiến này gồm hai
phần là: “Vành đai kinh tế con đƣờng tơ lụa” đƣợc Chủ tịch Tập Cận Bình lần
đầu nêu ra tại Kazakhstan vào tháng 9/2013 và “Con đƣờng tơ lụa trên biển
thế kỷ XXI” đƣợc công bố tại Hạ viện Indonesia vào tháng 10/2013. Nội dung
cơ bản của sáng kiến này là những dự án hợp tác giữa các nƣớc trong việc kết
nối mạng lƣới giao thông, nhằm mở ra những tuyến đƣờng nối Thái Bình
Dƣơng với biển Ban-tích và các vùng biển khác, đồng thời liên kết các khu
vực Đông, Tây và Nam Á. Với quy mô lớn hơn tất cả các sáng kiến khác, bao
trùm nhiều lĩnh vực, “Một vành đai, một con đƣờng” là công cụ thực hiện các
mục tiêu phát triển và tăng cƣờng vị thế của Trung Quốc với tầm nhìn dài
hạn.
Con đƣờng tơ lụa trong lịch sử từng là huyết mạch buôn bán, giao
thƣơng thời cổ đại, từng đƣợc coi là cầu nối văn minh Đông Tây. Hiện nay,
sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” không chỉ nhằm tái hiện
lịch sử hay kết nối giao thông, thƣơng mại, mà có mục đích chủ yếu là mở

rộng địa bàn ảnh hƣởng, tăng cƣờng vị thế của Trung Quốc trong nhiều lĩnh

1


vực và nhiều khu vực khác nhau. Quy mô và cách thức triển khai sáng kiến
này cho thấy “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” có khả năng tạo ra
bƣớc đột phá về ƣu thế của Trung Quốc cả về chính trị, an ninh, kinh tế và
văn hóa.
Xuất phát từ những lí do trên, tác giả chọn đề tài “Con đường tơ lụa
trên biển thế kỉ XXI của Trung Quốc” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” nằm trong sáng
kiến “Một vành đai, một con đƣờng” đã thu hút sự quan tâm, chú ý của giới
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, do quá trình triển khai sáng kiến
còn đang ở giai đoạn vận động tham gia, nên chƣa có những công trình
nghiên cứu một cách tổng thể, hệ thống về vấn đề này. Các tài liệu tham khảo
đa số là các chuyên đề phân tích và các bài báo khoa học. Cụ thể là Viện
nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cũng
đã xuất bản các bài báo khoa học nhƣ “Bàn về chiến lược con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ XXI của Trung Quốc” (Đức Cẩn - Phƣơng Nguyễn), “Một
vành đai, một con đường - Nấc thang mới trong cạnh tranh chiến lược Trung
- Mỹ” (Hoàng Huệ Anh) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc hay
“Chiến lược con đường tơ lụa mới của Trung Quốc” (Trần Ngọc Sơn) đăng
trên Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam. Những nghiên cứu này trình bày một
số nghiên cứu bƣớc đầu về sáng kiến của Trung Quốc, cũng nhƣ đánh giá
những tác động mà “ Một vành đai, một con đƣờng” nói chung và “Con
đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” riêng đem lại. Bên cạnh đó, một số tác giả
khác tập trung phân tích tiền đề và cơ sở hoạch định sáng kiến. Có thể kể đến
các bài viết nhƣ “Vấn đề Biển Đông trong cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ”

(TS. Nguyễn Đình Liêm), “Xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc:
Lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm” (Hoài Nam) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

2


Trung Quốc, cùng với một số bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông
Bắc Á nhƣ “Một số nhân tố bên trong tác động đến quá trình hoạch định
chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay” (TS. Trần Thọ Quang) hay
“Chiến lược đối ngoại của Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình” (Trƣơng
Xuân Định). Ngoài ra, chƣơng trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc (VECS)
thuộc Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế, Đại
học Quốc Gia Hà Nội đã tổ chức chuỗi seminar về Nghiên cứu Kinh tế và
Chiến lƣợc Trung Quốc. Trong đó, Viện đã đƣa ra hai báo cáo với chủ đề
“Hai con đường tơ lụa mới của Trung Quốc: Các mục tiêu kinh tế và chiến
lược” của TS. Phạm Sỹ Thành, Giám đốc VECS, và “Con đường tơ lụa hai
trục mới của Trung Quốc: Ba cách tiếp cận và một góc nhìn” với diễn giả là
TS. Trƣơng Minh Huy Vũ, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh (SCIS). Tuy nhiên, hiện nay
chƣa có nhiều bài viết xem xét riêng về sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển
thế kỉ XXI” vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối các nƣớc nằm trong phạm vi
triển khai sáng kiến. Do đó, chúng tôi hy vọng sẽ mang đến cách tiếp cận và
những đánh giá, nhận xét mới về chủ để này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ sự hình thành và quá trình triển khai của sáng
kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” của Trung Quốc. Qua đó đánh
giá tầm quan trọng của sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” của
Trung Quốc trong bối cảnh thế kỉ XXI.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung làm nổi bật những vấn đề sau:
- Xác định các nhân tố hình thành sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển
thế kỉ XXI” của Trung Quốc.

3


- Qúa trình thực hiện sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI”
của Trung Quốc.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỷ
XXI” của Trung Quốc.
Đối với phạm vi nghiên cứu:
* Về mặt thời gian
Đề tài đƣợc xem xét trong giai đoạn từ khi Trung Quốc bắt đầu đề xuất
sáng kiến vào năm 2013 đến năm 2016.
*Về mặt không gian
Phạm vi nghiên cứu là Con đƣờng tơ lụa trên biển.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
- Tài liệu chuyên khảo có nội dung phản ánh về con đƣờng tơ lụa
- Các bài báo, tạp chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử: đƣợc sử dụng để giải thích cơ sở hình
thành sáng kiến và chính sách của Trung Quốc.
Phƣơng pháp tổng hợp - phân tích sự kiện nhằm xem xét các sự kiện
theo trình tự thời gian và hệ thống hóa để tìm ra mối quan hệ giữa các sự kiện
đó.
5. Đóng góp của đề tài
5.1.Về phương diện khoa học

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học, ngƣời viết đã tập hợp và
xử lý các nguồn tƣ liệu ít nhiều liên quan đến đề tài nghiên cứu. Hi vọng đây
sẽ là một đóng góp nhỏ về mặt tƣ liệu cho các nghiên cứu kinh tế thế giới nói
chung.

4


5.2. Về phương diện thực tiễn
Qua tìm hiểu và đánh giá về sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ
XXI” của Trung Quốc. Nghiên cứu có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham
khảo để hỗ trợ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về chính sách của Trung
Quốc. Đồng thời, nghiên cứu giúp chúng ta có thể tham khảo khi giảng dạy,
mở rộng nội dung kiến thức cho học sinh.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài đƣợc chia là 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Nhân tố thúc đẩy Trung Quốc xây dựng Con đƣờng tơ
lụa trên biển thế kỉ XXI
Chƣơng 2: Trung Quốc thiết lập con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ
XXI

5


CHƢƠNG 1:
NHÂN TỐ THÚC ĐẨY TRUNG QUỐC XÂY DỰNG
CON ĐƢỜNG TƠ LỤA TRÊN BIỂN THẾ KỈ XXI
1.1. Nhân tố khách quan
1.1.1. Chiến lược “xoay trục” của Mỹ
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 đã thúc đẩy cuộc “khủng

hoảng kép” về sức mạnh kinh tế và vị thế đối ngoại của Mỹ trên thế giới, và
cũng chính là thời điểm Trung Quốc vƣợt ra khỏi chiến lƣợc “ẩn mình chờ
thời” của Đặng Tiểu Bình để vƣơn lên khẳng định vị trí cƣờng quốc thế giới,
cạnh tranh trực tiếp với Mỹ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ thách thức quyền
lãnh đạo của Mỹ. Do đó, Mỹ buộc phải điều chỉnh chính sách đối với các khu
vực trên thế giới. Sự điều chỉnh bắt đầu ngay từ năm đầu của chính quyền
Obama, từng bƣớc định hình cùng với quá trình điều chỉnh lại các ƣu tiên đối
ngoại quốc gia cũng nhƣ chiến lƣợc toàn cầu của Mỹ.
Mỹ tỏ ra quan tâm hơn tới sự cải thiện lực lƣợng hải quân của Trung
Quốc trong khu vực. Đây cũng có thể trở thành mối lo ngại với chính quyền
Mỹ. Do vậy, đã có nhiều ý kiến cho rằng chính sách “không can dự” của Mỹ
không còn hoàn toàn bảo vệ lợi ích của Mỹ tại Biển Đông trƣớc những hành
động thể hiện sự leo thang trong tham vọng của Trung Quốc nhƣ việc lần đầu
tiên công khai tuyên bố bản đồ 9 đoạn (đƣờng lƣỡi bò) vào ngày 7/5/2009;
trong đó việc mô tả Biển Đông nhƣ một trong các mối quan tâm chủ đạo
thuộc loại “lợi ích cốt lõi” bên cạnh Đài Loan và Tây Tạng cũng nhƣ hàng
loạt hành động cứng rắn, gay hấn quyết liệt đối với Việt Nam và Philippines.
Các tuyên bố của Trung Quốc tại Biển Đông, cùng việc gia tăng ngân
sách quân sự của Trung Quốc song song với các hoạt động kinh tế và quân sự
để khẳng định chủ quyền của mình trong khi phủ nhận chủ quyền của các
nƣớc khác, khiến Mỹ lo ngại. Mỹ nhận ra rằng nếu chấp nhận việc Trung

6


Quốc kiểm soát đƣợc Biển Đông sẽ đồng nghĩa với việc Mỹ bị đẩy ra khỏi
vùng biển Đông Nam Á. Nhƣ vậy vai trò của Mỹ nhƣ một cƣờng quốc hàng
hải, một quốc gia “Thái Bình Dƣơng” sẽ bị suy yếu nghiêm trọng. Chính
quyền Obama thể hiện rõ quan điểm không can dự vào tranh chấp Biển Đông,
nhƣng sẽ không để cho quốc gia nào nổi lên khống chế Biển Đông, đe dọa

đến lợi ích của Mỹ. Nhiều chính khách cho rằng Mỹ cần can thiệp sâu hơn
vào khu vực này và lên thay đổi từ “không can dự tới can dự một phần” trong
chính sánh đối ngoại với các nƣớc ven biển và ASEAN (Association of East
Asia Nation) tại Biển Đông.
Nhìn chung, lập trƣờng, quan điểm của chính quyền Obama về vấn đề
tranh chấp Biển Đông đƣợc thể hiện rõ trong Tuyên bố Hà Nội của Ngoại
trƣởng Mỹ Hillary Clinton tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) ngày
24/7/2010. Ngoại trƣởng Mỹ khẳng định rõ: “Mỹ, như mọi quốc gia, có lợi
ích quốc gia trong việc tự do thông thương hàng hải, tự do đi vào vùng biển
chung của châu Á, và tôn trong luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi
chia sẻ những lợi ích không chỉ với các nước thành viên ASEAN hoặc với
những người tham dự ARF, mà còn với các quốc gia gần biển khác và cộng
đồng quốc tế rộng lớn hơn. Việc chấm dứt những bất đồng ở Biển Đông là
vấn đề then chốt đối với sự ổn định của khu vực”[37].
Trên cơ sở có kế thừa nhận thức của các chính quyền Mỹ qua nhiều giai
đoạn về lợi ích của Biển Đông, chính quyền Obama đã có nhiều động thái
mạnh mẽ và tích cực bày tỏ quan điểm muốn Biển Đông luôn là vùng biển
quốc tế, nhằm đảm bảo tự do hàng hải, vừa góp phần tích cực trong việc duy
trì các lợi ích lâu dài của Mỹ, vừa để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Vấn đề tranh chấp Biển Đông, Mỹ không ủng hộ bất cứ bên nào đòi chủ
quyền tại vùng biển ngay cả với đồng minh của Mỹ là Philippines. Mỹ sẽ
phản đối bất cứ bên nào đòi quyền sở hữu toàn bộ khu vực này thông qua các

7


biện pháp không hòa bình và không tuân theo các công ƣớc quốc tế. Mỹ
muốn thể hiện vai trò trung gian với các bên tranh chấp, đặc biệt là muốn
tham gia vào vấn đề tranh chấp nhƣ một “lực lượng cân bằng với một Trung
Quốc có tiềm năng quân sự áp đảo đối với các nước đòi chủ quyền khác trong

ASEAN”[38].
Chính sách của Mỹ trong thời kì Tổng thống Obama cầm quyền cho
thấy nƣớc Mỹ đã chuyển từ chính sách ít quan tâm trƣớc đây sang tích cực
quan tâm và tích cực thúc đẩy vấn đề Biển Đông theo hƣớng quốc tế hóa,
đồng thời gửi đi một thông điệp đó là nƣớc Mỹ sẵn sàng trở thành một lực
lƣợng duy trì an ninh, ổn định tại Biển Đông, cũng nhƣ toàn bộ khu vực châu
Á – Thái Bình Dƣơng. Mỹ thể hiện quan điểm của mình trong việc ngăn chặn
các xung đột quân sự, tăng cƣờng các cuộc đối thoại, hoạt động ngoại giao
giữa các bên tranh chấp có thể sẽ làm cho tình hình Biển Đông hòa dịu, khả
năng hợp tác và phát triển.
Sự hiện diện ở Trung Đông và Afghanistan một thời gian dài trong cuộc
chiến chống khủng bố, dƣới thời kì cầm quyền của tổng thống Obama, Mỹ đã
“chuyển trọng tâm‟‟ sang châu Á. Chính sách của Mỹ đối với khu vực châu Á
– Thái Bình Dƣơng đã có những điểu chỉnh đáng kể, bằng chứng là Mỹ đã
thắt chặt quan hệ với nhiều nƣớc Đông Á, trong đó chú trọng các nƣớc ở
Đông Nam Á; đẩy mạnh các nỗ lực ngoại giao, xây dựng ảnh hƣởng ; tăng
cƣờng hiện diện cả về quân sự lẫn kinh tế tại khu vực này … Việc Mỹ tham
gia Hiệp ƣớc Thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (TAC) mở đƣờng cho việc
Mỹ đƣợc mời làm thành viên chính thức của hội nghị Thƣợng đỉnh Đông Á
(EAS) trong kì họp tại Hà Nội năm 2010 cho thấy rõ sự vận động chiển lƣợc
này của Washington.
Biển Đông trở thành trọng tâm trong chiến lƣợc “tái cân bằng châu Á”
của chính quyền Obama. Mỹ can dự sâu hơn ở châu Á – Thái Bình Dƣơng

8


thông qua việc tăng số lƣợng các cuộc viếng thăm khu vực của Tổng thống,
Ngoại trƣởng, Bộ trƣởng Quốc phòng và các quan chức cấp cao khác. Có thể
nói, ngay khi vừa lên cầm quyền (2009), khu vực Đôngrg Nam Á đƣợc chính

quyền Obama quan tâm đặc biệt. Để tăng thêm sự gắn bó với các quốc gia ở
Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc gia ASEAN, Mỹ đã gia nhập Hiệp ƣớc
Thân thiện và Hợp tác (TAC) với các quốc gia ASEAN vào tháng 7/2009.
Nhƣ vậy, sau nhiều năm trì hoãn, Mỹ đã trở thành quốc gia thứ 16 ký Hiệp
ƣớc Thân thiện và Hợp tác (TAC) với ASEAN, cam kết giải quyết hòa bình
các tranh chấp khu vực. Đây đƣợc xem là một cam kết đầu tiên của chính
quyền Obama đối với khu vực Đông Nam Á, trong đó đặc biệt là khu vực
Biển Đông.
Để thể hiện vai trò lãnh đạo của Mỹ ở khu vực Mỹ tiếp tục duy trì mối
quan hệ liên minh quân sự với Philippines, Thái Lan, cùng với Inđônêxia và
Malaysia ký hiệp định sử dụng các công trình quân sự của các nƣớc này. Mặt
khác, Mỹ gia sức đáp ứng đầy đủ những nhu cầu lợi ích hiện thực của các
nƣớc Đông Nam Á, hỗ trợ về các mặt trang thiết bị vũ khí, kỹ thuật, thông tin
cho các nƣớc này.
Mỹ ngày càng tích cực đẩy mạnh quan hệ hợp tác quân sự tại Đông
Nam Á với các liên minh, mở rộng và làm sâu sắc thêm liên minh an ninh
song phƣơng hiện có, đồng thời xây dựng hệ thống an ninh đa phƣơng. Bên
cạnh đó là sự gia tăng can dự và kiểm soát của Mỹ ở eo biển Malacca và khu
vực Biển Đông. Điều này đƣợc thể hiện bằng việc Mỹ đƣa ra hàng loạt các
sáng kiến mới nhƣ ; “Sáng kiến an ninh Container” (CSI), “Sáng kiến an ninh
hàng hải khu vực” (RMSI), “Hiệp ƣớc trợ giúp hậu cần” (ACSA) với một số
nƣớc ASEAN… Cùng với những hành dộng trên, Mỹ trở lên chú tâm hơn đối
với vấn đề tranh chấp Biển Đông. Điều này đƣợc thể hiện bằng việc tăng tần

9


số các cuộc tập trận chung trên Biển Đông và điều quân số nhiều hơn đến đồn
trú tại khu vực này.
Điểm mới nổi bật trong cục diện thế giới và châu Á - Thái Bình Dƣơng

là chính sách tái cân bằng của Mỹ (hay còn gọi là “xoay trục”). Hiện nay, Mỹ
vẫn tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo thế giới và đẩy mạnh sự can dự trên
phạm vi toàn cầu. Từ năm 2011, Mỹ đã thực hiện chiến lƣợc “xoay trục” từ
Đại Tây Dƣơng sang châu Á - Thái Bình Dƣơng. Trung Quốc nhận thức rằng
chính sách tái cân bằng có thể đe dọa, thách thức địa vị lãnh đạo khu vực,
đồng thời cản trở Trung Quốc vƣơn tới vai trò lãnh đạo toàn cầu. Chiến lƣợc
của Mỹ đánh dấu sự chuyển dịch trung tâm quyền lực của thế giới từ Tây
sang Đông, thu hút sự chú ý của tất cả các nƣớc vào khu vực châu Á - Thái
Bình Dƣơng. Đây là khu vực mà Trung Quốc có lợi ích sát sƣờn, vì vậy buộc
phải có những chính sách tƣơng ứng để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sáng kiến
“Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” là một phần quan trọng trong tổng
thể chiến lƣợc của Trung Quốc nhằm đối trọng với chính sách tái cân bằng
của Mỹ.
1.1.2. Ảnh hưởng của Ấn Độ tại Ấn Độ Dương
Ngày càng có nhiều nhận định từ giới quan sát quốc tế về Ấn Độ nhƣ là
một siêu cƣờng tƣơng lai. Ấn Độ cũng đƣợc dự đoán sẽ vƣợt Trung Quốc, trở
thành quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 2024 và vƣợt Nhật Bản trở
thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 2030. Về quân sự, Ấn Độ là
một trong chín quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có lực lƣợng quân đội
đông thứ hai thế giới. Không nhƣ Trung Quốc, sự trỗi dậy của Ấn Độ lại đƣợc
các nƣớc Phƣơng Tây đón nhận một cách tích cực, vì cho rằng một nƣớc dân
chủ Ấn Độ chính là minh chứng rõ nhất rằng chế độ chuyên quyền không
phải là hình thức duy nhất có thể quản trị hơn một tỉ ngƣời cùng lúc đem lại
thịnh vƣợng và phát triển.

10


Ấn Độ là nƣớc có diện tích lớn nhất ở Nam Á. Tuy nhiên Ấn Độ khá
biệt lập trong giao thƣơng đƣờng bộ do vùng biên giới phía bắc địa hình hiểm

trở. Chính vì vậy không quá bất ngờ khi giá trị thƣơng mại của Ấn Độ đều
đến từ Ấn Độ Dƣơng. Ấn Độ Dƣơng là khu vực có các tuyến đƣờng hàng hải
vận chuyển hàng hóa và dầu mỏ thế giới. Thế giới đang bƣớc vào kỷ nguyên
địa năng lƣợng, trong đó an ninh năng lƣợng sẽ tạo điều kiện cho mối quan hệ
của các nƣớc và có thể dẫn đến việc cơ cấu lại hệ thống quyền lực thế giới.
Nƣớc nào giành đƣợc vị trí quan trọng ở Ấn Độ Dƣơng sẽ có khả năng kiểm
soát nguồn năng lƣợng không chỉ đổ đến Đông Á mà cả các khu vực khác.
Với vị trí địa lý của mình, Ấn Độ có thể đóng vai trò là lực lƣợng duy trì sự
ổn định tại Ấn Độ Dƣơng.
Do tranh chấp biên giới với hai nƣớc láng giềng là Pakistan và Trung
Quốc, Ấn Độ đã tích cực tìm kiếm đối tác an ninh và thƣơng mại ở khu vực
Đông Á mà tiêu biểu là Nhật Bản ở phía Bắc và khối ASEAN ở phía Nam.
Nhật Bản và Ấn Độ đã phát triển mối quan hệ đối tác quân sự gần gũi gần hai
thập kỷ với những thoả thuận cụ thể về chia sẻ thông tin, chuyển giao công
nghệ và duy trì các cuộc tập trận chung quy mô lớn.
Ấn Độ tăng cƣờng đầu tƣ lớn vào cơ sở hạ tầng kết nối nƣớc này với
Đông Nam Á, đặc biệt là Đông Nam Á lục địa. Các dự án nhƣ Đƣờng cao tốc
Ấn Độ - Myanmar - Thái Lan cùng với Hành lang kinh tế Đông - Tây và
Hành lang kinh tế phía Nam sẽ kết nối Đà Nẵng, TP.HCM, Phnom Penh,
Bangkok với Yangon và New Delhi thúc đẩy thƣơng mại, phát triển kinh tế,
văn hoá và quốc phòng trong khu vực. Việc lãnh đạo của cả mƣời nƣớc
ASEAN đều có mặt tại Ấn Độ tham dự lễ kỷ niệm Ngày Cộng hoà
26/01/2018 là sự kiện chƣa từng có và đánh dấu bƣớc tiến mới trong quan hệ
hợp tác xuyên Á và chiến lƣợc Ấn Độ Dƣơng - Thái Bình Dƣơng. Ấn Độ có
ảnh hƣởng tại Ấn Độ Dƣơng và ngày càng có những bƣớc tiến mới trong

11


quan hệ hợp tác xuyên Á, vì vậy Trung Quốc buộc phải có những chính sách

tƣơng ứng phù hợp. Sáng kiến “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” là một
phần quan trọng trong tổng thể chiến lƣợc của Trung Quốc nhằm tăng cƣờng
mở rộng ảnh hƣởng tại Ấn Độ Dƣơng.
1.2. Nhân tố chủ quan
1.2.1.Tình hình Trung Quốc
Tính đến nay, Trung Quốc đã trải qua bốn thế hệ lãnh đạo với những
lãnh đạo cao nhất bao gồm Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch
Dân và Hồ Cẩm Đào. Năm 2012, Đại hội Đảng lần thứ XVIII Đảng Cộng sản
Trung Quốc đánh dấu sự khởi đầu cho một thế hệ lãnh đạo mới của Trung
Quốc, hay còn gọi là thế hệ lãnh đạo thứ năm, với Tập Cận Bình vừa là Tổng
Bí thƣ, vừa là Chủ tịch nƣớc của thế hệ này. Quá trình lịch sử cho thấy sự tiếp
nối liên tục giữa các thế hệ lãnh đạo, mỗi thế hệ có những hạt nhân điển hình,
trở thành đặc trƣng của nền chính trị Trung Quốc. Dƣới góc độ đối ngoại, dù
thế hệ lãnh đạo nào, ai làm hạt nhân thì đều có chung quan điểm nhất quán về
cơ chế, mục tiêu, cách thức triển khai đƣờng lối đối ngoại nhất định, tạo thành
bản sắc của nền ngoại giao Trung Quốc.
Con đƣờng tơ lụa trên biển biển thế kỉ XXI đƣợc đề cập và hiện thực
hóa trong bối cảnh lãnh đạo thế hệ thứ năm của Trung Quốc đang tìm cách
đƣa ra những chính sách đối nội và đối ngoại và kế hoạch phát triển mới. Mục
tiêu trƣớc mắt là nhằm tìm ra những cơ hội để thúc đẩy để thúc đẩy Trung
Quốc bƣớc vào nhịp tăng trƣởng mới, tạo cơ sở phục vụ mục tiêu trỗi dẫy
“phục hƣng Trung Hoa”, đƣa Trung Quốc trở lại vị thế cƣờng quốc vốn có
trong lịch sử.
Sau 30 năm cải cách và mở cửa với tốc độ phát triển nhanh, Trung Quốc
đã bƣớc vào giai đoạn phát triển công nghiệp và đô thị hóa, đạt mức thu nhập
trung bình, vai trò và vị thế của quốc gia đƣợc tăng, từng bƣớc có đƣợc tiếng

12



nói trong việc định hình các khuôn khổ, quy tắc kinh tế, văn hóa, chính trị của
khu vực thế giới.
Tốc độ phát triển nhanh, vai trò và vị thế ngày càng tăng Trung Quốc
không tránh khỏi việc gặp phải những khó khăn. Trung Quốc đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề có tính cơ cấu và mô hình tăng trƣởng gồm các vấn đề
cạn kiệt các nguồn tài nguyên, các thách thức về an ninh năng lƣợng, môi
trƣờng, việc chuyển đổi mô hình kinh tế cho mục tiêu phát triển bền vững và
toàn diện. Tình hình này đã buộc Trung Quốc phải có các bƣớc thử nghiệm
nhằm tìm ra hƣớng phát triển mới, đƣa quá trình cải cách kinh tế của Trung
Quốc bƣớc vào giai đoạn vƣợt qua các nút thắt bế tắc mang lại tính hệ thống.
Điều này cũng đòi hỏi Trung Quốc phải có các chiến lƣợc để tận dụng hiệu
quả và toàn diện đối với biển và đại dƣơng để hỗ trợ phát triển kinh tế .
Trung Quốc cho rằng việc tiến hành xây dựng Con đƣờng tơ lụa trên
biển thế kỉ XXI mang ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa chính trị, xã hội rất cao.
Trƣớc đây, Con đƣờng tơ lụa trên biển từng là cầu nối kinh tế, văn hóa, chính
trị giữa Trung Quốc với Châu Á, Châu Âu, và là bƣớc phát triển từ lục địa ra
biển của Trung Quốc [58]. Hiện nay, việc tiếp tục chính sách mậu dịch và
thƣơng mại mở cửa cổ vũ cho các hợp tác kinh tế không chỉ làm hồi sinh Con
đƣờng tơ lụa trên biển vốn có, mà còn thể hiện những phát triển về chính trị ,
xã hội mới của Trung Quốc.
Từ góc độ chính sách chính trị, kinh tế - xã hội, Con đƣờng tơ lụa trên
biển thế kỷ XXI của Trung Quốc là sự kết hợp bởi cả nhân tố cung và cầu
chính sách, theo đó các hoạt động giao thƣơng biển, hợp tác biển với sự hỗ trợ
của các nguồn không chính thức sẽ giúp thúc đẩy chính sách quốc gia của
Trung Quốc, góp phần tạo ra một cơ chế ứng phó với các cạnh tranh quốc tế
nhằm duy trì khả năng phát triển bền vững cho Trung Quốc trong giai đoạn
mới [58].

13



Kể từ Đại hội XVIII Trung Quốc đặc biệt đầu tƣ vào việc xây dựng vai
trò cƣờng quốc khu vực và thế giới. Có thể coi Con đƣờng tơ lụa trên biển thế
kỷ XXI là một công cụ để Trung Quốc tiến hành việc triển khai và thực hành
một loạt chính sách đối ngoại mới trong đó có chính sách ngoại giao láng
giềng, vấn đề Biển Đông, gắn với hai mục tiêu một trăm năm của Trung
Quốc.
Xây dựng thành công xã hội toàn diện vào năm 2021 và phấn đấu thực
hiện thành công mục tiêu “phục hƣng Trung Hoa” vào năm 2049 là hai mục
tiêu trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài đƣợc thế hệ lãnh đạo thứ năm và sắp tới là thế
hệ thứ sáu của Trung Quốc đang nỗ lục phấn đấu thực hiện. Để thực hiện hai
mục tiêu này Trung Quốc cần các công cụ khác nhau, trong đó có Con đƣờng
tơ lụa trên biển thế kỉ XXI nhằm thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, xử lý vấn đề an
ninh, đồng thời mở rộng ảnh hƣởng trong khu vực và trên thế giới.
Trƣớc mắt, việc xây dựng Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI sẽ góp
phần giúp Trung Quốc tạo ra các cơ hội cho việc thực hiện đƣợc mục tiêu một
trăm năm thứ nhất. Đó là việc duy trì tăng trƣởng kinh tế ổn định, mở ra các
hợp tác về xây dựng hạ tầng, năng lực sản xuất, mậu dịch quốc tế, lƣu thông
thuận lợi. Chiến lƣợc còn nhằm góp phần biến Trung Quốc trở thành cƣờng
quốc thƣơng mại, cƣờng quốc đầu tƣ nƣớc ngoài trực tiếp, cũng nhƣ khai
thông các nguồn nội lực để Trung Quốc có thể chuyển đổi mô hình phát triển
kinh tế, bƣớc sang gai đoạn phát triển bền vững, hƣớng tới mục tiêu xã hội
toàn diện, đƣa Trung Quốc vƣợt qua Mỹ để trở thành siêu cƣờng số một thế
giới.

14


1.2.2. Tham vọng thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”
Trung Quốc quyết tâm tiếp tục trỗi dậy, thể hiện rõ tham vọng cƣờng

quốc không chỉ ở khu vực, mà ở mức độ toàn cầu. Lãnh đạo Trung Quốc đã
đƣa ra một loạt định hƣớng mới, mà trƣớc tiên phải kể đến "Giấc mộng Trung
Hoa" do Tập Cận Bình khởi xƣớng. Cụm từ này đƣợc Tập Cận Bình dùng khi
trở thành Tổng Bí thƣ vào tháng 11/2012 và trong diễn văn đầu tiên trên
cƣơng vị Chủ tịch nƣớc vào tháng 3/2013. Ngày 19/8/2013, Tổng Bí thƣ
Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố: “Việc hiện thực hóa
Giấc mộng Trung Hoa về sự phục hƣng dân tộc vĩ đại có nghĩa là Trung Quốc
trở thành một đất nƣớc thịnh vƣợng, một quốc gia đƣợc tiếp sức sống mới và
có nhân dân hạnh phúc” [17]. Khẩu hiệu này nhanh chóng thu hút sự chú ý
trên toàn thế giới. Quan điểm chính thức của Trung Quốc cho rằng "Giấc
mộng Trung Hoa" có thể đƣợc xem nhƣ là sự tiếp nối chiến lƣợc phát triển
hòa bình của Trung Quốc, là thành phần quan trọng trong chiến lƣợc "quyền
lực mềm" của Trung Quốc, nhằm tìm cách phản bác lại ý kiến cho rằng Trung
Quốc là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh khu vực. Các quốc gia
phƣơng Tây lo ngại về cách tiếp cận chính sách đối ngoại bành trƣớng và
quyết đoán hơn đƣợc ngụ ý trong "Giấc mộng Trung Hoa", đặc biệt khi nó
liên quan đến sự quyết đoán quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển
Đông và Biển Hoa Đông [46].
Kể từ năm 2014, Trung Quốc liên tục đƣa ra hàng loạt sáng kiến nhằm
hiện thực hoá “Giấc mộng Trung Hoa”. Theo đó, có thể tạm chia các nhóm
sáng kiến của nƣớc này thành ba nhóm chính thuộc các lĩnh vực an ninh,
chính trị và thƣơng mại. Trong đó, nhóm sáng kiến an ninh của Trung Quốc
bao gồm các cơ chế an ninh mới châu Á và hệ thống an ninh tập thể khu vực
châu Á - Thái Bình Dƣơng. Nhóm sáng kiến chính trị bao gồm Cộng đồng
chung vận mệnh, Giấc mơ châu Á - Thái Bình Dƣơng và Hiệp ƣớc láng giềng

15


hữu nghị Trung Quốc -ASEAN,…Nhóm còn lại bao gồm các sáng kiến Ngân

hàng đầu tƣ hạ tầng châu Á (AIIB), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
(RCEP), Hiệp định thƣơng mại tự do châu Á - Thái Bình Dƣơng (FTAAP) và
đặc biệt quan trọng là sáng kiến “Một vành đai, một con đƣờng”.
Bên cạnh đó, lãnh đạo Trung Quốc cũng đã thông qua mục tiêu “hai đại
lễ 100 năm” gồm: một là xây dựng một xã hội khá giả vào năm 2021 đúng dịp
kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc; hai là xây dựng
Trung Quốc thành một nƣớc xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu mạnh, dân chủ,
văn minh hài hòa vào năm 2049 nhân kỷ niệm 100 năm thành lập nƣớc Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Các mục tiêu trên sau này đã đƣợc đề cập thông
qua việc thiết lập Vành đai kinh tế con đƣờng tơ lụa và Con đƣờng Tơ lụa
trên biển thế kỷ XXI kết nối Trung Quốc với rất nhiều nƣớc bằng đƣờng bộ
và đƣờng biển [51].
Đồng thời, Trung Quốc cũng xác định để trở thành cƣờng quốc trên thế
giới, nƣớc này cần phải đạt đƣợc vị thế “cƣờng quốc hải dƣơng”. Trung Quốc
lần đầu tiên đƣa nội dung xây dựng cƣờng quốc biển vào văn kiện Đại hội 18
của Đảng Cộng sản, cho thấy sự coi trọng cao độ của tập thể lãnh đạo Trung
Quốc đối với nhiệm vụ mở rộng ảnh hƣởng trên các vùng biển quốc tế. Nhƣ
vậy, có thể thấy đƣợc tầm quan trọng của Con đƣờng tơ lụa trên biển trong
đại chiến lƣợc “Một vành đai, một con đƣờng”. Nếu nhƣ xây dựng thành
công, con đƣờng tơ lụa trên biển sẽ góp phần đƣa Trung Quốc trở thành
cƣờng quốc toàn cầu. “Con đƣờng tơ lụa trên biển vừa là một bộ phận cấu
thành quan trọng của việc tôn vinh văn minh Trung Hoa và thực hiện giấc
mộng Trung Hoa, vừa phản ánh tƣơng lai kinh tế to lớn của một đợt cải cách
mới và khu vực ven biển Trung Quốc mở rộng sang các nƣớc ven Biển Đông
Nam Á, thậm chí Ấn Độ Dƣơng” [7; tr75].

16


1.3. Ý tƣởng về xây dựng Con đƣờng tơ trên biển thế kỉ XXI

Vào tháng 9 năm 2013, nhân chuyến thăm chính thức Kazakhstan,
Tổng Bí thƣ Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chủ tịch nƣớc Tập Cận Bình
đã lần đầu tiên khởi xƣớng: “Để kết nối chặt chẽ kinh tế, tăng cƣờng hợp tác
và mở rộng phát triển trong khu vực Á - Âu, chúng ta nên có một cách tiếp
cận sáng tạo và cùng nhau xây dựng một vành đai kinh tế theo con đƣờng tơ
lụa” [54]. Sau đó vào tháng 10 năm 2013, tại Hội nghị Cấp cao APEC đƣợc tổ
chức tại Indonesia, Chủ tịch nƣớc Tập Cận Bình đƣa ra một quan điểm ngoại
giao mới: “Khu vực Đông Nam Á xƣa nay có thể nói là sợi dây quan trọng
bậc nhất của con đƣờng tơ lụa trên biển. Chính phủ Trung Quốc muốn tăng
cƣờng hợp tác trên biển với các quốc gia ASEAN đồng thời sẽ sử dụng hiệu
quả nguồn vốn hợp tác trên biển giữa Trung Quốc và ASEAN mà chính phủ
Trung Quốc đã đầu tƣ. Hai bên cùng nhau tăng cƣờng hơn nữa quan hệ đối
tác hợp tác nhiều mặt, chung tay xây dựng con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỷ
XXI” [22]. Tháng 11 năm 2014, trong khuôn khổ Hội nghị thƣợng đỉnh lần
thứ 22 Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC) đƣợc tổ
chức tại Bắc Kinh, Tập Cận Bình chính thức đƣa ra Sáng kiến “Một vành đai,
một con đƣờng” (One belt, one road - OBOR). Ngay sau đó, các văn kiện của
Đảng và Chính phủ Trung Quốc nhanh chóng công bố nội dung chi tiết của
sáng kiến, bao gồm hai phần là “Vành đai kinh tế con đƣờng tơ lụa trên bộ”
(Silk Road Economic Belt - SREB) và “Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỷ
XXI (Maritime Silk Road - MSR).
Phƣơng hƣớng trọng điểm của Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỉ XXI đi
từ các cảng ven biển Trung Quốc qua Biển Đông đến các cảng ven biển Ấn
Độ Dƣơng, mở rộng sang châu Âu. Một nhánh khác bắt đầu tại các cảng ven
biển của Trung Quốc đi qua Biển Đông tới Nam Thái Bình Dƣơng. Theo đó,
Con đƣờng tơ lụa trên biển sẽ bắt đầu ở Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến phía đông

17



nam Trung Quốc, đi qua các cảng phía nam Trung Quốc tới một số nƣớc
Đông Nam Á, qua eo biển Malacca và hƣớng tới các quốc gia phía tây dọc
theo Ấn Độ Dƣơng, sau đó đi qua Biển Đỏ và Địa Trung Hải gặp Vành đai
kinh tế con đƣờng tơ lụa trên bộ tại Venice. Trung Quốc coi sáng kiến xây
dựng Con đƣờng tơ lụa trên biển nhằm mục đích đƣa kết nối về kinh tế và
hàng hải đi vào chiều sâu.
Theo sáng kiến Con đƣờng tơ lụa trên biển thế kỷ XXI bắt đầu từ
Tuyền Châu (tỉnh Phúc Kiến) chạy qua Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông), Bắc
Hải (tỉnh Quảng Tây) và Hải Nam trƣớc khi đi về phía Nam - qua các quốc
gia ven Biển Đông hƣớng đến eo biển Malacca. Đoạn thứ hai xuất phát từ
Kuala Lumpur nối với đoạn thứ nhất tại eo Malacca, rồi tiến sang Kolkata
(Ấn Độ) vòng quanh Ấn Độ, qua Pakistan, vƣợt qua phần còn lại của Ấn Độ
Dƣơng sang Đông Phi tới Nairobi (Kenya). Từ Nairobi, tiến lên phía bắc qua
vùng châu Phi, có đoạn nối với Vịnh Pecxich, từ châu Phi di chuyển qua Biển
Đỏ vào Địa Trung Hải, với một chặng dừng tại Athens (Hy Lạp) trƣớc khi
gặp con đƣờng tơ lụa trên đất liền ở Venice (Ý). Với tính kết nối rộng, đóng
vai trò tạo thành một mạng lƣới liên kết 3 châu lục Á-Âu-Phi. Để bổ sung cho
sáng kiến, tại Hội nghị Thƣợng đỉnh Trung Quốc-ASEAN vào tháng 11/2014,
Thủ tƣớng Trung Quốc Lý Khắc Cƣờng đã giới thiệu “Khuôn khổ Hợp tác
2+7” gồm hai nhận thức chung và bảy kiến nghị. Hai điểm đồng thuận chính
trị là xây dựng lòng tin chiến lƣợc và quan hệ láng giềng tốt đẹp dựa trên lợi
ích chung. Bảy kiến nghị hợp tác thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế thƣơng
mại, liên kết bên trong, tài chính, hợp tác biển, hợp tác khoa học – công nghệ
và trao đổi con ngƣời. Về cơ bản, các kiến nghị hợp tác khá đa dạng và chú
trọng vào hợp tác và trao đổi trong lĩnh vực thƣơng mại, sau đó mới tiếp tục
phát triển các nội dung tiếp theo. Vào tháng 3/2015, Uỷ ban Cải cách và Phát
triển Quốc gia phối hợp cùng Bộ Ngoại giao và Bộ thƣơng mại Trung Quốc

18



với sự cho phép của Hội đồng Nhà nƣớc đã công bố “Tầm nhìn và hành động
cùng nhau xây dựng vành đai kinh tế con đƣờng tơ lụa trên bộ và con đƣờng
tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” [64]. Báo cáo đã nêu lên các sáng kiến nhằm tăng
cƣờng chính sách phối hợp, kết nối thiết bị, tự do thƣơng mại, hội nhập tài
chính và tính kết nối giữa con ngƣời với con ngƣời. Đặc biệt là tạo ra một nền
tảng hợp tác khu vực mới và kết nối các quốc gia cùng thực hiện các kế hoạch
tiến đến cùng chia sẻ lợi ích. Đồng thời, Trung Quốc cam kết gánh vác trách
nhiệm và nghĩa vụ trong phạm vi và khả năng nhằm đóng góp nhiều hơn cho
hòa bình và phát triển của nhân loại. Có thể khẳng định rằng, Con đƣờng tơ
lụa trên biển thế kỉ XXI là lựa chọn chiến lƣợc phục vụ cho nhu cầu khách
quan lẫn chủ quan của Trung Quốc. Đòi hỏi này xuất phát từ nhu cầu tăng
cƣờng khả năng kiểm soát các tuyến đƣờng thƣơng mại biển của Trung Quốc.
Làm chủ các tuyến đƣờng biển sẽ giúp Trung Quốc dễ dàng tiếp cận thị
trƣờng các quốc gia Tây Á, Trung Đông, châu Phi và châu Âu. Qua đó, Trung
Quốc sẽ chủ động đảm bảo nguồn cung về tài nguyên. Đồng thời, một mạng
lƣới mậu dịch trên biển có thể đƣợc hình thành dƣới sự “bảo trợ” của Trung
Quốc. Bên cạnh những đòi hỏi khách quan của thời đại thì sự vận động chính
trị trong nội bộ Trung Quốc cũng là nhân tố thúc đẩy Con đƣờng tơ lụa trên
biển thế kỉ XXI đƣợc hình thành. Có thể nói, Con đƣờng tơ lụa trên biển thế
kỉ XXI ra đời trong bối cảnh Trung Quốc đang nỗ lực khẳng định vị thế trên
trƣờng quốc tế. Nhận thức về môi trƣờng quốc tế cùng địa vị đang gia tăng
của Trung Quốc trong bối cảnh mới là cơ sở quan trọng cho những chính sách
mang tầm chiến lƣợc. Những thuận lợi này giúp Trung Quốc đẩy mạnh chiến
lƣợc định hình lại nhận thức của thế giới về quốc gia này. Một trong những
phƣơng cách hữu hiệu là chủ động đề xuất các cơ chế hợp tác khu vực liên
khu vực nhằm tạo sự kết nối và chia sẻ.

19



×