Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Nghệ thuật phục kích của trận tốt động chúc động trong chiến thắng quân minh năm 1426

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.34 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
*************************

NGUYỄN KIỀU NHUNG

NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH CHIẾN
THẮNG QUÂN MINH TRONG TRẬN
TỐT ĐỘNG - CHÚC ĐỘNG NĂM 1426

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
**************************

NGUYỄN KIỀU NHUNG

NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH CHIẾN
THẮNG QUÂN MINH TRONG TRẬN
TỐT ĐỘNG - CHÚC ĐỘNG NĂM 1426

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

Người hướng dẫn khoa học


ThS. TRỊNH VĂN TÚY

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành em xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới
thầy giáo thượng tá ThS. Trịnh Văn Túy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Trung
tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Trường ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã khuyến khích,
động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận này.
Mạc dù đã rất nỗ lực cố gắng, song chắc chắn không tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo
và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Kiều Nhung


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận này là kết quả
nghiên cứu của bản thân em dưới sự hướng dân trực tiếp của thầy Trịnh Văn
Túy.
Nội dung của khóa luận không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả
khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Kiều Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH
VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH CHIẾN THẮNG
QUÂN MINH TRONG TRẬN TỐT ĐỘNG – TRÚC ĐỘNG NĂM 1426..... 4
1.1. Cơ sở lý luận của nghệ thuật phục kích ..................................................... 4
1.1. 1.Các khái niệm .......................................................................................... 4
1.1.2. Truyền thống sử dụng nghệ thuật phục kích của dân tộc ta ................... 5
1.2.Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật phục kích chiến thắng quân Minh
trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426 .................................................... 6
1.2.1. Bối cảnh lịch sử trọng trận Tốt Động – Chúc Động năm 1426 .............. 6
1.2.1. Các yêu cầu của nghệ thuật phục kích .................................................... 8
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 10
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH
NGHIỆM RÚT RA TỪ NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH CHIẾN THẮNG
QUÂN MINH TRONG TRẬN TỐT ĐỘNG – CHÚC ĐỘNG NĂM 1426
......................................................................................................................... 11
2.1.Nghệ thuật phục kích của nghĩa quân Lam Sơn trong trận Tốt Động Chúc Động chiến thắng quân Minh năm 1426 ............................................... 11
2.1.1. Hình thái chiến dịch hiện nay ............................................................... 11
2.1.2. Diễn biến, kết quả, ý nghĩa của trận Tốt Động - Chúc Động trong chiến
thắng quân Minh năm 1426............................................................................. 14
2.1.2.1.Diễn biến của trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426 ....................... 14.
2.1.2.2.Kết quả của trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426 .......................... 16.
2.1.2.3.Ý nghĩa của trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426 .......................... 16.
2.1.3. Nghệ thuật quân sự............................................................................... `18



2.2. Yêu cầu và bài học kinh nghiệm trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện
nay ................................................................................................................... 23
2.2.1. Yêu cầu của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay ............................... 23
2.2.2. Bài học kinh nghiệm hiện nay............................................................... 30
Kết luận chƣơng 2 ........................................................................................... 38
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 40


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1407, nhà Minh cắt quân xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến của
nhà Hồ bị thất bại. Nhân dân ta liên tục vùng lên. Và chỉ mười năm sau, cờ
khởi nghĩa lại phất lên từ Lam Sơn. Trải qua mười năm chiến đấu gian khổ và
anh dũng trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426. Dưới sự lãnh đạo của
Lê Lợi - Nguyễn Trãi, dân tộc ta liên tục tiến công, tiêu diệt hết đạo quân này
đến đạo quân khác của địch, mở rộng vùng giải phóng, tiến lên tiêu diệt hoàn
toàn địch ở Chi Lăng - Xương Giang; buộc 10 vạn quân địch còn lại đầu
hàng, kết thúc hai mươi năm thống trị của nhà Minh năm 1427.
Từ các cuộc kháng chiến chống quân Minh cho thấy, nhận thức sâu sắc
âm mưu, thủ đoạn cũng như thế mạnh của kẻ thù…quân và dân nhà Lê đã biết
kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc
trong lịch sử. Đồng thời, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các nghệ thuật đó để
hình thành nên nhiều loại hình nghệ thuật quân sự đặc sắc, đảm bảo phù hợp
với tình hình đất nước, thực tiễn sức mạnh của quân và dân ta cũng như khắc
chế được sức mạnh của kẻ thù.
Trong các loại hình nghệ thuật quân sự, nghệ thuật phục kích được coi
là nghệ thuật tiêu biểu, được quân và dân nhà Lê sử dụng nhiều nhất trong

suốt chiều dài lịch sử tồn tại của triều đại; nó được thể hiện rõ nét trong nhiều
cách đánh khác nhau, mà nổi bật nhất là trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426. Chính việc sử dụng nghệ thuật
quân sự này đã trực tiếp làm nên thắng lợi của quân và dân nhà Lê trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh. Cũng như góp phần to lớn để dân tộc ta luôn
giành chiến thắng trước các cuộc xâm lăng của quân xâm lược để giữ vững
nền độc lập nước nhà.

1


Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cẩu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trước thực tiễn, đặc điểm, tình hình của đất
nước…đã và đang đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu những giá trị của
nghệ thuật quân sự cha ông ta trong quá khứ nói chung, nghệ thuật phục kích
của quân và dân nhà Lê trong chiến thắng quân Minh 1426 nói riêng, từ đó
tìm ra những kinh nghiệm hay, có giá trị sâu sắc để vận dụng phù hợp từng
bối cảnh mới để quân và dân ta có thể giành chiến thắng trước mọi kẻ thù khi
có chiến tranh xảy ra …Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã lựa chọn:
“Nghệ thuật phục kích của trận Tốt Động - Chúc Động trong chiến thắng
quân Minh năm 1426” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, làm rõ nghệ thuật phục kích của quân và dân nhà Lê trong
chiến thắng chống quân Minh và trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426.
Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm vận dụng vào trong phát triển
nghệ thuật phục kích của quân và dân ta giai đoạn hiện nay. Làm cơ sở tích
lũy kiến thức trong học tập và công tác sau này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Khái quát nghệ thuật phục kích của quân và dân nhà Lê
Làm rõ những nét đặc sắc nghệ thuật phục kích của quân và dân nhà Lê

trong chiến thắng chống quân Minh trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426.
Phân tích kết quả vận dụng nghệ thuật phục kích trong chiến thắng
chống quân Minh trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426 và rút ra những bài
học kinh nghiệm từ nghệ thuật phục kích trong chiến thắng chống quân Minh
năm 1426.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu

2


Trận Tốt Động - Chúc Động của quân và dân nhà Lê trong chiến thắng
quân Minh năm 1426.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Kháng chiến chống quân Minh của quân và dân nhà Lê từ năm 1418 năm 1427.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử,
phương pháp logic, so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích và phương pháp
chuyên gia, để nghiên cứu đề tài.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp nghiên cứu
thực tiễn diễn biến trận Tốt Động - Chúc Động trong chiến thắng quân Minh
năm 1426.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa khoa học
Làm rõ điểm đặc trưng của nghệ thuật phục kích chiến thắng quân Minh
trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426, giúp ta hiểu thêm về nghệ thuật
phục kích và phát huy nó trong điều kiện mới
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài được bảo vệ thành công, sẽ được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu
và giảng dạy trong trung tâm GDQP&AN trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2

và sinh viên ra trường làm công tác giảng dạy sau này.
Có ý nghĩa giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự
nghiệp củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân hiện nay.

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT
PHỤC KÍCH CHIẾN THẮNG QUÂN MINH TRONG TRẬN
TỐT ĐỘNG - CHÚC ĐỘNG NĂM 1426
1.1.Cơ sở lý luận của nghệ thuật phục kích
1.1.1. Các khái niệm
Khái niệm về nghệ thuật quân sự: Trong chiến tranh quân sự, một trong
những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của cuộc chiến đấu đó là
Nghệ thuật quân sự. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghệ thuật quân sự: “Là
cách đánh, cách dùng binh đã trở thành thông thạo, điêu luyện trong một trận
chiến đấu, một chiến dịch hay trên toàn bộ chiến trường; nghệ thuật quân sự
không có một khuôn mẫu cụ thể nào, nó có thể biến hóa khôn lường, muôn
hình muôn vẻ”. Hay trong Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam chỉ rõ:
“Nghệ thuật quân sự là lý thuận và thực tiễn chuẩn bị, tổ chức và tiến hành
đấu tranh vũ trang. Nó nghiên cứu các quy luật của chiến tranh và đấu tranh
vũ trang, xác định những nguyên tắc và phương pháp tiến hành các hoạt động
quân sự trong chiến tranh”.
Khái niệm về nghệ thuật phục kích: Nghệ thuật phục kích được coi là
một trong số những nghệ thuật cũng như là một bộ phận cấu thành nên nghệ
thuật quân sự Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phục kich là ẩn nấp
trong một chỗ chực quân giặc đi qua thoạt ra đánh úp” hay theo Binh pháp
Tôn tử: “Nghệ thuật phục kích là dùng một lực lượng nằm sẵn một vị trí nào

đó chờ địch đi ngang qua mà tấn công”. Phục kích còn được gọi là mai phục.
Trong chiến đấu, để phục kích thành công thì phục kích phải đảm bảo được
những yếu tố sau:

4


- Bí mật
- Phục kích ở đâu mà mình suy đoán, tính toán trước là địch sẽ đi qua
- Lợi dụng địa thế trận địa để làm nơi trú ẩn và đánh bất ngờ, làm địch
không trở tay kịp
Từ những tìm hiểu trên, ta thấy nghệ thuật phục kích là một bộ phận cơ
bản trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nó thể hiện sự mưu trí, khéo léo,
sáng tạo của người chỉ huy trận đánh trong tổ chức sao cho bí mật, kín đáo
nhất, để địch không kịp trở tay và kịp thừa đưa ra những biện pháp chống trả
lại.
1.1.2. Truyền thống sử dụng nghệ thuật phục kích của dân tộc ta.
Phục kích là một trong những hình thức chiến thuật quân sự được ông
cha ta trước kia sử dụng rất phổ biến, rộng rãi và tài tình trong các cuộc chiến
tranh “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, nghệ
thuật phục kích được sử dụng rất nhiều: Từ các trận nhỏ của các thổ binh,
hương binh đời Lý, dựa vào núi rừng hiểm trở phục kích các toán quân nhỏ.
Cho đến các trận đánh có quy mô lớn như Bạch Đằng (năm 938), trận sông
Lục Đầu và trận Bạch Đằng ngày 28 tháng 4 năm 981.
Trận Bạch Đằng năm 938 là một trận đánh giữa quân dân Việt Nam thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu chính thức - do Ngô Quyền
lãnh đạo đánh với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả quân dân
Việt Nam giành thắng lợi nhờ kế cắm cọc ở sông Bạch Đằng của Ngô Quyền.
Trước sự chiến đấu dũng mãnh của quân dân Việt Nam, quá nửa quân Nam
Hán bị chết đuối và hoàng tử Nam Hán là Lưu Hoằng Tháo cũng bị Ngô

Quyền giết chết. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó

5


đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam, nối lại
quốc thống cho dân tộc.
Chiến tranh Tống - Việt năm 981 là một cuộc chiến tranh giữa Đại
Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng
1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh thổ Đại Cồ Việt. Kết quả quân và dân Đại Cồ
Việt đã đánh bại quân đội Đại Tống. Sau cuộc chiến này, năm 986, hoàng đế
Đại Tống chấp nhận nhà Tiền Lê và ban chế phong cho Lê Đại Hành. Trong
cuộc chiến tranh này tiêu biểu có 2 trận chiến là trận sông Lục Đầu và trận
Bạch Đằng (28/4/981) có sử dụng nghệ thuật phục kích để đánh thắng quân
giặc.
1.2. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật phục kích chiến thắng quân
Minh trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426
1.2.1. Bối cảnh lịch sử trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426
- Lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.
Triều đại Nhà Trần đã trở nên suy tàn và mất lòng dân chúng một cách
nghiêm trọng. Các tầng lớp trong xã hội: nông nô, nô tỳ, nông dân nghèo…
sống trong cảnh khốn khổ và đã vùng lên khởi nghĩa. Tuy nhiên, những cuộc
đấu tranh này chưa thể đốt cháy được cơ đồ thống trị của nhà Trần nhưng ít
nhiều cũng đã làm cho vương triều này bị nghiêng ngả và bước gần hơn đến
chỗ bại vong.
Năm 1400, nhân cơ hội đó Hồ Quý Ly đã phế truất triều Trần, lập ra một
vương triều mới đó là nhà Hồ. Trong thời gian đó nhà Hồ đã đề ra và có
những cải cách về các mặt: kinh tế - chính trị - xã hội - văn hóa của đất nước.
Công cuộc cải cách của nhà Hồ nhằm củng cố quyền lực của tập đoàn thống
trị nhưng có ưu điểm là mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân và cho đất nước

nói chung, tuy nhiên lại chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển khách quan của

6


xã hội. Vì vậy, vương triều Hồ gặp phải nhiều khó khăn và bị cô lập về mặt
xã hội.
Lợi dụng cơ hội trên Nhà Minh tiến hành xâm lược nước ta. Từ khi ra
đời Nhà Minh vốn là một quốc gia phong kiến hùng mạnh ở phương Đông và
vào đầu thế kỷ XV quốc gia này đang ở vào giai đoạn cường thịnh nhất. Vào
cuối năm 1406, nhà Minh huy động trên 20 vạn quân và hàng chục vạn quân
phục dịch tiến hành xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến của quân và dân nhà
Hồ nhanh chóng thất bại bởi những lý do sau: Không đoàn kết được toàn dân
tộc, không phát huy được sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc vì thế chỉ sau nửa
năm, cuộc kháng chiến chống lại của quân và dân nhà Hồ thất bại.
Kể từ sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 do
Ngô Quyền lãnh đạo, đất nước ta sau năm thế kỷ đã giành và giữ vững được
nền độc lập, đến nay lại bị phong kiến nước ngoài đô hộ. Kẻ thù không những
bóc lột và còn tham lam vơ vét và khủng bố man rợ, chúng còn dã man hơn
khi mang trong mình âm mưu đồng hóa dân tộc nhằm biến dân tộc ta mãi mãi
trở thành nô dịch và xóa tên nước ta trên bản đồ của thế giới. Tội ác của
chúng chồng chất bởi vậy trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
từng ghi:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận
Trời đất chẳng dung tha”.
Dưới sự thống trị của nhà Minh đất nước ta đang đứng trước những
nguy cơ lớn: Đó là sự mất còn của đất nước, của nền độc lập thiêng liêng, của
cuộc sống và phẩm giá của con người.

- Khái quát về quân Minh trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426

7


Chúng chà đạp lên các cuộc đấu tranh quyết liệt giành độc lập dân tộc
trên khắp đất nước ta bằng nhiều thủ đoạn và âm mưu như: mua chuộc và chia
rẽ thâm độc.
Trong trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426:
Nhà Minh đã phải cử Vương Thông dẫn hơn 50 nghìn quân sang tăng
viện cho Đông Quan. Tạo cho Đông Quan thành cứ điểm tập trung hơn 100
nghìn quân Minh, giành ưu thế về binh lực để mở các cuộc tiến công lớn ra
vùng ngoại vi Đông Quan, hòng giành lại thế chủ động chiến lược.
Ngày 5/11/1426, Vương Thông tập trung hơn 90 nghìn quân tiến theo
hướng Nam và Tây Nam, nhằm đánh các cánh quân Lam Sơn của các tướng
Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đinh Lễ…
1.2.2. Các yêu cầu của nghệ thuật phục kích
Một là: Nghệ thuật phục kích trước hết phải nắm bắt rõ được ý định
của kẻ thù trong từng trận đánh để từ đó có ta có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ
đó là: Phải thám thính, trinh thám rõ tình hình quân giặc bởi vì nếu thực hiện
công đoạn này không đúng sẽ không có lợi cho chúng ta mà không may lại
còn gây nguy hiểm. Từ đó ta có chiến thuật để phục kích sao cho đúng. Khi
thám thính cần lưu ý những điều sau:
- Quân giặc hành quân lúc nào: Thời gian, địa điểm (Quân giặc đi qua
lúc nào, đường nào, điểm đến)
- Lực lượng (Có bao nhiêu người và thuộc loại lính nào), vũ khí (Thô
sơ hay hiện đại, xe cộ), sức chiến đấu ra sao.
- Cuộc hành quân của giặc có mục đích gì?
Hai là: Sau khi có sự thám thính, trinh thám chúng ta phải khai thác
được địa hình, tự nhiên để có sự tổ chức, bố trí các lực lượng nhằm tạo ra thế


8


trận bất lợi cho kẻ thù. Trong quá trình này chúng ta phải thể hiện được sự
linh hoạt và sáng tạo.
Ba là: Yếu tố giữ vai trò then chốt trong nghệ thuật phục kích này đó là
yếu tố bí mật, hay còn có thể nói yếu tố bí mật giữ vai trò rất quan trọng để
giành chiến thắng của trận đánh. Khi thám thính rõ được tình hình giặc, mọi
thông tin chỉ nên để người chỉ huy và những người chủ chốt nắm được, tuyệt
đối không được để những người không cần biết nắm được thông tin. Yếu tố
lựa chọn địa điểm cũng có vai trò quan trọng trong nghệ thuật phục kích: Lựa
chọn địa điểm phải nằm ngoài tầm dự đoán của địch, không được để bất cứ
thông tin gì về địa điểm phục kích lọt ra ngoài. Vậy chúng ta có thể thấy
ngoài khi hành quân, bố trí quân, kế hoạch đánh, dự kiến được các tình huống
xảy ra… thì việc giữ bí mật và lựa chọn địa điểm cần được giữ bí mật.
Bốn là: Nghệ thuật phục kích phải có sự phối hợp với các nghệ thuật
quân sự khác thì mới đạt được hiệu quả và thành công.

9


Tiểu kết chương 1
Những cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử của nghệ thuật phục kích là nội
dung cơ bản để chúng ta nghiên cứu, thấy rõ được nghệ thuật phục kích nói
chung và nghệ thuật phục kích chiến thắng quân Minh xâm lược trong trận
Tốt Động - Chúc Động năm 1426.
Phục kích là một trong những hình thức chiến thuật quân sự được ông
cha ta trước kia sử dụng rất phổ biến, rộng rãi và tài tình trong các cuộc chiến
tranh “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”. Trong lịch sử dựng nước và giữ

nước của dân tộc Việt Nam ta, nghệ thuật phục kích được sử dụng rất nhiều
Từ những tìm hiểu trên, ta thấy nghệ thuật phục kích là một bộ phận cơ
bản trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nó thể hiện sự mưu trí, khéo léo,
sáng tạo của người chỉ huy trận đánh trong tổ chức sao cho bí mật, kín đáo
nhất, để địch không kịp trở tay và kịp thừa đưa ra những biện pháp chống trả
lại. Là hình thức được sử phổ biến và phát huy hiệu quả cao trong chiến tranh
bảo vệ tổ quốc của ông cha ta.

10


Chương 2
NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
RÚT RA TỪ NGHỆ THUẬT PHỤC KÍCH CHIẾN THẮNG QUÂN
MINH TRONG TRẬN TỐT ĐỘNG - CHÚC ĐỘNG NĂM 1426
2.1. Nghệ thuật phục kích của nghĩa quân Lam Sơn trong trận Tốt Động
- Chúc Động chiến thắng quân Minh năm 1426
2.1.1. Hình thái chiến dịch trận Tốt t Động-Chúc Động năm 1426
Mùa xuân năm 1418, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ mở đầu một
trang sử mới của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV.
Nghĩa quân Lam Sơn bước vào cuộc chiến đấu trong một tình thế gay
go, tương quan lực lượng rất chênh lệch. Lúc mới khởi nghĩa, toàn bộ lực
lượng nghĩa quân không quá 2000 người:
“Cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè
chỉ có một manh, quân lính chỉ độ vài nghìn, khí giới thì thật tay không”
(Quân Trung từ mệnh tập - Nguyễn Trãi)
Quân Minh tổ chức nhiều cuộc vây quét lớn, có khi tập trung đến 10
vạn quân, hòng tiêu diệt nghĩa quân, dập tắt cuộc khởi nghĩa. Đội du kích
Lam Sơn cũng có khi bị tổn thất nặng nề, chỉ còn hơn 100 người. Nhưng dưới
sự chỉ đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, cuộc khởi nghĩa bám rễ sâu xa, bền

vững trong nhân dân. Được lòng dân hết lòng đùm bọc, nuôi nấng và ủng hộ,
nghĩa quân Lam Sơn trưởng thành trong ngọn lửa thiêng của cuộc chiến tranh
yêu nước sáng ngời chính nghĩa. Nghĩa quân đã vượt qua muôn vàn khó khăn
gian khổ với tinh thần chiến tranh ngoan cường, bền bỉ và lối đánh mưu trí táo
bạo
“Chín phần chết, một phần sống,
Tuy ở chốn hiểm nghèo mà có ngất trời khí thế.

11


Bao nhiêu nghịch, bấy nhiêu thuận,
Khéo tùy cơ lợi dụng, thật là tột bậc anh hùng.”
(Nguyễn Mộng Tuân, Phú núi Chí Linh)
Đầu năm 1426, sau 8 năm chiến đấu, hình thái của cuộc chiến tranh đã
có những biến đổi căn bản giành cho nghĩa quân.
Một khu vực rộng lớn từ Thanh Hóa vào đến Thuận Hóa( nam Quảng
Trị, Thừa Thiên) đã được giải phóng, tạo thành hậu phương vững chắc của
cuộc chiến tranh giành độc lập. Trong cả khu vực đó, quân Minh chỉ còn giữ
được 5 thành lũy cô lập (Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận
Hóa) và bị vây chặt như năm hòn đảo chơ vơ giữa biển cả. Lực lượng nghĩa
quân đã trưởng thành vượt bậc gồm hàng vạn quân có đủ: bộ binh, thủy binh,
tượng binh và kỵ binh. Tổ chức và trang bị của nghĩa quân được tăng cường.
Những thắng lợi to lớn về quân sự, chính trị đã đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
phát triển thành trung tâm của phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi cả
nước. Những chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn đã vang dội ra Miền Bắc,
cổ vũ mạnh mẽ nhân dân trong vùng địch chiếm đóng.
Trong lúc đó; quân địch tuy quân số còn đông nhưng tinh thần sa sút và
đã mất sức tiến công, đang phải chuyển sang thế phòng ngự. Tòng binh quân
Minh là Thần Trí một mặt phái người về nước xin viện binh, mặt khác tập

trung củng cố vùng bị chiếm đóng, nhất là lo tăng cường phòng thủ thành
Đông Quan (Hà Nội). Thần Trí phải giảm bớt quân đóng giữ những thành ít
quan trọng và ra sức bắt lính, tăng thêm quân số để có đủ lực lượng để đàn áp
những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Miền Bắc và bảo vệ thành Đông Quan.
Tại triều đình nhà Minh, nhận được tin thất bại ở nước ta, vua Minh ra lệnh
khiển trách Thần Trí và quyết định điều 6 vạn quân sang tiếp viện. Tháng
4/1426, nhà Minh quyết định điều quân tiếp viện, nhưng phải khoảng nửa

12


năm sau quân địch mới sang đến nước ta. Tranh thủ thời cơ khi quân Minh
đang lâm vào thế bị động và quân cứu viện chưa kịp sang, bộ chỉ huy nghĩa
quân Lam Sơn ra quyết định mở một cuộc tiến công ra Bắc (miền Bắc Bộ
ngày ấy, lúc đó còn bị quân Minh chiếm đóng) vào tháng 9/1426 với ba đạo
quân nhằm giành lấy những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn về quân sự
và chính trị, đưa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lên quy mô cả nước và
chuẩn bị tiến lên tiêu diệt viện binh địch.
Lúc bấy giờ ở miền Bắc, nhân dân vẫn nổi dậy khởi nghĩa ở nhiều nơi
và vẫn luôn hướng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trước khi mở cuộc tiến
công ra Bắc. Lê Lợi cử người ra liên hệ với các hào kiệt, các nhóm nghĩa
quân, bí mật chuẩn bị cơ sở cho một cuộc nổi dậy rộng lớn của toàn dân Miền
Bắc. Vì vậy, ba đạo quân Lam Sơn tiến đến đâu thì ở đó, nhân dân vùng dậy
nhiệt liệt hưởng ứng. Với lòng yêu nước nồng nàn và ý chí căm thù giặc sôi
sục, nhân dân đã sáng tạo ra nhiều hình thức phong phú để trực tiếp tham gia
vào cuộc chiến đấu như ra nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực, phục vụ chiến
đấu hay tự vũ trang phối hợp với nghĩa quân vây đánh các đồn lũy của địch.
Cuộc tiến công của nghĩa quân Lam Sơn nhanh chóng phát triển thành
một cuộc nổi dậy rộng lớn của nhân dân các lộ miền Bắc. Đó chính là một
hình thái đặc sắc của khởi nghĩa Lam Sơn khi đã phát triển thành chiến tranh

giải phóng dân tộc có tính chất nhân dân sâu rộng trong cả nước. Vì vậy ba
đạo quân Lam Sơn không quá một vạn nhưng có thể hoạt động trên phạm vi
rất rộng. Nghĩa quân đánh thắng quân địch nhiều trận. Tiêu biểu là trận Trận
thắng lớn đầu tiên của nghĩa quân là trận Ninh Kiều (Ngọc Sơn - Chương Mỹ
- Hà Tây) ngày 13/09/1426 làm cho quân giặc bị tiêu diệt 2000 tên.
Trước khí thế vùng dậy và tiến công sôi sục của quân đội ta, bộ máy
chính quyền của địch bị sụp đổ từng mảng, nhiều phủ, châu, huyện được giải
phóng. Quân Minh và bọn thồ quan, thồ quân ngoan cố phải rút vào các thành

13


lũy kiên cố để cố thủ chờ viện binh. Quân ta tiêu diệt được một phần sinh lực
địch, bao vây thành Đông Quan, cô lập các thành lũy và chặn đứng một đạo
viện binh của địch từ Vân Nam sang. Sau gần hai tháng tiến công, quân dân ta
đã làm chủ được nhiều vùng rộng lớn và dồn ép toàn bộ quân Minh lún sâu
vào thế phòng ngự bị động. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng
của cuộc tiến công ra Bắc tháng 9 và tháng 10 năm 1426.
2.1.2 Diễn biến, kết quả, ý nghĩa của trận Tốt Động - Chúc Động trong
chiến thắng quân Minh năm 1426
2.1.2.1. Diễn biến của trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426
Tối ngày 6 tháng 11, Vương Thông lập kế hoạch mới, gộp quân của
Sơn Thọ và Phương Chính với quân của mình thành một khối đánh xuống
Ninh Kiều, lúc này quân Lam Sơn đã rút lui về Cao Bộ, nay thuộc xã Cao
Viên huyện Thanh Oai Hà Nội, nằm bên tả ngạn (bờ đông) sông Đáy, cùng
phía với thành Đông Quan. Vương Thông quyết định chia quân thành 2 cánh
để từ Ninh Kiều đến đánh Cao Bộ. Một cánh (cánh kỳ binh) đi qua Chúc
Động, (theo đường tắt, nay có lẽ là trục đường quốc lộ 6) theo kế hoạch là lẻn
tới trước đánh vào lưng đối phương. Một cánh nữa và là cánh chủ lực do đích
thân Vương Thông chỉ huy, theo đường cái quan (đường thiên lý Bắc Nam,

nay là đường liên huyện Chúc Sơn - Tốt Động - sân bay Miếu Môn (xã Hữu
Văn)), đi tới Chúc Động rồi tới phía Đông và Đông Bắc Cao Bộ, đánh vào
chính diện của đối phương. Theo kế hoạch, cánh quân đánh tập hậu khi đã sẵn
sàng thì nổ pháo hiệu để cả hai cánh quân đồng loạt đánh vào tiêu diệt quân
Lam Sơn.
Nắm được ý đồ của đối phương (bắt và tra hỏi được trinh sát của quân
Minh), quân Lam Sơn của Lý Triện và Đỗ Bí, được tăng viện của cánh quân
do Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy, từ huyện Thanh Đàm sang tiếp ứng, đã bố
trí hai trận mai phục ở Chúc Động và Tốt Động.

14


Đêm ngày mùng 6 rạng sáng ngày 7 tháng 11 năm 1426, quân Lam Sơn
chủ động nổ súng. Cánh quân Minh do Vương Thông chỉ huy lúc đó đi đến
Tốt Động tưởng pháo lệnh như đã hẹn nên vội vã tiến lên, bị quân Lam Sơn
mai phục ập lại đánh cho tan tác. Trong khi đó, chỉ huy cánh quân Minh đánh
tập hậu khi thấy có pháo hiệu đáng lẽ phải do mình thực hiện đã nghi ngờ và
cử quân đi trinh sát, nhưng thấy Cao Bộ vẫn yên ắng nên cũng không phản
ứng gì. Đến khi nhận được tin rằng cánh quân của Vương Thông bị tập kích ở
Tốt Động và đã tháo chạy, thì cánh quân tập hậu mới vội vàng rút chạy về
hướng Chúc Động. Cánh quân của Vương Thông bị quân Lam Sơn từ 3 mặt:
mặt trước (phía Nam) từ bờ sông Yên Duyệt (tức sông Bùi hay còn gọi là
sông Tích), phía Tây từ bờ đầm Rót (vị trí các thôn Thanh Nê, Tử Nê, nay
thuộc xã Thanh Bình huyện Chương Mỹ), và các làng xung quanh Tụy Động
ở phía Đông đường tiến quân của Vương Thông, kéo ra đánh cho tan. Cánh
quân Vương thông phải tháo chạy về hướng Chúc Động. Tại Chúc Động, cả
cánh quân tập hậu, lẫn hậu quân của cánh Vương Thông lại bị quân Lam Sơn
mai phục đổ ra đánh tiếp. Ninh Kiều - cầu bắc qua sông Ninh Giang (sông
Đáy) - bị quân Lam Sơn chặt đứt.


15


Lược đồ diễn biễn trận đánh Tốt Động - Chúc Động năm 1426
2.1.2.2. Kết quả của trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426
Sau ba ngày đêm chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu và chiến đấu liên tục
(ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426), quân ta đã chiến thắng hết sức oanh
liệt: 5 vạn quân Minh bị tiêu diệt, 1 vạn quân Minh bị bắt sống. Một lực lượng
lớn tháo chạy qua sông Ninh Giang bị chết đuối nhiều đến mức “làm nghẽn cả
khúc sông Ninh Giang”. Các chỉ huy của quân Minh là Trần Hiệp, Lý Lượng,
Lý Đằng bị giết tại trận. Ngay Vương Thông cũng bị thương. Cả một kế
hoạch đại quy mô với biết bao tham vọng của quân Minh chỉ mới bắt đầu thực
hiện đã bị thất bại thảm hại.

16


2.1.2.3. Ý nghĩa của trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã làm thay đổi cục diện chiến
tranh. Quân địch không những bị tổn thất nặng nề về lực lượng mà còn bị đẩy
vào thế phòng ngự chiến lược hết sức bị động. Từ đó thế và lực lượng của
quân địch ngày càng sa sút. Chúng chỉ còn có thể cố thủ trong một số thành
lũy để chờ cứu viện, không còn khả năng thực hiện một cuộc phản công nào,
mở ra một cục diện mới đưa sự nghiệp cứu nước vào giai đoạn toàn thắng. Đó
là thắng lợi của trận quyết chiến có ý nghĩa chiến lược to lớn của cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là một tấm gương sáng chói về sức
mạnh kỳ diệu của quyết tâm, ý chí, nghị lực và tinh thần quyết chiến quyết
thắng của quân dân ta. Đó là tinh thần mà Nguyễn Trãi đã so sánh “Như gió

mạnh gãy cành cây” (Bình Ngô đại cáo) và Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú ca
ngợi “nhanh như chim cắt, mạnh như nỏ cứng” (Lê triều thông sử, Lịch triều
hiến chương loại chí). Trong ba ngày chiến đấu, quân dân ta đã phát huy tất
cả sức mạnh của lòng yêu nước tha thiết, chí căm thù giặc sâu sắc, chiến đấu
không nghỉ ngơi, không biết mệt mỏi với khí thế hiên ngang đứng trên đầu kẻ
thù.
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động biểu thị nghệ thuật chỉ đạo tác
chiến tài giỏi, mưu trí và sáng tạo của các tướng lĩnh Lam Sơn: Quân Minh có
ưu thế binh lực tập trung, phần lớn là bộ binh và kỵ binh thạo lối đánh chính
quy,tập trung tiến quân ào ạt. Nhưng từ đầu đến cuối, quân dân ta đã làm cho
quân địch không thể nào phát huy được sức mạnh và lối đánh sở trường của
chúng. Quán triệt quyết tâm tiêu diệt địch và tinh thần tiến công chủ động,
liên tục, quân dân ta phát huy mọi chỗ mạnh của mình đánh vào mọi chỗ yếu
của địch. Đặc điểm nổi bật của cả trận đánh là quân tân đã vận dụng nghệ
thuật điều động địch đến mức tuyệt diệu và lối đánh phục kích rất lợi hại.

17


Từ chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đến nay, trên năm thế kỷ đã
qua. Nhưng võ công vang dội đó vẫn đểlại những dấu ấn sâu sắc tron ký ức
của nhân dân với những truyền thuyết và di tích có ý nghĩa, nhất là những
vùng chiến trận xưa kia. Những di tích, nghi lễ và truyền thuyết đó không
những nói lên niềm tự hào, lòng biết ơn của nhân dân với những người có
công cứu nước mà còn phản ánh tính nhân dân sâu rộng của cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV nói chung và trận Tốt Động - Chúc Động
nói riêng. Sự vùng dậy và tham gia, ủng hộ về mọi mặt của nhân dân là nguồn
bổ sung đội ngũ nghĩa binh, là cơ sở hậu cần tại chỗ, là lực lượng phục vụ
chiến đấu và là điều kiện đảm bảo thắng lợi cho lối đánh mai phục.
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động được ghi vào lịch sử chống ngoại

xâm của dân tộc ta như một trận quyết chiến oanh liệt, một trong những mẫu
mực điển hình của lối đánh “lấy ít thắng nhiều” của quân dân ta.
2.1.3. Nghệ thuật quân sự
Trận phục kích Tốt Động - Chúc Động năm 1426, do nghĩa quân Lam
Sơn thực hiện đã làm phá sản kế hoạch phản công chiến lược của quân xâm
lược nhà Minh, làm cho chúng rơi vào thế cùng quẫn, phải cầu cứu viện binh.
Đây là trận đánh điển hình với nhiều nét nghệ thuật đặc sắc về hiệu suất tiêu
diệt địch trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta.
Vào cuối năm 1426, sau những thất bại liên tiếp, quân Minh phải co về
cố thủ trong thành Đông Quan để chờ cứu viện. Sau khi sang tăng viện,
Vương Thông - Tổng Chỉ huy quân Minh - đã tập trung lực lượng thực hiện
âm mưu phản công chiến lược, nhằm tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta đang
hoạt động xung quanh thành Đông Quan, giành thế chủ động, rồi tiến đánh cơ
quan đầu não nghĩa quân Lam Sơn, dập tắt cuộc khởi nghĩa. Nắm chắc ý đồ
đó, mặc dù lực lượng ít, Nghĩa quân đã phát huy cao độ thế tiến công, chủ
động đánh nhiều trận, tiêu diệt lớn lực lượng địch, đặt chúng vào thế hoàn

18


toàn bị động về chiến lược. Với trận phục kích Tốt Động - Chúc Động, Nghĩa
quân đã tiêu diệt hơn 05 vạn tên địch, thu nhiều ngựa và khí giới; bẻ gãy toàn
bộ cuộc phản công, buộc địch phải cố thủ trong thành Đông Quan chờ viện
binh một lần nữa. Trận đánh đã để lại nhiều bài học quý về nghệ thuật phục
kích tiêu diệt lớn quân địch, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
1. Tạo, lập thế trận phục kích chắc, hiểm, linh hoạt, thực hiện thắng lợi
trận quyết chiến.
Sau khi được tăng viện, lực lượng quân Minh ở khu vực thành Đông
Quan lên đến hơn 09 vạn tên. Với lực lượng hùng hậu này, Vương Thông chia
quân thành 03 đạo, chiếm lĩnh bến Cổ Sở, khu vực Thanh Oai và cầu Sa Đôi,

tạo bàn đạp cho cuộc phản công chiến lược. Trước thế giặc mạnh, nghĩa quân
Lam Sơn chủ trương: tránh chỗ mạnh của địch nhưng kiên quyết giữ vững thế
tiến công, từng bước bẻ gãy các mũi tiến công của chúng, tạo lập thế trận
chắc, hiểm để tiêu diệt lớn, làm phá sản kế hoạch phản công của địch. Thực
hiện kế sách này, một mặt quân ta chia nhau giữ vững những nơi hiểm yếu;
mặt khác, tổ chức đánh nhiều trận tiêu diệt địch ở Cổ Lãm, căn cứ Thanh Oai;
uy hiếp, buộc địch phải bỏ cầu Sa Đôi rút về thành Đông Quan. Đến lúc này,
thế trận phản công của địch đã bị thu hẹp, nếu muốn tiến đánh căn cứ của ta ở
Cao Bộ, địch chỉ còn điểm xuất phát duy nhất từ Cổ Sở và chỉ có thể tiến
quân theo hai đường: Ninh Kiều - Chúc Động - Tốt Động - Yên Duyệt - Cao
Bộ; Ninh Kiều - Chúc Động - Đại Ơn - Cao Bộ. Như vậy, với các hoạt động
chiến đấu tạo thế, quân ta đã hình thành thế trận phục kích chắc, hiểm và linh
hoạt từ Chúc Động đến Tốt Động, nhử giặc đến để đánh trận quyết định. Đây
là tài nghệ có một không hai của Bộ chỉ huy Nghĩa quân; đồng thời, là nhân tố
quyết định đến thắng lợi của trận đánh. Bởi lẽ, con đường “thượng đạo” (dài
khoảng 06 km) chạy ngang qua phía Tây cánh đồng Tốt Động là đường duy
nhất để đạo chính binh của Vương Thông tiến quân vào phía trước căn cứ của

19


×