Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.88 KB, 178 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------------

NGUYỄN THỊ HẢO

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI VÀ ỔN ĐỊNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------------

NGUYỄN THỊ HẢO

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI VÀ ỔN ĐỊNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 9.22.90.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Đặng Hữu Toàn

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
u

tr
r

t

s

t

N

t u

t

u

t
r


s

u
tr

u

tru

u



tr

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Hảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN..................................................................................................................................6

1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến một số vấn đề lý luận về mối quan
hệ giữa đổi mới và ổn định............................................................................................... 6
1.1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm về đổi mới, ổn định.....6
1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa đổi mới và
ổn định..........................................................................................................................11

1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến thực trạng giải quyết mối quan hệ
giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới...........................................16
1.2.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến việc đánh giá những thành tựu
giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam......................................16
1.2.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến việc đánh giá những hạn chế
trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam............................21
1.3. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến phương hướng, giải pháp nhằm
giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam.....................24
1.4. Đánh giá về các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu................................................................................................... 28
1.4.1. Đánh giá về các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.............................28
1.4.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án........................................30
Chƣơng 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI VÀ
ỔN ĐỊNH................................................................................................................................32

2.1. Quan niệm về đổi mới và ổn định............................................................................32
2.1.1. Quan niệm về đổi mới........................................................................................32
2.1.2. Quan niệm về ổn định........................................................................................37
2.2. Mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định......................................................................44
2.2.1. Đổi mới và ổn định là hai mặt gắn bó với nhau trong sự vận động, phát
triển của đời sống xã hội..............................................................................................44
2.2.2. Đổi mới là phương thức để phát triển, là tiền đề cho ổn định...........................46
2.2.3. Ổn định là điều kiện, môi trường cho đổi mới...................................................49


2.2.4. Phát triển với tư cách mục tiêu của đổi mới và ổn định....................................53
2.3. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi
mới và ổn định vì mục tiêu phát triển.............................................................................57
Tiểu kết chương 2................................................................................................................ 66
Chƣơng 3 MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI VÀ ỔN ĐỊNH Ở VIỆT NAM

TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA.....68

3.1. Một số thành tựu trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn
định ở Việt Nam thời kỳ đổi mới....................................................................................68
3.1.1. Giữ vững ổn định trên các lĩnh vực của đời sống xã hội - điều kiện, môi
trường thúc đẩy quá trình đổi mới thành công.............................................................68
3.1.2. Tăng cường đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội - tiền đề cho sự
ổn định vững chắc, lâu dài...........................................................................................77
3.2. Một số hạn chế trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định
ở Việt Nam thời kỳ đổi mới............................................................................................89
3.2.1. Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện - hệ quả dẫn đến sự thiếu vững chắc
trong ổn định xã hội..................................................................................................... 90
3.2.2. Sự mất ổn định trong các lĩnh vực - một yếu tố cản trở đổi mới.......................95
3.3. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế và một số vấn đề đặt ra trong quá
trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam..............................101
3.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế................................................101
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và
ổn định ở Việt Nam....................................................................................................108
Chƣơng 4 PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT CÓ HIỆU
QUẢ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI VÀ ỔN ĐỊNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 117

4.1. Phương hướng nhằm giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới và ổn
định ở Việt Nam hiện nay.............................................................................................117
4.1.1. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định..............................................................117
4.1.2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình giải quyết mối quan
hệ giữa đổi mới và ổn định........................................................................................120


4.2. Một số giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới và ổn

định ở Việt Nam hiện nay.............................................................................................124
4.2.1. Nâng cao nhận thức của Đảng, Nhà nước và nhân dân về mối quan hệ giữa
đổi mới và ổn định.....................................................................................................124
4.2.2. Kết hợp giữa đổi mới và ổn định vì sự phát triển toàn diện, hài hoà trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội...........................................................................128
4.2.3. Tạo nguồn lực trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn
định.............................................................................................................................139
Tiểu kết chương 4.............................................................................................................. 146
KẾT LUẬN...........................................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN....................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................152


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Đổi mới và ổn định là hai mặt của một vấn đề có tính quy luật trong
quá trình phát triển xã hội. Do vậy, nhận thức cũng như vận dụng đúng mối
quan hệ giữa đổi mới và ổn định trong quá trình phát triển xã hội có ý nghĩa
quan trọng đối với công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu phát triển bền vững,
phát triển vì con người ở Việt Nam hiện nay.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chọn phương thức đổi mới để phát triển đất nước, tạo tiền đề
cho sự ổn định cần thiết của xã hội. Trong quá trình đó, vấn đề đổi mới, ổn
định và phát triển ở nước ta luôn nhất quán với định hướng xã hội chủ
nghĩa, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
d
triể

t

ă

ớc trong thời k

qu

ộ lên ch

ĩ

ơ

ĩ

ội (Bổ sung và phát

2011) của Đảng nhấn mạnh “phải đặc biệt chú trọng nắm vững

và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn”; trong đó, giải quyết m i quan h
gi

ổi mới, ổ

ịnh và phát triển đóng vai trò nền tảng cho việc giải

quyết các mối quan hệ khác.
Trên thực tế, sau hơn 30 năm kiên trì đường lối đổi mới, đất nước ta
đã thu được “nh ng thành t u to lớ ,

ý


ĩ

ịch s ”[34, tr.16]. Nhờ

đường lối, chính sách đúng đắn trong quá trình đổi mới, chúng ta đã vực dậy
một nền kinh tế kém phát triển, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, đưa đất
nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào nhóm những
nước có thu nhập trung bình. Bên cạnh đó, chúng ta đã duy trì được một nền
chính trị ổn định, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thực hiện đổi mới
thành công. Văn hoá, xã hội và các lĩnh vực khác của đời sống đạt nhiều thành
tựu đáng kể. Cũng nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
cải thiện rõ rệt. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta từng bước được làm sáng tỏ về
phương diện lý luận và đang dần được thực hiện trên
1


thực tiễn.
Song, bên cạnh những thành quả đạt được, trong quá trình đổi mới, đất
nước ta cũng gặp phải không ít hạn chế, yếu kém với những khó khăn, trở
ngại vô cùng phức tạp, có nguy cơ mất ổn định cho tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, như kinh tế, chính trị, văn hoá,… Thực tiễn cho thấy, trong
những năm qua, nền kinh tế của Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ, nhưng
sự phát triển đó chưa ổn định, phát triển chưa đạt yêu cầu và đang có nguy cơ
tụt hậu so với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hình thành đầy đủ cùng với nhiều
bất ổn như lạm phát, nợ công… Nhìn tổng thể, hệ thống chính trị ở nước ta
tương đối ổn định, song thực tế, mặc dù thường xuyên tiến hành đổi mới
nhưng cho đến nay, hệ thống chính trị của đất nước vẫn còn cồng kềnh và

hoạt động chưa hiệu quả. Cùng với đó, tệ quan liêu, tham nhũng và tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên lại có nguy cơ gia tăng làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội
và làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước,
gây ra những hoài nghi cho nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Hơn nữa, các thế lực phản động vẫn ra sức thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình” và nhiều hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của nước
ta với các hình thức, “chiêu bài” ngày càng tinh vi… Tất cả những vấn đề đó,
ở mức độ này hay mức độ khác đều sẽ là lực cản cho công cuộc đổi mới và
phát triển ở nước ta.
Hiện nay, quá trình xây dựng và phát triển đất nước vẫn đang đặt ra yêu
cầu, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vừa phải tiến hành đổi mới để đạt
được mục tiêu phát triển trên mọi mặt của đời sống xã hội, phù hợp với xu thế
phát triển chung của thời đại; vừa phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội để
đảm bảo sự phát triển một cách bền vững, không phá vỡ những quy luật
chung. Do đó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải tiếp tục đổi mới như thế nào để
vừa đạt được mục tiêu phát triển, vừa không phá vỡ sự ổn định chung của xã
2


hội. Chúng ta phải làm sao để sự ổn định của xã hội hiện thời không trở thành
yếu tố cản trở, kìm hãm quá trình đổi mới, phát triển trong tương lai. Chúng ta
nên đổi mới theo chiều rộng hay theo chiều sâu, đổi mới trên những lĩnh vực
nào, với mức độ ra sao thì phù hợp; giữ vững ổn định đến đâu thì không làm
cho đất nước rơi vào trì trệ? Kết hợp đổi mới với ổn định như thế nào thì tránh
được mâu thuẫn, đối lập; đổi mới như thế nào thì tạo được sự phát triển?... Đó
là hàng loạt câu hỏi, hàng loạt vấn đề đang đặt ra cho công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Và những câu hỏi, những vấn đề này cần phải được tiếp tục
nghiên cứu, làm rõ và tìm ra hướng giải quyết trong thời gian tới.
Với tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn của vấn đề như trên, chúng

tôi lựa chọn “M i quan h gi ổi mới và ổ ịnh ở Vi t Nam hi ” làm đề tài nghiên
cứu Luận án tiến sĩ Triết học, nhằm góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam qua
hơn 30 năm đổi mới; đồng thời, đề xuất một số giải pháp để giải quyết hiệu
quả mối quan hệ này trong thời gian tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Từ những luận giải lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định,
luận án phân tích làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở
Việt Nam qua hơn 30 năm đổi mới để trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và
giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả mối quan hệ này trong những năm đổi
mới tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Th nh t, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, luận án về
mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam hiện nay.
Th

hai, luận giải một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa đổi

mới và ổn định.
Th

ba, phân tích thực trạng (thành tựu và hạn chế) giải quyết mối quan
3


hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam qua hơn 30 năm đổi mới, nguyên nhân
của thực trạng đó và một số vấn đề đang đặt ra.
Th t , đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết hiệu quả mối
quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam trong những năm đổi mới tiếp theo.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là mối quan hệ giữa đổi mới và
ổn định ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi nghiên c u về không gian của đề tài luận án là ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên c u về thời gian của đề tài luận án là trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam (từ năm 1986 đến nay).
Phạm vi nghiên c u về nội dung của đề tài luận án là mối quan hệ giữa đổi
mới và ổn định trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội như lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận
án 4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể là vận dụng phép biện chứng duy vật, quan
niệm duy vật về lịch sử làm cơ sở giải quyết những vấn đề nghiên cứu trong luận
án.
- Luận án xuất phát từ quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam để phân tích, luận giải về thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và
ổn định ở Việt Nam qua hơn 30 năm đổi mới.
- Ngoài ra, luận án còn kế thừa các thành tựu nghiên cứu khoa học trong
và ngoài nước đã được công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện, luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, như phương pháp
4


phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hoá, phương

pháp tiếp cận liên ngành trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa đổi
mới và ổn định ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Th nh t, trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận chung về mối quan hệ
giữa đổi mới và ổn định, luận án đi đến khẳng định giữa đổi mới và ổn định ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là mối quan hệ biện chứng.
Th hai, luận án bước đầu phân tích thực trạng (thành tựu và hạn chế) mối
quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam qua hơn 30 năm đổi mới, chỉ rõ
nguyên nhân của thực trạng đó và xác định một số vấn đề hiện đang đặt ra.
Th ba, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp mang tính định hướng
nhằm giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam
trong những năm đổi mới tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án góp phần hoàn thiện hơn cách hiểu về mối quan hệ giữa đổi mới
và ổn định nói chung và mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam hiện
nay nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho việc tư vấn hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước,
cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới
và ổn định và sự vận dụng mối quan hệ này vào thực tiễn ở Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác
giả và tài liệu tham khảo, luận án được trình bày trong 4 chương, 12 tiết.

5



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Tầm quan trọng của đổi mới và ổn định từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm, xác định là một trong các nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã chính thức
đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Cùng với đó, Đảng cũng coi ổn định
xã hội là nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát “trong những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên”. Kể từ đó đến nay, nhận thức về đổi mới và ổn định ở Việt
Nam cũng không ngừng được hoàn thiện trong sự phát triển chung của đất nước.
Trên lĩnh vực nghiên cứu, trong những năm qua (từ 1986 đến nay, đặc biệt là
15 năm trở lại đây), đã có nhiều công trình bàn đến vấn đề đổi mới, ổn định nói
chung, đổi mới và ổn định ở Việt Nam nói riêng từ những góc độ với mức độ khác
nhau. Trước những nghiên cứu đa dạng như vậy, chúng tôi tiếp cận các tài liệu có
liên quan đế đề tài chủ yếu theo các nhóm vấn đề chính sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến một số vấn đề lý luận về mối
quan hệ giữa đổi mới và ổn định
Đổi mới và ổn định là vấn đề của nhiều ngành nghiên cứu như triết học, chính
trị học, giáo dục học… Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, các vấn đề lý luận
về mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam ngày càng trở nên rõ nét. Trước
hết, phải kể đến các công trình nghiên cứu đề cập đến quan niệm về đổi mới, ổn
định.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm về đổi mới, ổn
định
* Các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm về đổi mới
Trong cuốn Tri t h c và v ề ổi mới xã hội, tác giả Nguyễn Thế Nghĩa khi đưa
ra quan niệm về hi ại hóa đã cho rằng, ở những nước đang phát triển, hiện đại hóa
thực chất là quá trình ổi mới toàn di n, sâu sắc và tri t ể mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển lên một trạng thái mới về
chất[99]. Trong khi đó, tác giả Trần Nhâm, với cuốn Đổi mới và phát triển bền v ng

ới ng n cờ t t ởng c a giai c p công nhân [101] lại đưa ra quan niệm cụ thể về đổi
mới, rằng đó là quá trình rời bỏ khỏi mình những gì đang kìm hãm và cản trở sự
phát triển; tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một cáchhệ thống
đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển vượt

6


bậc. Theo tác giả, đổi mới tư duy - một lĩnh vực của đổi mới là điểm khởi đầu của
hành trình đổi mới. Đổi mới tư duy có vai trò định hướng cho việc đổi mới hoạt
động thực tiễn của con người, mở đường cho việc đổi mới trên các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội. Tác giả cho rằng, đổi mới tư duy chính là một cuộc giải phóng
về tư tưởng, thoát khỏi căn bệnh giáo điều và những điều không giải thích đ úng của
người khác về chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, trong quá trình đổi mới, cần ngăn
ngừa những chao đảo, ngả nghiêng, chệch hướng rơi vào chủ nghĩa xét lại [101].
Cuốn Đổi mới - B ớc phát triển t t y u ĩ ội ở Vi t Nam của tác giả Nguyễn
Khánh lại đưa ra một số ý kiến phân tích ở tầm vĩ mô về sự cần thiết, khách quan
của đổi mới và khẳng định, đổi mới chính là bước phát triển tự nhiên, tất yếu của
cách mạng Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo tác giả, đổi mới
có thể hiểu một cách chung nhất là thay đổi cái cũ không còn phù hợp bằng cái mới
tốt hơn. Tác giả cũng cho rằng, đổi mới ở nước ta là sự thay đổi tiến bộ ở tầm vĩ mô,
thay đổi có ý nghĩa hệ thống, từ nhận thức đến chủ trương và tổ chức hành động
[64].
Khác với quan điểm trên của tác giả Nguyễn Khánh, trong cuốn Cải cách và
s phát triển, tác giả Nguyễn Trần Bạt lại phân biệt đổi mới với cải cách và cách
mạng để từ đó, làm rõ bản chất và mục tiêu của cải cách. Theo tác giả, đổi mới là
công việc diễn ra hàng ngày mà bất kỳ sự vật, hiện tượng, cá nhân, cộng đồng và
dân tộc nào cũng luôn trải qua như là bản năng để tự thích nghi với những thay đổi
của môi trường sống [9].
Về vấn đề đổi mới ở nước ta, tác giả Nguyễn Trọng Phúc, trong cuốn Một s

kinh nghi m c
Đảng Cộng sản Vi t N
tr
qu tr
ạo s nghi p ổi
mới khẳng định, đến thời điểm chuẩn bị Đại hội VI của Đảng, từ “đổi mới” được
dùng nhiều trong một số bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng ta để chỉ
cuộc cải cách lớn về đường lối, chính sách, về cách nghĩ, cách làm của Đảng lãnh
đạo và nhân dân để đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đổi mới ở đây không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm cho
m c tiêu ợc th c hi n có hi u quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã
hội [109].
Nói đến đổi mới, khi phân tích vai trò của ổn định chính trị - xã hội, cuốn Ổn
ịnh chính trị - xã hội trong công cuộ ổi mới ở Vi t Nam, tác giả Nguyễn Văn Cư
cho rằng, ổi mới là một quá trình vận động của những mâu thuẫ
e a cái ũ v
ới, gi a cái bảo th , trì tr với cái ti n bộ, vă
, as
ều
và sáng tạo. Đây cũng là quá trình đấu tranh gay go, lâu dài, phức tạp nhằm đem lại

7


thắng lợi cho cái mới, cái tiến bộ…, là sự thay đổi có ý nghĩa hệ thống từ nhận thức,
chủ trương đến tổ chức và hành động [Xem: 18, tr.46].
Trong cuốn Đổi mới và phát triển ở Vi t Nam: Một s v
ề lý lu n và th c
tiễn [138], các tác giả đã đưa ra một số khái niệm cơ bản như đổi mới, phát triển;
quy luật khách quan của vấn đề đổi mới, phát triển; bối cảnh ra đời, quá trình hình

thành, phát triển đường lối đổi mới ở Việt Nam. Các tác giả còn đề cập đến vấn đề
đổi mới và phát triển trong một số lĩnh vực chủ yếu trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, như đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, đổi mới văn hoá xã hội… Các tác giả khẳng định, đổi mới có cả mục tiêu lý luận và mục tiêu thực
tiễn. Về lý lu n, đổi mới nhằm xác lập hệ thống quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về th c tiễn, đổi mới để xã
hội xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập vững chắc. Hai mục tiêu đó có quan hệ
biện chứng với nhau: Mục tiêu lý luận phục vụ cho mục tiêu thực tiễn; mục tiêu
thực tiễn vừa là yêu cầu, là đòi hỏi nâng cao chất lượng mục tiêu lý luận, vừa là
phương thức kiểm tra thành quả đạt được của mục tiêu lý luận[138].
Cuốn Tri t h
v ổi mới trình bày những suy ngẫm, kiến giải của tác giả về
một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách từ giác độ triết học, như vấn đề ổi mới
nh n th c về ch
ĩ
ội và thời k qu ộ, vấn đề ổi mới nh n th
c về th
gi v
í s
i ngoại…; từ đó, chỉ ra một số đặc điểm của quá trình đổi mới

ở Việt Nam. Tác giả cũng đã phân biệt đổi mới với cải cách rằng, cải cách tuy cũng
tạo ra sự thay đổi về chất trong đời sống xã hội, nhưng chỉ tạo nên những biến đổi
riêng lẻ, bộ phận, còn đổi mới bao hàm cả nội dung cải cách nhưng là sự thay đổi
toàn diện dẫn đến thay đổi mô hình phát triển. Từ việc làm rõ khái niệm đổi mới, tác
giả còn chỉ ra tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và khẳng định, trong
quá trình đổi mới, Việt Nam tham khảo những bài học kinh nghiệm của cải tổ
ở Liên xô, cải cách ở Đông Âu, Trung Quốc và các nước khác, nhưng không rập
khuôn, áp dụng máy móc, mà có những chủ trương và cách làm khác. Đó cũng
chính là đặc điểm của quá trình đổi mới ở Việt Nam [48].
Trong cuốn Về các m i quan h lớn cầ ợc giải quy t t t trong quá trình ổi mớ ĩ

ội ở ớc ta do GS.TS. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên),
các tác giả khẳng định rằng, khó có thể có một định nghĩa duy nhất, chính xác tuyệt

đối về đổi mới. Đổi mới chính là quá trình nhằm làm cho h th t ổi từ trạng t ũ s
trạng thái mới, ti n bộ ơ . Đó là một cuộc đấu tranh giữa cái mới tiến
bộ hơn với cái cũ lạc hậu, giữa năng động, sáng tạo với bảo thủ, trì trệ [Xem: 139,


tr.9-15]. Cụ thể hơn, trong cuốn Giả p

, ổi mới, phát triển vì ch

8

ĩ

ội


nhấn mạnh, thực chất của đổi mới là tạo sự thay đổi cho căn bản phù hợp với những
điều kiện, hoàn cảnh mới, làm cho thích nghi với những điều kiện, hoàn cảnh mới
để tiếp tục tồn tại và phát triển. Đổi mới cũng là định hướng và vươn tới cái mới.
Các tác giả cũng lý giải thêm về các khái niệm có như “canh tân”, “cách tân” hay
“cải cách” và cho rằng đó đều là những nội dung quan trọng của đổi mới khi hiểu
đổi mới theo nghĩa rộng, nghĩa là mang tính tổng thể và trên một quy mô lớn. Còn
canh tân, cách tân, cải cách thường đề cập đến đổi mới các lĩnh vực cụ thể và trong
phạm vi hẹp hơn [62].
Liên quan đến khái niệm đổi mới, còn có khái niệm “kế thừa”. Tác giả
Nguyễn Văn Lý, trong K thừ v ổi mới các giái trị ạ c truyền th ng trong quá trình
chuyển sang nền kinh t thị tr ờng ở Vi t Nam, cho rằng, đổi mới và kế thừa gắn bó

chặt chẽ với nhau trong sự phát triển của sự vật, nhưng không đồng nhất nhau. Bởi
bản thân phạm trù đổi mới có tính độc lập tương đối của nó. Đổi mới nói chung, là
sự thay thế cái cũ bởi cái mới có chất lượng cao hơn[81]. Các tác giả còn khẳng
định tính tất yếu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta; đánh giá những kết quả bước đầu
của sự nghiệp đổi mới và chỉ ra những bài học kinh nghiệm về tiến hành công cuộc
đổi mới. Theo tác giả, đổi mới là lôgíc tất yếu của cuộc sống, vì thế, đổi mới là yêu
cầu tất yếu trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam
phải bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận để tạo nền tảng cần thiết cho đổi mới thực
tiễn.
Martin Gainsborough, Vietnam: Rethinking the State, Zed Books (September
15, 2010). Cuốn sách đã đưa ra một cái nhìn thú vị về nền chính trị tại Việt Nam,
qua đó, tác giả phân tích quá trình chuyển đổi từ một nền “kinh tế ngược” sang một
xã hội năng động và hiện đại. Cuốn sách còn đề cập đến sự tranh cãi về khái niệm
cải cách, đồng thời tác giả trang bị những hiểu biết sâu sắc hơn cho người đọc về
vai trò của các yếu tố ngoài nhà nước trong quá trình đổi mới. Dưới con mắt của
một nhà nghiên cứu nước ngoài, quá trình đổi mới của Việt Nam được phân tích từ
góc độ chính trị đã mang đến những đánh giá khách quan trong sự nghiệp phát triển
ở Việt Nam trong những năm gần đây [160].
Ngoài các công trình sách kể trên, liên quan đến những quan niệm về đổi
mới, còn một số bài nghiên cứu đăng trên các Tạp chí khoa học bàn về vấn đề đổi
mới, phát triển. Chẳng hạn, bài V
ộng, phát triển, ti n bộ vớ t
là nh ng
phạm trù tri t h c (Phạm Văn Đức, 1997) đã khái quát một số cách hiểu khác nhau
trong giới triết học mácxít hiện đại về phạm trù vận động, phát triển, tiến bộ; bài
Đổi mớ t u tr s nghi p ổi mới toàn di t ớc (Nguyễn Duy Quý,

9



1998), làm rõ năm bước chuyển tư duy trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất
nước; bài Đổi mới - linh hồn c t t ởng Hồ Chí Minh (Tạp chí Triết học, số 6, 2003),
tác giả Đỗ Huy đã trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về đổi mới…
* Các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm về ổn định
Tác giả Vũ Văn Hiền, trong bài Ổn ịnh xã hội và vai trò c i với s nghi p công
nghi p hoá - hi n ạ t ớc (Tạp chí Triết học, số 2/1997) đã
nêu ra một số vai trò củaổn định xã hội đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và đối với sự
phát triển xã hội nói chung. Các vai trò như: 1/ Tạo điều kiện cho xã hội tự khẳng định bản chất của
mình; 2/ tạo điều kiện tốt hơn cho quá trình đổi mới, phát triển tiếp theo; 3/ kế thừa, bảo vệ được những
giá trị tích cực của truyền thống; 4/ tạo điều kiện tốt hơn cho sự xuất hiện những mối quan hệ quốc tế...

[46].
Cuốn Tri t lý phát triển:

M ,P Ă

e ,VIL

, Hồ Chí Minh của

Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) phân tích quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về triết lý phát triển; trong đó, khi nói về vận động trong
cân bằng, tác giả cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều ở trong quá trình vận động
không ngừng và quá trình đó bao hàm cả sự đứng im tương đối. Thiếu sự đứng im
tương đối này, mọi sự vật, hiện tượng sẽ không thể tồn tại và phát triển [60].
Trong cuốn Một s giải pháp góp phần ổ ịnh và phát triển ở Tây Nguyên hi n
nay, các tác giả đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn về ổn định chính trị; những
nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và những vấn đề đặt ra trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Tây nguyên; từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần
giữ vững ổn định chính trị vùng này trong giai đoạn hiện nay. Các tác giả cho rằng,

nói một cách khái quát, ổn định chính trị là giai cấp cầm quyền phải giữ vững và
tăng cườngđược quyền lực chính trị của mình, nhà nước của giai cấp đó phải mạnh
và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ
vững [44].
Trong Ổ ịnh chính trị - xã hội trong công cuộ ổi mới ở Vi t Nam, tác giả
Nguyễn Văn Cư trình bày các vấn đề như ổn định chính trị - xã hội, vai trò của ổn
định chính trị - xã hội đối với công cuộc đổi mới đất nước; nêu lên thực trạng ổn
định chính trị - xã hội nước ta trong công cuộc đổi mới và phương hướng, giải pháp
tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI
[Xem:18, tr.20]. Về ổ ịnh chính trị - xã hội, theo tác giả, đó là trạng thái xã hội có sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất; giữa
kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng của xã hội, và sự phù hợp cơ bản


10


đó biểu hiện trên thực tế là sự thống nhất giữa những lợi ích cơ bản của giai cấp
cầm quyền với lợi ích của đại đa số thành viên trong xã hội trong những điều kiện
lịch sử cụ thể [Xem: 18, tr.38-39].
Cuốn Về các m i quan h lớn cầ
ợc giải quy t t t tr
qu tr
ổi mới
ĩ
ội ở ớc ta cũng đề cập đến khái niệm ổn định và vai trò, ý
nghĩa của ổn định với sự phát triển cũng như điều kiện để đảm bảo sự ổn định đó.
Theo tư duy triết học và tổng kết từ thực tiễn thì ổn định là trạng thái hài hòa giữa
các yếu tố phát triển; nó mang tính tương đối và tính động. Sự ổn định gắn liền với
con người và xã hội; nó tồn tại trên cơ sở bảo đảm vững chắc các mối quan hệ xã

hội, bảo đảm công bằng, bình đẳng, kỷ cương, kỷ luật và tâm lý xã hội cùng phát
triển theo luật pháp. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng, không bao giờ được xem nhẹ vai
trò, giá trị của ổn định trong phát triển. Ổn định mang cả giá trị kinh tế lẫn giá trị
chính trị, xã hội. Ổn định cũng chỉ có được trong điều kiện dân chủ và kỷ cương, từ
đó giữ vững niềm tin của nhân dân vào những người lãnh đạo, quản lý. Đó chính là
điều kiện cho sự ổn định bền vững [Xem: 142, tr.16-18].
Bài Về quan h gi a ổ ịnh và phát triển trong thời k ổi mới, PGS.TS. Bùi Tất
Thắng (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016) xem xét ổn định hiểu theo nghĩa rộng,
toàn diện, bao gồm cả ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn
định xã hội; bài Một s v
ề về ổ ị v p t tr ể ề v
ộ í trị
của GS.TS.Trần Văn Phòng (2017) phân tích mối quan hệ giữa ổn định xã hội và
phát triển bền vững của chế độ chính trị, đưa ra tiêu chí xác định và điều kiện đảm
bảo ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị. Theo tác giả, “ổn định của
chế độ chính trị là trạng thái hài hoà, cân đối giữa các yếu tố, bộ phận trong chế độ
chính trị và giữa chế độ chính trị với chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v của một
quốc gia trong những điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định” [Xem: 131, tr.69-76].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa đổi mới và
ổn định
Trong Một s v ề về m i quan h gi a ổ ịnh xã hội và công nghi p hóa, hi ại hóa
ở ớc ta hi n nay, tác giả Vũ Văn Hiền phân tích mối quan hệ
giữa ổn định và phát triển, rằng đổi mới - ổn định - phát triển thống nhất biện chứng
với nhau và là những mắt khâu trong sự vận động, tiến bộ xã hội, phù hợp với xu
hướng của thời đại: Hòa bình - hữu nghị - ổn định - hợp tác cùng phát triển. Theo
tác giả, trạng thái ổn định xã hội cũng là kết quả của sự kết hợp giữa nhân tố chủ
quan và quy luật khách quan trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nếu hoạt
động của con người phù hợp với quy luật khách quan thì xã hội sẽ vận động, phát

11



triển trong trạng thái cân bằng, trật tự, ổn định. Ngược lại, khi hoạt động của con
người đi ngược lại quy luật thì sớm muộn sẽ dẫn tới hậu quả xã hội mất ổn định, rối
ren, khủng hoảng [Xem: 46, tr.7].
Cuốn Đổi mới và phát triển ở Vi t Nam: Một s
v
ề lý lu n và th c tiễn
phân tích đổi mới, ổn định và phát triển trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Các tác giả cho rằng, đổi mới là nhằm mục tiêu
phát triển, nhưng trong quá trình đổi mới đó, luôn xuất hiện những nguy cơ gây mất
ổn định, gây ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của xã hội. Ổn định là tiền đề cho
đổi mới và phát triển. Và chính đổi mới, phát triển lại tạo cơ sở cho môi trường xã
hội ổn định[140].
Trong V
ề sở h u và phát triển bền v ng ở Vi t Nam và Trung Qu c
nh
ă
ầu th kỷ XXI, do PGS.TSKH. Lương Việt Hải (chủ biên), tác giả
Dương Quốc Học cho rằng, ở Trung Quốc, một trong những điểm thống nhất giữa
quan điểm phát triển khoa học, quan điểm phát triển hài hoà, quan điểm cải cách
khoa học là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giữa đổi mới, ổn định, phát triển
và cải cách. Mức độ cải cách và tốc độ phát triển, mức độ đổi mới, trình độ ổn định
kết hợp với nhau, lấy cải cách để thúc đẩy phát triển, đổi mới, đảm bảo sự ổn định,
dùng cải cách triệt để và kinh tế thị trường, phòng chống tội phạm, hoá giải nguy
cơ. Tăng cường năng lực của thể chế kinh tế trong khi tiếp tục thúc đẩy cải cách
trên cơ sở duy trì ổn định và phát triển có lợi [Xem: 43, tr.227].
Cuốn Về các m i quan h lớn cầ
ợc giải quy t t t tr
qu tr

ổi
mớ
ên ch
ĩ
ội ở ớc ta (Nguyễn Phú Trọng (chủ biên), đã làm rõ mối
quan hệ cần giải quyết ở Việt Nam hiện nay, trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới,
ổn định và phát triển. Các tác giả phân tích mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển với tư cách mối quan hệ giữa phương thức, điều kiện và mục tiêu. Theo
các tác giả, đổi mới dẫn đến phát triển, mà có phát triển mới tạo ra được ổn định
tích cực và bền vững. Các tác giả cho rằng, ngay cả trong ổn định (theo nghĩa tích
cực) cũng tiềm ẩn một cách tất yếu, tự nhiên sự bất ổn định. Đổi mới tạo sự ổn định
tương đối và trong sự ổn định tương đối đó lại chứa đựng yêu cầu phải đổi mới để
phát triển cao hơn [Xem: 142, tr.40-43].
Các tác giả trong Giả p
, ổi mới, phát triển vì ch
ĩ
ội chỉ ra
mối quan hệ giữa giải phóng, đổi mới và phát triển. Theo các tác giả, đổi mới và
phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, từ nhiều góc độ như: Từ góc độ động
lực và mục tiêu, đổi mới là động lực, còn phát triển là mục tiêu của đổi mới. Từ góc
độ mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, đổi mới chủ yếu tạo ra số lượng và

12


tăng trưởng, còn phát triển phản ánh chất lượng. Sự tăng trưởng về số lượng phải
đến quy mô nhất định mới chuyển thành chất. Xét trong tiến trình vận động của lịch
sử xã hội, ở mức độ nhất định, mối quan hệ giữa giải phóng, đổi mới và phát triển là
các cấp độ khác nhau của quá trình vận động: Giải phóng là cấp độ thứ nhất, đổi
mới là cấp độ thứ hai và phát triển là cấp độ thứ ba. Xét trong mối quan hệ nhân quả thì đổi mới là công cụ, phương tiện đi đến phát triển. Còn phát triển là biểu hiện

của đổi mới có hiệu quả. Do đó, cần nghiên cứu đổi mới và phát triển trong mối
quan hệ với phạm trù ổn định xã hội [62].
Trong Về quan h gi a ổ ịnh và phát triển trong thời k
ổi mới, tác giả
Bùi Tất Thắng đề cập đến mối quan hệ giữa ổn định và phát triển, trong đó khẳng
định, quan hệ giữa ổn định và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Sự ổn định
trong quan hệ với phát triển ở đây được xem xét theo nghĩa rộng, toàn diện, bao
gồm cả ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định xã hội. Còn trong suốt cả
thời kỳ đổi mới, trong trạng thái bình thường của nền kinh tế, khía cạnh phát triển sẽ
giữ vị trí chủ đạo trong quan hệ với ổn định [131].
* Nghiên c u về phát triển vớ t c tiêu c ổi mới và ổ ịnh Trong Ti n bộ xã hội một s v ề lý lu n c p bách (2000), tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn trình bày những quan điểm tiêu biểu về tiến bộ xã hội trên cơ
sở so sánh, đối chiếu với một số khái niệm khác như vận động, phát triển… Các tác
giả chỉ ra rằng, phát triển là khái niệm chỉ quá trình thuần túy tự nhiên lẫn xã hội,
trong khi đó, nói đến xã hội, người ta thường hiểu là tiến bộ xã hội [Xem: 17]. Qua
khảo cứu các quan niệm về phát triển và tiến bộ, các tác giả cho rằng, khái niệm
phát triển bao quát phạm vi rộng hơn khái niệm tiến bộ. Khái niệm phát triển dùng
để chỉ cả quá trình thuần túy tự nhiên lẫn xã hội, trong khi đó, nói đến xã hội, người
ta thường hiểu là tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, với tư cách là một phạm trù triết học thì
phạm trù tiến bộ có nội hàm hẹp hơn so với phạm trù phát triển, tiến bộ chỉ là một
tiêu chí, một trình độ cao của sự phát triển. Do vậy, không phải mọi sự phát triển
trong xã hội đều được thừa nhận là tiến bộ xã hội.
Cuốn Tri t lý phát triể
M ,P Ă
e ,L
, Hồ Chí Minh, đã làm rõ
lý thuyết phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó khẳng định phát triển là
quy luật vốn có của tự nhiên; con đường tất yếu của xã hội; các chuẩn mực, yếu tố,
điều kiện, động lực của sự phát triển…; làm rõ triết lý của Hồ Chí Minh về một đất
nước phát triển và những giải pháp có tính nguyên tắc với việc thực hiện phát triển

đất nước [Xem: 60]. Cùng với đó, cuốn Tri t lý phát triển ở Vi t Nam - m y v

c t y u cũng khái quát những vấn đề lý luận về triết lý phát triển như quan niệm về

13


triết lý, triết lý phát triển; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về triết lý phát triển và triết lý phát triển thể hiện trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội [Xem: 93].
Đinh Văn Ân (chủ biên), trong Quan ni m và th c tiễn phát triển kinh t , xã
hội t ộ nhanh, bền v ng ch t ợng cao ở Vi t Nam, đã phân tích quan niệm và
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao trên thế giới; quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh,
bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để phát triển nhanh, bền vững và chất lượng cao. Tác giả phân tích sự phát triển quan
niệm về phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam sau 20 năm đổi mới từ 1986-2006. Theo tác giả, lúc đầu, quan niệm
phát triển bền vững nhấn mạnh việc giữ gìn môi trường trong tăng trưởng kinh tế còn về sau, vấn đề công bằng xã hội mới được nhắc tới. Cũng theo tác giả,
quan niệm phổ biến về phát triển bền vững trên thế giới lúc đó nhấn mạnh ba chiều cạnh là tăng trưởng kinh tế, gìn giữ môi trường và công bằng xã
hội[Xem: 4, tr.9-10].

PGS.TS Bùi Tất Thắng trong bài Về qu ổ ị v p t tr ể tr t ờ ổ ớ phân tích tất
yếu phải đổi mới ở Việt Nam cũng như mối quan
hệ giữa ổn định và phát triển biểu hiện qua các giai đoạn đổi mới ở Việt Nam. Tác
giả cho rằng, lâu nay, khi bàn về quan hệ giữa ổn định và phát triển, xu hướng
chung là nhấn mạnh sự ổn định, coi ổn định là tiền đề cần thiết để phát triển. Tuy
nhiên, trong thời kỳ đẩy mạnh đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống ở Việt
Nam như hiện nay, thì vấn đề đặt ra là phải ưu tiên cho phát triển, lấy phát triển làm
mục tiêu của đổi mới, và từ phát triển để duy trì sự ổn định của đất nước - ổn định
trong phát triển. Phát triển nhanh để Việt Nam không tụt hậu, để bước kịp sự phát
triển chung của trên thế giới, nhờ đó, tạo ra được nhiều cơ hội phát triển cho con
người và cũng vì thế mới tạo sự ổn định xã hội [Xem: 170].

Claes Brundenius, John Weeks, Globalization and Third-World Socialism:
u
V et
(Qu tr
t
ầu
v
ĩ
ộ ở
ớ t

t
: V t N - Cu Ba): Cuốn sách được viết bởi các chuyên gia quốc tế đề cập đến
quá trình toàn cầu hóa như là một yếu tố có tác động lớn đến quá trình hội nhập vào
nền kinh tế thế giới của các nước Xã hội chủ nghã đang phát triển, sau khi Liên Xô
sụp đổ. Cụ thể, các tác giả đã đi sâu vào phân tích các câu chuyện phát triển khác
nhau của Cu Ba và Việt Nam, nhất là các yếu tố về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vai
trò của hộ kinh tế gia đình, vai trò của đạo đức, thị trường lao động...[156].


14


Martin Rama - Trưởng nhóm chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Thế giới tại
Việt Nam, trong tiểu luận N qu t s ă : V t N tr ạ u ể ổ năm 2008, đã khái quát về quá
trình đổi mới ở Việt Nam thông qua
những sự kiện quan trọng từ những năm 1976 (trước đổi mới). Các cuộc thử nghiệm
“phá rào” trong nông nghiệp (việc giao đất cho nông dân và ký kết hợp đồng mua
bán trực tiếp với giá cao hơn giá quy định) chính là mầm mống của tư duy phải đổi
mới, trước hết là tư duy kinh tế trên quy mô lớn đã được thông qua trong Đại hội

Đảng VI (1986). Tác giả đánh giá tầm quan trọng của các quyết sách đổi mới và kết
quả mà Việt Nam đạt được thông qua các quyết sách đó[172]. Tác giả cho rằng,
chương trình cải cách chính sách ở Việt Nam hiện nay đang chuyển từ các cuộc cải
cách cơ cấu (cần thiết cho việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ
chế thị trường), sang các cuộc cải cách thể chế, cần thiết để duy trì tốc độ tăng
trưởng. Tuy nhiên, tác giả cũng đề cập đến vấn đề đáng lo ngại cho công cuộc đổi
mới ở Việt Nam đó là cải cách hành chính công, cụ thể là vấn đề chống tham nhũng,
hối lộ… đang trở thành rào cản khó kiểm soát.
Tiến sĩ Giáp Văn Dương (Đại học Liverpool, Anh) trong loạt bài bàn về mô
hình phát triển phù hợp cho Việt Nam có bài viết Vi t Nam và l a ch n mô hình phát
triển khác Trung Qu c. Trong mối quan hệ giữa ổn định và phát triển, nếu như
Trung Quốc lựa chọn mô hình ổn định để phát triển thì Việt Nam lựa chọn mô hình
phát triển để ổn định, tức là phát triển được ưu tiên, làm tiền đề cho ổn định. Tác giả
cho rằng, mô hình cải cách của Trung Quốc là cải cách từ trên xuống, trong đó ưu
tiên ổn định trước và dùng ổn định như là tiền đề cho mọi chính sách đổi mới, phát
triển. Còn đối với Việt Nam, tuy có những giai đoạn chúng ta cũng ưu tiên ổn định,
nhưng trong tình hình hiện nay, Việt Nam nên chọn mô hình bước đi từ dưới lên, đi
từ phát triển đến ổn định. Nghĩa là, với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam, chúng ta
nên lấy phát triển là mục tiêu hướng tới; đồng thời giữ vững ổn định nói
chung[173].
Qua khảo cứu một số công trình nghiên cứu cho thấy, các công trình tiếp cận
những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định, phát triển từ nhiều
góc độ, phương diện khác nhau, như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Các công
trình này đã đưa ra những cách hiểu khác nhau về ổn định, đổi mới, phát triển, về ổn
định trong xã hội, đổi mới trong xã hội; về mối quan hệ giữa đổi mới và phát triển,
mối quan hệ giữa ổn định và phát triển hay mối quan hệ cặp ba đổi mới, ổn định,
phát triển. Nhất là từ sau Đại hội XI của Đảng, các tác giả tập chung bàn về tính
biện chứng trong mối quan hệ cặp ba đổi mới, ổn định và phát triển như là

15



mối quan hệ cần chú trọng đầu tiên khi giải quyết 8 mối quan hệ mà Đảng ta đề ra.
1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến thực trạng giải quyết mối quan
hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
1.2.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến việc đánh giá những thành
tựu giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới và ổn định ở Việt Nam
Cuốn sách Đổi mới kinh t - xã hội: Thành t u, v
ề và giải pháp đã khái
quát những nét tổng quan về thực trạng kinh tế - xã hội nước ta qua 5 năm đổi mới
đầu tiên (1986-1991). Từ đó, cuốn sách cũng đánh giá tình hình kinh tế - xã hội đất
nước trên các lĩnh vực cụ thể như: Việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội; thực
trạng công nghiệp Việt Nam và giải pháp; quá trình đổi mới nền nông nghiệp; đổi
mới thị trường và thương nghiệp; đổi mới kinh tế đối ngoại; đổi mới cơ chế và
chính sách giá; vấn đề dân số; vấn đề chính sách tiền lương, chính sách bảo đảm xã
hội… [92].
Hai tác giả Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Hồng trong cuốn Xu ớ ổi mới
trong lịch s Vi t Nam lại có cách tiếp cận khác về vấn đề đổi mới. Từ góc độ nghiên
cứu lịch sử, qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống và mang tính chất tổng kết
khách quan, toàn diện về xu hướng đổi mới trong một giai đoạn lịch sử dân tộc, các
tác giả giúp người đọc hiểu thêm giá trị của công cuộc đổi mới hiện nay. Theo các
tác giả, với những khó khăn, thách thức của hành trình phát triển đất nước, chống lại
sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, vấn đề duy tân, cải cách đã xuất hiện
ở nước ta như một đòi hỏi khách quan của lịch sử, một xu hướng tất yếu của sự phát
triển. Nội dung cuốn sách phản ánh quá trình vươn lên không ngừng của dân tộc
Việt Nam tới độc lập, tự do trong một thế giới hòa bình và hữu nghị giữa các dân
tộc[69].
Trong cuốn Đổi mới - B ớc phát triển t t y u
ĩ
ội ở Vi t

Nam, tác giả Nguyễn Khánh cũng đã dẫn chứng một số sự kiện, tư liệu cụ thể nhằm
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ trương, đường lối đổi mới và tính hợp quy
luật của tiến trình đổi mới[64]. Tác giả Phạm Như Cương, trong Đổi mới phong
t u lại làm rõ những vấn đề lý luận đổi mới phong cách tư duy, đổi mới
nhận thức về chủ nghĩa xã hội; vấn đề đổi mới tư duy trong các lĩnh vực cụ thể như
nông nghiệp, văn hóa, tôn giáo, đạo đức; vấn đề xây dựng con người mới; lý giải
bản chất, nguyên nhân của các hiện tượng tiêu cực trong thời kỳ quá độ…Tác giả
khẳng định, quá trình đổi mới mà chúng ta đang thực hiện đòi hỏi có một sự đột phá
lớn. Cho nên, đổi mới tư duy lúc này không chỉ là trở lại với C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, bởi như vậy, khác nào thay thế hình thức giáo điều này bằng một hình

16


×