Tải bản đầy đủ (.doc) (168 trang)

Sự biến đổi của đạo hiếu ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.35 KB, 168 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LÊN
ĐỖ MINH HOÀNG

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐẠO HIẾU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

VIỆN HÀN LÂM
HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌCKHOAVIỆNHỌCKHOAXÃHỘIHỌCVIỆTXÃNAMHỘI

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LÊN

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐẠO HIẾU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC &CNDVLS
Mã số: 9229002

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN THỊ THỌ

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Thọ. Các tài liệu, số liệu trích dẫn
trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Lên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI............................................................................................................. 5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đạo hiếu và đạo hiếu ở Việt Nam
............................................................................................................................... 5
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt
Nam hiện nay............................................................................................... 15
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp xây dựng đạo hiếu ở Việt
Nam hiện nay............................................................................................... 20
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những
vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án.....................................23
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO HIẾU VÀ SỰ BIẾN ĐỔI
CỦA ĐẠO HIẾU Ở VIỆT NAM..................................................................26

2.1. Đạo hiếu và cơ sở hình thành đạo hiếu ở Việt Nam..............................26
2.2. Nội dung và vai trò của đạo hiếu trong đời sống xã hội....................... 30
2.3. Sự biến đổi của đạo hiếu và đặc điểm của sự biến đổi đạo hiếu ở Việt Nam
......................................................................................................................... 48
CHƯƠNG 3. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐẠO HIẾU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN........................................................79
3.1. Thực trạng biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay........................79
3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay..............105

CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC,
KHẮC PHỤC BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA ĐẠO HIẾU Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY...............................................................................................................121
4.1. Nâng cao nhận thức về đạo hiếu cho các thành viên trong gia đình Việt Nam
hiện nay...................................................................................................... 121
4.2. Kết hợp và nâng cao vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong công tác
giáo dục đạo hiếu........................................................................................127
4.3. Phát triển kinh tế gia đình, tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện
cho việc thực hiện đạo hiếu........................................................................135
4.4. Phát huy vai trò của pháp luật trong việc đưa ra các quy định về đạo hiếu và xử
lý các hành vi bất hiếu................................................................................140
KẾT LUẬN...................................................................................................149
DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 152


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi con người phải biết quá khứ của mình, mỗi dân tộc phải biết lịch sử
của mình. Một dân tộc mà đánh mất quá khứ thì cũng là đánh mất chính bản
thân mình. Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là tài sản vô giá. Nó là
dòng chảy liên tục, nảy sinh, tồn tại, phát triển trong suốt quá trình dựng nước,

giữ nước, phát triển đất nước của cha ông. Trong đó, đạo hiếu là một giá trị
đạo đức cốt lõi, trường tồn cùng với sự phát triển của dân tộc.
Trong xã hội Việt Nam, từ gia đình truyền thống đến gia đình hiện đại, hiếu luôn
được coi là “nết đầu trong trăm nết”, là nét đẹp nhân bản, là giá trị hàng đầu của đạo
làm người. Hiếu được người Việt Nam đặc biệt coi trọng, nâng lên thành một đạo - đạo
hiếu, đạo làm con. Đạo hiếu không chỉ là một chuẩn mực đạo đức, một truyền thống
quý báu được mọi người trân trọng và gìn giữ mà trở thành nguyên tắc hành động, ứng
xử của con cái đối với cha mẹ. Người Việt Nam khi nói đến đạo hiếu, liền nghĩ ngay
đến việc “thờ mẹ, kính cha”, chăm sóc phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống, tang ma, thờ
cúng, chăm sóc mộ phần chu đáo khi cha mẹ qua đời. Thực hiện đạo hiếu trở thành
“khuôn vàng, thước ngọc” để mỗi người căn cứ vào đó tự hoàn thiện đạo đức cá nhân,
xây dựng đạo đức gia đình và củng cố đạo đức xã hội.
Là một giá trị đạo đức cốt lõi, đạo hiếu trường tồn cùng với sự phát triển của dân
tộc. Tuy nhiên, là một bộ phận của ý thức xã hội, đạo hiếu cũng chịu sự chi phối và
quyết định của tồn tại xã hội và biến đổi cùng sự biến đổi của đời sống xã hội. Công
cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã tác động, làm
biến đổi mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực đạo đức gia
đình. Thực tế cho thấy, biến đổi là quy luật tồn tại và phát triển của mọi sự vật hiện
tượng. Song, không phải sự biến đổi nào cũng đồng nhất với văn minh, tiến bộ. Từ khi
đất nước tiến hành đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế thị
trường từng bước được xây dựng và phát triển, một mặt, con cái có những nhận thức

1


và điều kiện kinh tế tốt hơn trong việc báo hiếu cha mẹ; mặt khác, trong nền kinh tế
thị trường, khi mà giá trị thặng dư và tiền bạc vật chất được xem như giá trị cao nhất
để đánh giá con người thì nhiều khi đạo hiếu bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Hiện tượng
con cái lơ là, bỏ bê không làm tròn nghĩa vụ đối với cha mẹ, thậm chí con cái bạc
đãi, tị nạnh lẫn nhau, đẩy cha mẹ vào hoàn cảnh “không ăn thì ốm thì gầy/ ăn thì

nước mắt chan đầy bát cơm” đang tạo nên những khoảng tối trong bức tranh về đạo
hiếu. Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, sự ảnh
hưởng của văn hóa ngoại lai đang làm cho một bộ phận giới trẻ có sự thay đổi quan
niệm về đạo hiếu và việc thực hiện đạo hiếu rất đáng để suy ngẫm. Từ những biến
đổi trên cho thấy, việc phân tích thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân sự biến đổi của
đạo hiếu để đưa ra những giải pháp là yêu cầu cần thiết trong xây dựng đạo hiếu ở
Việt Nam hiện nay. Đó là lý do nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Sự biến đổi của
đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu trong luận án tiến sĩ triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của mình; cũng là góp phần
nhỏ vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống và nền văn hóa tinh thần nói chung
và đạo hiếu nói riêng ở Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về đạo hiếu và sự biến đổi của đạo hiếu

ở Việt Nam, luận án phân tích thực trạng biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam
hiện nay và nguyên nhân của nó; từ đó đề xuất một số giải pháp xây dựng đạo
hiếu ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đạo hiếu và sự biến đổi
của đạo hiếu ở Việt Nam.

2


- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đạo hiếu và sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt

Nam.

- Phân tích thực trạng và nguyên nhân biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam hiện

nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy biến đổi tích cực, hạn
chế biến đổi tiêu cực của đạo hiếu ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam hiện
nay trên hai phương diện biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực. Về thời gian,
luận án chủ yếu khảo sát thực trạng biến đổi của đạo hiếu từ khi đất nước tiến
hành công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng trong xây dựng nền văn hóa tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
đạo đức, đạo hiếu. Ngoài ra, tác giả còn kế thừa một số thành tựu nghiên cứu
đã được công bố có liên quan trực tiếp đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, đồng thời có phối hợp sử dụng các phương pháp lịch sử - logic,
phân tích - tổng hợp, so sánh, đối chiếu, v.v. để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

3


5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về đạo hiếu


và sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam.
- Từ việc phân tích thực trạng biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay và

nguyên nhân của nó, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy biến đổi
tích cực, hạn chế biến đổi tiêu cực của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án có ý nghĩa khuyến nghị đối với việc giữ gìn và phát triển đạo
hiếu ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
phục vụ cho việc nghiên cứu, giáo dục đạo hiếu, đạo đức, đạo đức gia đình.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục
các công trình khoa học đã công bố của tác giả có liên quan đến luận án, nội
dung của luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Hiếu là một giá trị đạo đức căn bản của con người và của đạo làm người. Đặc
biệt ở các nước phương Đông trong đó có Việt Nam, đạo hiếu luôn xác định cho mình
vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc rèn luyện đạo đức cá nhân nhằm đạt tới sự
bình yên, hạnh phúc của gia đình và một xã hội hòa mục, ổn định. Với vị trí, vai trò
quan trọng như vậy nên vấn đề đạo hiếu từ xưa đến nay đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm, nghiên cứu dưới những góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài

của luận án, có thể khái quát các công trình này thành các nhóm cơ bản sau:

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đạo hiếu và đạo
hiếu ở Việt Nam
Cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim (được in lần đầu vào những năm 30 của
thế kỷ XX, lần tái bản gần đây nhất năm 2017) [63] là một trong số không nhiều
cuốn sách ra đời sớm nhất thời hiện đại nghiên cứu về Nho giáo Trung Hoa và tầm
ảnh hưởng lớn lao của nó trong đời sống văn hóa Việt Nam. Bàn về đạo hiếu, Trần
Trọng Kim đã phân tích khá chi tiết tư tưởng hiếu trong Nho giáo, từ Khổng Tử đến
Tăng Tử. Theo Nho giáo, “hiếu có ba bậc: bậc đại hiếu là làm tôn trọng cha mẹ, bậc
thứ là không làm nhục đến cha mẹ, bậc dưới cùng là có thể nuôi được cha mẹ” [63,
tr.190]. Làm tôn trọng cha mẹ là phải hiểu được cái ý của cha mẹ, vâng theo cái chí
của cha mẹ và gây dựng thân mình để cho vinh hiển cha mẹ. Không làm nhục đến
cha mẹ là phải giữ danh giá của mình cho trọn vẹn, “không hư hỏng thân thể, không
nhục thân danh”. Nuôi cha mẹ thì phải kính trọng, nuôi mà không kính thì chẳng
khác gì nuôi giống chó, giống ngựa, lấy gì mà phân biệt.
Hiếu là cái gốc của đạo làm người. Người con có hiếu, “sống thì lấy lễ mà thờ,
chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” [63, tr.126]. Nhưng lấy lễ mà thờ cha mẹ không có
nghĩa là cha mẹ làm điều trái đạo cũng phải theo. Khi cha làm điều gì trái lẽ thì phải hết

5


sức can ngăn, để cho cha không bị những điều lầm lỗi. Nhưng can ngăn cũng phải theo
lễ. Hiếu có hợp lễ mới thật là hiếu. Hơn nữa, trong quan điểm của Nho giáo, có ba
trường hợp con cái không nghe lời cha mẹ vẫn là người con có hiếu, đó là: theo mệnh
thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên; theo mệnh thì cha mẹ nhục, không
theo mệnh thì cha mẹ vinh; theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh thì làm cho cha mẹ
được vẻ vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ [63, tr.293].


Trong quan điểm của Nho giáo, hiếu với cha mẹ là khéo nối được cái chí
của cha mẹ, khéo noi được việc làm của cha mẹ; kính những người cha mẹ đã
kính trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha mẹ lúc chết rồi cũng
như lúc còn sống. Song, Nho giáo cũng nhấn mạnh “sự thờ cha mẹ không phải
là cái lẽ cuối cùng của sự hiếu. Cái lẽ cuối cùng của hiếu là lấy hiếu gây thành
đạo nhân, vì người có hiếu tức là có nhân” [63, tr.129].
Trong Nho giáo, bên cạnh việc trình bày khá chi tiết đạo hiếu của Nho giáo,
Trần Trọng Kim cũng đã chỉ ra những điểm tích cực và sức ảnh hưởng của Nho
giáo đối với đạo đức Việt Nam nói chung và đạo hiếu nói riêng. Đây là nguồn tư
liệu rất quý để nghiên cứu sinh tham khảo trong quá trình viết luận án.
Phan Bội Châu trong “Khổng học đăng” [120] khi bàn về “luân lý ở trong
gia đình” đã có những nét phác thảo về chữ hiếu và việc thực hiện chữ hiếu theo
quan điểm Nho giáo. Phân tích quan điểm của Khổng Tử về chữ hiếu, Phan Bội
Châu nhấn mạnh chữ hiếu là gốc của đạo nhân. Người con giữ được chữ hiếu với
cha mẹ ắt sẽ giữ được chữ đễ với anh em và đối với người trên thì không phạm
thượng, càng không bao giờ làm loạn. Ngược lại, nếu một người bất hiếu với cha
mẹ, bất đễ với anh em thì không thể sống tốt được: “Nếu có hạng người không
thương cha mẹ mà bất hiếu, không thương anh em mà bất đễ, mà vội nói rằng
thương loài người, thương thế giới, quyết không có lẽ ấy” [120, tr.181].
Bên cạnh đó, Phan Bội Châu cũng đề cập đến mối quan hệ giữa việc thực hiện
chữ hiếu của người con trong gia đình và trách nhiệm của người công dân trong xã hội.

6


Ông quan niệm, chữ hiếu không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình, để làm tròn chữ
hiếu, người con nhiều khi phải gác lại hoặc nhờ người chăm sóc mẹ cha để thực
hiện nghĩa vụ làm người với quốc gia, xã hội. Quan điểm này, ta đã gặp trong hành
động của Nguyễn Trãi trong việc từ bỏ tiểu hiếu với cha để thực hiện đại hiếu với
nước và sau này được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong tư tưởng “hiếu với dân”.

Trong những năm 90 của thế kỷ XX, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho
giáo và các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, trong đó có thể kể đến một số công
trình như: “Nho giáo xưa và nay” của tác giả Quang Đạm [24], “Nho giáo và phát triển
ở Việt Nam” của tác giả Vũ Khiêu [57]; “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam” của tác
giả Phan Đại Doãn [21], “Đến hiện đại từ truyền thống” của tác giả Trần Đình Hượu
[52] và “Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam” của tác giả Trần Văn Giàu [36].
Trong các công trình nghiên cứu này, từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học, các tác
giả đã nghiên cứu và đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù
của dân tộc Việt Nam, trong đó đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ luôn được tôn lên
cao và đặt vào vị trí đặc biệt quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan hệ xã hội khác.
Chẳng hạn, trong cuốn “Nho giáo xưa và nay”, khi nói về phạm trù “nhà”, tác giả
Quang Đạm đã từ những luận điểm trong tứ thư, ngũ kinh và nhiều tài liệu diễn giải của
các danh nho về sau mà khái quát lên nội dung chữ hiếu của Nho giáo. Theo tác giả,
chữ hiếu theo quan điểm của Nho giáo được thể hiện ở ba nguyên lý lớn, đó là:
Thứ nhất, sự thân và thủ thân gắn liền với nhau. “Sự thân” là phụng sự cha mẹ,
phục vụ cha mẹ, thủ thân là giữ gìn thân mình. Sự thân không phải chỉ là công việc phải
làm khi cha mẹ còn sống mà cũng là bổn phận phải làm sau khi cha mẹ qua đời...
Con người ở đời càng giữ thân mình lành lặn và toàn vẹn lâu dài bao nhiêu để phụng sự
cha mẹ, lúc sinh thời cũng như sau khi đã qua đời, thì càng báo hiếu được tốt bấy
nhiêu” [24, tr.172]. Nho giáo nhấn mạnh, phụng sự cha mẹ là cái gốc của mọi việc
phụng sự, giữ gìn thân thể là cái gốc của mọi việc giữ gìn; phụng sự đất nước, phụng

7


sự thiên hạ đều không bằng phụng sự cha mẹ; giữ gìn đất nước, giữ gìn thiên
hạ đều không bằng giữ gìn thân thể do cha mẹ sinh ra để phụng sự cha mẹ.
Thứ hai, suốt đời thiện kế, thiện thuật. Nho giáo yêu cầu, con cái đối với cha
mẹ phải “kế”, “thuật” và “vô cải” nghĩa là con cái phải nối tiếp, làm theo và không
sửa đổi việc làm và ý chí của cha mẹ, sau khi cha mẹ đã mất “ba năm không có gì

thay đổi khác đối với đạo của cha” có thể được coi là hiếu. Cũng theo đó, Nho giáo
dạy người ta “thiện kế”, “thiện thuật” cả tình cảm, thái độ đối xử của cha mẹ trong
quan hệ với người khác sau khi cha mẹ mất, nghĩa là phải biết kính những người mà
cha mẹ kính trọng, yêu những người mà cha mẹ thân yêu [24, tr.174].
Thứ ba, dương danh hiển thân là cách báo hiếu tốt nhất. Nho giáo cho rằng
“lập thân, hành đạo, nêu cao thanh danh đến đời sau để làm vinh hiển cho cha mẹ”,
đó là cách báo hiếu cao nhất. Hơn nữa, nếu đem cả thiên hạ mà phụng dưỡng cha
mẹ thì không có hiếu nào bằng. Tác giả Quang Đạm nhận định dương danh hiển
thân “là điều báo hiếu cao nhất của con đối với cha mẹ, và cũng là điều mong ước
tha thiết nhất, tính toán, xếp đặt tốn công nhất của cha mẹ về tương lai của con, vừa
vì con, vừa vì mình, hoặc nói một cách ngắn gọn là vì “nhà” cả thôi” [24, tr.175].

Những phân tích của Quang Đạm trong tác phẩm đã cung cấp cho nghiên
cứu sinh một cái nhìn khái quát về nội dung của chữ hiếu trong Khổng giáo. Mặt
khác, những luận điểm của tác giả cũng cho ta thấy sự ảnh hưởng và sự khác biệt
của chữ hiếu trong Nho giáo Trung Quốc và chữ hiếu trong văn hóa Việt Nam.
Trong cuốn “Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam” [21] khi bàn khá nhiều về đạo
hiếu ở Việt Nam, Phan Đại Doãn cũng khẳng định: “Hiếu vốn là tinh thần, là nội
dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam hình thành từ rất xa xưa trong
phong tục tín ngưỡng như “thờ cúng tổ tiên”, “trọng lão” nhưng về sau lại được giáo
lý Nho giáo khẳng định thêm sâu sắc, chi tiết và thể chế hóa thành luân lý xã hội.
Các nhà nước dưới thời Lê – Nguyễn đều lấy hiếu để củng cố gia đình, lấy hiếu làm
chuẩn mực cho các giá trị xã hội, làm tiêu chuẩn để rèn luyện nhân cách,

8


lấy hiếu để ràng buộc con người với con người, bề dưới với bề trên và đặc biệt
được pháp luật hóa, chính sách hóa” [21,tr.144]. Theo tác giả, hiếu là nhân cách
con người, là gốc của nhân luân, là quan hệ đứng hàng dọc trong gia đình và

dòng họ, có ý nghĩa quan trọng nhất trong nguyên tắc ứng xử gia đình. Trong
cuốn sách này, Phan Đại Doãn đã có những nét phác thảo cơ bản về đạo hiếu
trong gia huấn Việt Nam thời phong kiến. Tác giả cũng khái quát vị trí, vai trò
của đạo hiếu trong gia đình và xã hội; những nội dung căn bản của đạo hiếu theo
quan niệm của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam.
Trong ấn phẩm “Chữ Hiếu” của nhà nghiên cứu Hạnh Hương [49], ở phần
“Cội nguồn” tác giả đặt ra câu hỏi: “Vì sao ta phải báo hiếu cha mẹ, ông bà và tổ
tiên?” Ấy là do “ơn nghĩa sinh thành”, là phận làm con phải báo ân, báo hiếu. Để
báo hiếu phải “tôn kính và vâng lời”, phải “tránh ác, hành thiện”. Để đáp ân, con
cái phải sống tốt, phải “liều thân khi cha mẹ gặp nguy”. Tác giả Hạnh Hương
nhấn mạnh rằng “báo hiếu là bổn phận và trách nhiệm của người làm con”.
Trong ấn phẩm “Hiếu hạnh xưa và nay” [13], tác giả Cao Văn Cang cũng
đặt ra câu hỏi: “Thế nào là hiếu hạnh”. Và từ việc diễn giảng “bài học quả báo”,
phân tích “gương xưa về những người con có hiếu” và “cuộc đời những người
con hiếu”, tác giả yêu cầu con người ta phải “thực hành hiếu đạo”. Hiếu đạo
không chỉ là bổn phận, trách nhiệm mà hơn thế nữa “trên đời này, việc làm được
đánh giá cao quý và đáng tôn vinh nhất, chính là lòng hiếu thảo của con cái đối
với đấng sinh thành, đó là niềm vinh hạnh trời ban” [13, tr.15].
Từ góc nhìn Phật giáo, thiền sư Thích Giác Hành trong “Chữ hiếu và nếp sống
dân tộc” [41] khẳng định: “Hiếu chính là biểu hiện đức tính cao thượng của con người
trong hầu hết các nền văn hóa của nhân loại. Đó là thái độ sống bày tỏ sự biết ơn, nhớ
ơn công đức sinh thành dưỡng dục đối với ông bà, cha mẹ hiện tại và trong vô lượng
kiếp. Hiếu cũng chính là sợi dây thân ái kết nối giữa mọi người, gia đình, thân tộc và
tình dân tộc” [41, tr.16]. Qua ấn phẩm này, tác giả cũng đặt ra và trả lời cho câu hỏi vì

9


sao ta phải báo hiếu mẹ cha? Chúng ta phải báo hiếu như thế nào và làm cách
nào để chúng ta báo hiếu? Từ đó, chúng ta có thể thấy được một số nội dung

khái quát của đạo hiếu theo quan điểm Phật giáo.
Ba cuốn sách “Chữ hiếu” [49], “Chữ hiếu và nếp sống dân tộc” [41], “Hiếu
hạnh xưa và nay” [13] của ba tác giả khác nhau, mặc dù xuất phát điểm không
giống nhau, nhưng chúng ta lại tìm thấy ở đó những điểm tương đồng. Các tác giả,
có người xuất phát từ quan điểm đời thường, có người xuất phát từ quan điểm Phật
giáo, với lối viết mộc mạc, giản dị và gần gũi với cuộc sống, qua các câu chuyện đời
thường hoặc câu chuyện của nhà Phật, các tác giả đều hướng tới và tìm cách trả lời
cho câu hỏi: vì sao con cái phải báo hiếu cha mẹ? Việc báo hiếu cha mẹ phải thực
hiện như thế nào? Trong quá trình luận bàn về đạo hiếu, dù không tác giả nào phân
tích một cách tỉ mỉ nội hàm, ngoại diên của khái niệm hiếu; không trình bày một
cách hệ thống những nội dung của đạo hiếu, nhưng từ các cuốn sách này ta có thể
tìm được những gợi ý rất sâu sắc trả lời cho câu hỏi đạo hiếu là gì, nội dung căn bản
của đạo hiếu bao gồm những vấn đề nào? Đó là những tư liệu vô cùng quý giá cho
nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án.
Cuốn “Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi” của tác giả Ngô Đức
Thịnh [124] đã trình bày khái quát những giá trị văn hóa tiêu biểu của Việt Nam, trong
đó khi nói về những giá trị văn hóa của gia đình người Việt truyền thống, tác giả đã nêu
lên quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu như Trần Đình Hượu, Phạm Côn Sơn, Vũ
Khiêu, Phan Ngọc. Tác giả đã đồng tình với quan điểm của Vũ Khiêu khi nhấn mạnh
hiếu là “nết đầu trong trăm nết”, “hành vi của người ta không gì lớn bằng chữ hiếu”;
Hiếu là phải làm cho cha mẹ được tôn trọng, nuôi dưỡng cha mẹ phải bằng tấm lòng
kính yêu chân thành; và mối quan hệ giữa người con có hiếu trong gia đình với người
công dân đức độ ngoài xã hội. Trích lời của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, tác giả cũng đề
cập đến độ khúc xạ của chữ hiếu trong Nho giáo khi vào Việt Nam, nói cách khác,
“hiếu của Việt Nam có điểm độc đáo khác với hiếu của Trung Quốc”. Ở Việt Nam

10


không chỉ có hiếu của con cái đối với cha mẹ mà còn có cả “đại hiếu” là hiếu

với nước và trong lịch sử dân tộc, nhiều khi để thực hiện “đại hiếu” người ta
phải hy sinh cái “tiểu hiếu”.
Qua tác phẩm này, ta không chỉ tiếp nhận quan điểm của Ngô Đức Thịnh
về hiếu mà từ những nhận định của ông chúng ta hiểu thêm về quan điểm của
các nhà nghiên cứu trước đó khi nghiên cứu về đạo hiếu ở Việt Nam.
Gần đây nhất, cuốn sách Bản thể luận xã hội về đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay
do tác giả Nguyễn Thị Thọ chủ biên [129] đã luận giải về sự tồn tại của phạm trù
hiếu và những khía cạnh biểu hiện khác nhau của hiếu trong các bản thể xã hội. Nội
dung công trình nghiên cứu gồm ba phần, trong đó phần 1 và phần 2, xuất phát từ vị
trí, vai trò của đạo hiếu trong đời sống xã hội Việt Nam, tác giả đã đi sâu phân tích
một số nội dung cơ bản về bản thể luận xã hội của đạo hiếu ở Việt Nam.
Cùng với các cuốn sách của các nhà nghiên cứu trong nước, bàn về đạo hiếu và
đạo hiếu ở Việt Nam còn có thể kể đến một số cuốn sách của các nhà nghiên cứu nước
ngoài. Trong tác phẩm “Nho gia với Trung Quốc ngày nay” [131], Vi Chính Thông đã
khái quát những nội dung chính tư tưởng đạo hiếu theo quan điểm của Khổng Tử. Theo
tác giả, quan điểm về đạo hiếu của Khổng Tử có thể chia thành mấy điểm là: “Duy trì
trật tự trên dưới”; “chuẩn mực về đạo đức luân lý”; “hiếu và nhân”; “hiếu và trung”.
Trong cuộc sống, hiếu được thực hiện đối với cha mẹ là “sống thì phụng dưỡng thân
thể, chết thì an táng theo lễ, thờ cúng theo lễ”. Qua cuốn sách ta cũng thấy được rằng,
sự hình thành và phát triển của đạo hiếu ở Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo
hiếu trong Nho giáo. Tuy nhiên, đạo hiếu ở Việt Nam không tiếp nhận nguyên xi đạo
hiếu trong Nho giáo mà là sự tiếp biến trên cơ sở nền văn hóa bản địa, do đó tư tưởng
đạo hiếu của Việt Nam bớt hà khắc hơn tư tưởng hiếu trong Nho giáo và mang đậm
truyền thống, bản sắc của con người Việt Nam.
Tác phẩm “Chữ Hiếu trong nền văn hóa Trung Hoa” của Tiêu Quần Trung do Lê
Sơn dịch [145] đã phân tích bản chất tinh thần luân lý và hệ thống chuẩn mực đạo

11



hiếu. Từ việc phân tích cơ sở, cơ chế thực tiễn của đạo hiếu và việc giáo dục đạo
hiếu, tác giả đã cho chúng ta thấy một bức tranh khá đầy đủ và sinh động của đạo
hiếu Trung Hoa, từ cội nguồn của đạo hiếu đến diễn biến và các giá trị lịch sử của
nó đối với xã hội đương đại. Tuy nhiên, do tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa nên tác
phẩm chưa đi vào phân tích được căn nguyên của sự biến đổi của đạo hiếu qua các
thời kỳ lịch sử. Đây là vấn đề đặt ra về mặt triết học dựa trên lý luận triết học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là dựa trên nguyên lý tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội mà nghiên cứu sinh sẽ luận chứng trong luận án này.
Cuốn sách“Đạo hiếu trong Nho gia” của tác giả Cao Vọng Chi, một nhà
nghiên cứu tôn giáo tâm huyết người Trung Quốc được nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia dịch và xuất bản năm 2014 [15]. Đây là tác phẩm đã phân tích một cách thấu đáo
về đạo hiếu. Tác giả đã đưa vào sách bản gốc của “Hiếu kinh” và tập hợp 100 điều
ghi chép lời của các bậc thánh hiền Trung Quốc như Khổng Tử, Tăng Tử, Tử Tư và
Mạnh Tử luận bàn về các vấn đề cốt lõi của đạo hiếu. Bên cạnh đó, tác giả còn đề
cập đến hàng loạt vấn đề liên quan đến đạo hiếu, như cơ sở xác lập, bối cảnh xã hội
hình thành và quá trình truyền thụ đạo hiếu trong xã hội Trung Quốc. Ở phần cuối
cuốn sách, Cao Vọng Chi đã có những nghiên cứu, so sánh về tư tưởng đạo hiếu
trong Nho gia với Đạo giáo, Phật giáo. Những nghiên cứu, so sánh này đã cho
chúng ta hiểu rõ và có những lý giải sâu sắc hơn về đạo hiếu trong Nho gia.
Trong cuốn sách này, tác giả cũng đã dành cả một chương để viết về ảnh hưởng
của đạo hiếu trong Nho gia đối với các nước láng giềng. Qua cách nhìn, cách đánh giá
của một nhà nghiên cứu Trung Quốc, ta thấy được mối quan hệ của đạo hiếu trong nền
văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên, ở đây Cao Vọng Chi mới chỉ
nhìn thấy điểm tương đồng với ảnh hưởng một chiều từ đạo hiếu trong Nho gia đối với
Việt Nam mà chưa nhìn thấy điểm khác biệt của đạo hiếu ở Việt Nam vốn được nảy
sinh từ nền văn hóa Việt Nam. Đây là một vấn đề mà tác giả cần nghiên cứu và làm rõ
trong phần lý luận của luận án. Tuy nhiên, tài liệu này đã cung cấp cho tác giả cái nhìn

12



khá rõ ràng và toàn diện về đạo hiếu trong Nho gia, cung cấp cơ sở lý luận để
tác giả nghiên cứu vấn đề trong luận án của mình.
Đặc biệt, trong bài viết “Khảo cứu văn bản Bổ chính nhị thập tứ hiếu truyện
diễn nghĩa ca và văn bản chữ Nôm” của Sato Thụy Uyên – một nhà nghiên cứu
người Nhật Bản, đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Việt Nam học lần thứ IV, tổ
chức tại Hà Nội năm 2012 [148], tác giả đã có sự so sánh, đối chiếu văn bản “Bổ
chính nhị thập tứ hiếu” ở Việt Nam với ba hệ thống “Nhị thập tứ hiếu” ở Trung
Quốc. Tác giả nhận định, cách trình bày và trật tự hai mươi bốn hiếu tử của ba hệ
thống có sự khác biệt và khác với cách ghi của Bổ chính nhị thập tứ hiếu. Sự khác
biệt đó nói lên rằng “Nhị thập tứ hiếu của Trung Quốc khi truyền sang Việt Nam đã
có sự tiếp thu, biến đổi, tạo ra một nét rất đặc sắc, riêng biệt của Việt Nam”.
Đề cập đến các văn bản liên quan đến “Nhị thập tứ hiếu” ở Việt Nam, tác giả
bài viết nhận định có ít nhất hai mươi bảy tài liệu liên quan, trong đó mười lăm tài
liệu là nguyên văn thơ chữ Nôm của dịch giả Lý Văn Phức và các bản phiên âm
sang chữ quốc ngữ được phổ biến sâu rộng trong dân chúng. Chỉ có văn bản Bổ
chính nhị thập tứ hiếu là văn bản duy nhất do thành viên hoàng thất (Hòa Thịnh
Quận Vương Miên Thuấn) đích thân kiểm định, lại được dùng làm sách dạy đạo
hiếu cho con cháu hoàng tộc. Tác giả nhận đinh: “Có lẽ vì thế mà nó không được
lưu truyền phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân như văn bản Nhị thập tứ
hiếu diễn ca của cụ Lý Văn Phức, nhưng dường như nó đã được con cháu Vương
phủ truyền đọc rộng rãi như là một quyển sách gia phạm” [148] .
Có thể nói, Sato Thụy Uyên là một trong số hiếm hoi những nhà nghiên cứu
người nước ngoài tìm hiểu về Nhị thập tứ hiếu ở Việt Nam. Với mục đích làm rõ tác
phẩm Nhị thập tứ hiếu khi truyền vào Việt Nam có sự dung hợp, biến chuyển, được
“bản địa hóa” như thế nào so với nguồn gốc ban đầu và có ảnh hưởng sâu sắc như thế
nào đến xã hội Việt Nam, đặc biệt ở tầng lớp quý tộc, bài viết đã đưa ra một cái nhìn

13



tương đối toàn diện về tác phẩm Nhị thập tứ hiếu ở Việt Nam qua lăng kính
của một nhà nghiên cứu nước ngoài.
Trong nhiều năm gần đây, trên các tạp chí khoa học giáo dục Việt Nam cũng
đã có nhiều bài viết bàn về đạo hiếu dưới những góc độ khác nhau, trong đó có thể
kể đến một số bài viết của tác giả Trần Đăng Sinh, như: "Đạo hiếu trong gia đình
Việt Nam hiện nay” [105]; “Bảo tồn và phát huy giá trị đạo hiếu trong gia đình
truyền thống ở Việt Nam” [104]. Đặc biệt, năm 2009, với đề tài nghiên cứu khoa
học và công nghệ cấp Bộ Đạo hiếu và vấn đề giáo dục đạo hiếu trong gia đình Việt
Nam hiện nay [103], tác giả Trần Đăng Sinh đã phân tích khá sâu sắc cơ sở hình
thành, tồn tại, phát triển và nội dung đạo hiếu trong gia đình Việt Nam.
Bài viết “Đạo hiếu Việt Nam qua cách nhìn lịch đại” của tác giả Trần Nguyên Việt
[155] đã tiếp cận đạo hiếu theo tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam. Luận giải quan
niệm về hiếu và đạo hiếu ở Việt Nam, tác giả đã đi từ quan điểm của Nho, Phật, Lão và
Thiên Chúa giáo để khẳng định: “Các học thuyết tôn giáo – triết học nói trên đều gặp
nhau ở đạo hiếu kính và tham gia vào sự tiếp biến văn hóa từ hơn hai ngàn năm nay ...
Sự tiếp biến ấy có cường độ khác nhau tùy thuộc vào tâm thế của mỗi triều đại phong
kiến lựa chọn học thuyết nào làm chủ đạo trong hệ tư tưởng của mình” [155, tr.33]. Từ
cách nhìn lịch đại, tác giả Trần Nguyên Việt đã khái quát tiến trình phát triển của đạo
hiếu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và rút ra những đặc điểm cơ bản của đạo hiếu
Việt Nam. Có thể nói, nghiên cứu của tác giả Trần Nguyên Việt đã đưa ra cái nhìn bao
quát về sự hình thành, tiến trình phát triển cũng như đặc điểm của đạo hiếu ở Việt Nam.
Tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò của đạo hiếu trong hệ giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc Việt Nam, đồng thời đưa ra những lý giải khá sắc nét nguyên nhân của sự
khác biệt giữa đạo hiếu Việt Nam so với đạo hiếu trong tư tưởng của Nho giáo, Phật
giáo, Đạo giáo và Thiên Chúa giáo. Bài viết thực sự là một tài liệu tham khảo có ý
nghĩa cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án của mình.

14



Như vậy, khảo sát các công trình nghiên cứu về đạo hiếu và đạo hiếu ở Việt
Nam, chúng ta nhận thấy, các tác giả đã đưa ra những ý kiến luận giải về đạo hiếu,
về sự hình thành và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Trong các
cuốn sách, bài viết mỗi tác giả đều có ý kiến riêng của mình, song mấu chốt ta vẫn
tìm thấy được một điểm chung xuyên suốt, đó là: đạo hiếu là một giá trị đạo đức cốt
lõi trong hệ giá trị đạo đức truyền thống của mỗi dân tộc; đạo hiếu ở Việt Nam được
hình thành từ rất sớm, gắn liền với đặc điểm của nền văn hóa bản địa và chịu sự ảnh
hưởng khá sâu sắc đạo hiếu của Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo. Trong suốt
quá trình hình thành và phát triển, đạo hiếu luôn giữ một vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống gia đình và đạo đức xã hội. Những nghiên cứu này đã giúp nghiên
cứu sinh có một cái nhìn tương đối toàn diện và sâu sắc về đạo hiếu nói chung và
đạo hiếu ở Việt Nam nói riêng. Đó thực sự là những tri thức quý báu tạo tiền đề để
nghiên cứu sinh tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm rõ phạm trù đạo hiếu, cơ sở hình
thành cũng như những nội dung cơ bản của đạo hiếu ở Việt Nam.
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến sự biến đổi của đạo hiếu ở

Việt Nam hiện nay
Tác giả Phan Châu Trinh, trong bài diễn thuyết “Đạo đức và luân lý Đông Tây”

[165] diễn ra tại Nhà hội Việt Nam ở Sài Gòn, đêm 19 tháng 11 năm 1925, khi
“cốt ý bàn về sự thay đổi luân lý của nước ta” đã phân biệt hai chữ đạo đức và
luân lý. Tác giả cho rằng, đạo đức là đạo đức, luân lý là luân lý; đạo đức gồm cả
luân lý mà luân lý chỉ là một phần trong đạo đức mà thôi. Đạo đức thì không có
mới có cũ, có Đông có Tây, nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được.
Luân lý thì không thế. Luân lý không phải là thứ thiên niên bất dịch mà có thể
tùy thời mà thay đổi. Tác giả lấy thí dụ, trong ứng xử của con cái khi cha mẹ qua
đời, xứ này cha mẹ chết thì đem ăn thịt hoặc đốt đi, mới gọi là hiếu, mà xứ kia thì
phải làm đám táng có kèn trống linh đình mới là phải đạo làm con [165].


15


Trong tác phẩm, Phan Châu Trinh cho ta thấy cách nhìn duy vật biện
chứng của một nhà tư tưởng khi bàn về luân lý nói chung và đạo hiếu nói
riêng. Mặc dù tư tưởng được đưa ra từ đầu thế kỷ XX nhưng đến nay vẫn còn
có những ý nghĩa nhất định trong việc khẳng định sự biến đổi của đạo hiếu và
việc xây dựng luân lý trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Cuốn “Hiếu hạnh xưa và nay” [13], trong phần “Thực hành đạo Hiếu”, Cao Văn
Cang đã nêu quan điểm về đạo hiếu xưa của dân tộc Việt Nam, đối chiếu, so sánh để rồi
đặt ra yêu cầu xã hội ngày nay cần phải giáo dục chữ hiếu. Tác giả nhận định, ngày nay,
xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống con người ngày càng đầy đủ, văn minh đã tạo ra
những điều kiện, tiền đề để con người ta thể hiện tấm lòng hiếu nghĩa của mình với cha
mẹ trong gia đình và những người khó khăn hơn ngoài xã hội. Nhưng, bên cạnh những
việc làm nhân ái, những tấm lòng tình nghĩa khiến cho người ta cảm thấy xã hội này
thật ấm áp tình người thì vẫn còn đó, những người con bất hiếu, họ chỉ biết nghĩ đến
bản thân, hắt hủi bố mẹ già và ngoảnh mặt trước nỗi đau của đồng loại.
Bài viết “Hiếu” và việc xây dựng hiếu trong xã hội ta ngày nay” của tác giả
Nguyễn Tài Thư [134] đã khẳng định hiếu là một sản phẩm tinh thần của các xã hội văn
minh. Xã hội ta ngày nay là một xã hội văn minh, do đó cần xây dựng một đạo hiếu
tương xứng. Đạo hiếu của xã hội ngày nay phải được hình thành trên cơ sở tư liệu của
đạo hiếu truyền thống, “nhưng cái truyền thống của giai đoạn hiện tại không còn được
giữ nguyên như ở giai đoạn trước”. Nói cách khác, đạo hiếu truyền thống “phải được
xem xét trên cơ sở hiện tại, lấy hiện tại để phán xét truyền thống, lựa chọn truyền
thống”. Trong đạo hiếu truyền thống “có nhiều điều khiến cho ngày nay phải cảm phục
và ngưỡng mộ” nhưng cũng “có nhiều cái không còn phù hợp”. Do đó, cần phải chọn
lọc, kế thừa và phát triển đạo hiếu truyền thống cho phù hợp với xã hội hiện tại. Mặt
khác, tác giả nhận định: “Hiếu là một phạm trù đạo đức, một khi chế độ kinh tế - xã hội
thay đổi thì sớm muộn nó cũng phải thay đổi theo. Chế độ kinh tế - xã hội ngày nay đã
khác ngày trước, điều này khiến ý thức và hành vi hiếu giữa hai chế độ có nhiều khác


16


biệt” [134, tr.30]. Bài viết đã đưa ra một cái nhìn tương đối toàn diện và sâu
sắc về đạo hiếu Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đặc biệt, với cách
nhìn biện chứng, quan điểm của tác giả trong vấn đề xây dựng đạo hiếu trong
xã hội ta ngày nay thực sự là những gợi ý quan trọng để nghiên cứu sinh tiếp
tục khai thác trong quá trình thực hiện luận án của mình.
Tác giả Nguyễn Thị Thọ trong bài “Từ đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo
hiếu ngày nay” [125] đã khái quát sự hình thành, phát triển và biến đổi của đạo hiếu
Việt Nam. Tác giả nhận định, đạo hiếu Việt Nam được hình thành từ xa xưa và chịu
ảnh hưởng khá sâu sắc của đạo hiếu trong Nho giáo. Đề cập tới sự biến đổi của đạo
hiếu ở Việt Nam dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tác giả nhận định: sự biến đổi đó đang diễn ra theo cả hai chiều hướng tích
cực và tiêu cực, “bên cạnh những tấm gương hiếu thảo, những tấm lòng nhân nghĩa,
ân tình với cha mẹ, thì vẫn còn đó nhiều người con đã có thái độ bất nhân, bất
nghĩa, thiếu tôn trọng hoặc có hành vi hỗn láo, vô đạo đức với cha mẹ. Một số
người coi việc nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ như một gánh nặng. Một số khác lại
nghĩ rằng, chỉ cần đóng góp tiền bạc để nuôi dưỡng cha mẹ là làm tròn bổn phận
của người con” [130, tr.17]. Từ đó, tác giả đặt ra yêu cầu “đã đến lúc mọi gia đình
cần để tâm soát xét lại, tái lập gia đạo, gia phong”, cần tiếp tục khẳng định vai trò
của chữ hiếu trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Tác giả Lê Văn Hùng với “Sự biến đổi của đạo hiếu trong gia đình Việt
Nam hiện nay” [48] thì cho rằng đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay đang bị biến dạng
bởi ảnh hưởng của tồn tại xã hội. Đó là sự phát triển của kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự du nhập của lối sống và văn hóa
phương Tây đang ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống, đạo đức của con người Việt
Nam, làm biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa gia đình.


17


Cuốn Đạo hiếu trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, trong phần “Sự biến
đổi của đạo hiếu dưới tác động của kinh tế thị tường ở Việt Nam hiện nay” đã có
nhiều bài nghiên cứu phán ánh sự biến đổi của đạo hiếu, trong đó có thể kể đến:
Bài viết “Xu hướng biến đổi của đạo hiếu trong gia đình Việt Nam hiện nay”
của tác giả Hoàng Thúc Lân [70] đã phản ánh sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam
hiện nay theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ở chiều hướng tích cực, tác giả
cho rằng con cháu ngày càng nhận thức, giữ gìn và phát huy đạo lý biết ơn công
sinh thành, dưỡng dục của ông bà, cha mẹ, không ngừng phấn đấu, vươn lên trong
cuộc sống làm vui lòng, hiển vinh cha mẹ... Bên cạnh đó, ở chiều hướng tiêu cực,
tác giả nêu lên một số hiện tượng bất hiếu, như con cháu bạo hành, ngược đãi ông
bà, cha mẹ; chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã vào các tệ nạn xã hội làm ô danh
gia đình dòng họ... Bài viết đã đưa ra một cách nhìn, một sự gợi ý để nghiên cứu
sinh tìm tòi, phát triển và luận giải trong luận án của mình.
Tác giả Nguyễn Thu Nghĩa với nghiên cứu “Những tác động tiêu cực của kinh
tế thị trường đến đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay” [90] đã phân tích sự tác động diễn ra
trên nhiều khía cạnh. Đó là, do ảnh hưởng của lối sống thực dụng mà nhiều người đã
dùng đồng tiền để khẳng định bổn phận làm con đối với cha mẹ. Họ mải miết làm việc
để kiếm tiền, họ đóng góp tiền bạc để nuôi dưỡng hoặc thuê những người xa lạ về chăm
sóc cha mẹ và coi đó là một cách báo hiếu. Một cách khác, họ có thể gửi cha mẹ vào
các nhà dưỡng lão, thi thoảng con cái vào thăm. Theo tác giả, những cách báo hiếu này,
tuy cha mẹ có được chăm sóc thường xuyên, có đủ đầy về mặt vật chất nhưng nhiều bậc
cha mẹ sẽ không tránh khỏi cảm giác chạnh lòng, buồn tủi, cô đơn. Kinh tế thị trường
phát triển cũng làm “gia tăng sự phân hóa giàu nghèo”. Đối với những người giàu, việc
chăm lo cha mẹ nằm ở vấn đề thời gian thì đối với những người có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn đó còn là vấn đề vật chất. “Nhiều người cho rằng, khi họ chưa thể lo cho con
cái họ thì cũng không thể trách họ không chăm lo cho bố mẹ” [90, tr.300]. Đặc biệt,

phát triển kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội,

18


nhiều cái xấu, cái ác cũng từ đây mà xuất hiện. Trong gia đình, hiện tượng con
cái đối xử tệ bạc với cha mẹ, đi ngược lại chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ
tục đã và đang diễn ra. Đáng lo ngại, đây “không còn là chuyện của một cá nhân,
hoàn cảnh của một gia đình đơn lẻ mà là một hiện tượng xã hội”. Hiện tượng này
cần được chấn chỉnh, tránh để lại những hệ lụy xã hội cho thế hệ mai sau.
Cuốn Bản thể luận xã hội về đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay của tác giả
Nguyễn Thị Thọ [129], trong phần “Tác động của kinh tế thị trường đến đạo
hiếu ở Việt Nam hiện nay” đã phân tích sự tác động của kinh tế thị trường đến
đạo hiếu theo chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ở chiều hướng tích cực, trên
phương diện xã hội, tác giả đề cập đến sự hình thành các dịch vụ xã hội mới là:
Trung tâm bảo trợ xã hội cho người già; mô hình chăm sóc người cao tuổi tại nhà
và thuê người giúp việc chăm sóc cha mẹ của một số gia đình có điều kiện kinh
tế. Trên phương diện gia đình, sự tác động của kinh tế thị trường đã phá vỡ mô
hình “gia đình lớn nhiều thế hệ” để thiết lập mô hình nhỏ theo kiểu phương Tây,
gọi là “gia đình hạt nhân” chỉ có hai thế hệ là cha mẹ và con cái chung sống.
Ở chiều hướng tiêu cực, tác giả cho rằng mặt trái của kinh tế thị trường
đang làm băng hoại nhiều giá trị đạo đức, tấn công, len lỏi vào từng gia đình, phá
vỡ những chuẩn mực giá trị đạo hiếu truyền thống làm gia tăng tình trạng con
cháu không nghe lời ông bà, cha mẹ. Thậm chí con cháu đùn đẩy trách nhiệm
thực hiện đạo hiếu gia đình; hiện tượng con cháu bạo hành, bỏ rơi ông bà, cha
mẹ đáng báo động. Nguyên nhân của hiện tượng này được tác giả xem xét từ bốn
phía: phía gia đình, dòng họ, phía con cái, phía nhà trường và phía xã hội.
Như vậy, liên quan đến sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay chưa có
nhiều sách viết, nhưng qua những đề tài khoa học, những bài báo đăng trên các tạp chí
bước đầu các tác giả đã đưa ra cách nhìn tổng quát về sự biến đổi của đạo hiếu ở Việt

Nam hiện nay. Các tác giả đều nhận thấy, sự biến đổi đó là một tất yếu do sự biến đổi
của tồn tại xã hội, sự tác động của nền kinh tế thị trường, của sự biến đổi gia đình, của

19


hội nhập quốc tế, v.v.. Sự biến đổi đó đã và đang diễn ra theo hai chiều hướng tích
cực và tiêu cực. Tuy nhiên, những nghiên cứu này đề cập đến sự biến đổi của đạo
hiếu còn mang tính tản mạn, thiếu những công trình chỉ ra được căn nguyên hay tính
quy luật của sự biến đổi, từ đó dễ dẫn đến mất phương hướng trong việc tìm ra giải
pháp để phát huy những biến đổi tích cực, khắc phục những biến đổi tiêu cực của
đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu này đã gợi
mở, cung cấp cho nghiên cứu sinh những cái nhìn đa chiều, những tri thức thực tiễn
quan trọng, là cơ sở để tác giả đi sâu nghiên cứu thực trạng biến đổi đạo hiếu ở Việt
Nam hiện nay được khách quan và sâu sắc hơn.

1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp xây dựng
đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu về giải pháp xây dựng đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay chưa
có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách công phu, sâu sắc, toàn diện.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn tìm thấy trong các cuốn sách, luận văn, luận án và các
bài nghiên cứu những giải pháp cụ thể cho vấn đề này.
Tác giả Phan Châu Trinh trong “Đạo đức và luân lý Đông Tây” [165], sau khi
phân tích cái hay của luân lý Âu Tây và cái dở trong luân lý của tư tưởng tà Nho ở ta đã
đặt vấn đề: “Luân lý của ta mất thì đem luân lý của Âu châu về dùng hẳn có được
không?”. Và tác giả khảng khái trả lời rằng: “Không. Một nước luân lý cũ đã mất là
nước không có cơ sở, nay bảo đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu?”. Muốn xây
dựng luân lý nước nhà, trước hết ta phải “cứu chữa lấy cây luân lý cũ của ta rồi đem
chắp nối với cây luân lý của Âu châu”. Tác giả nhấn mạnh rằng, muốn nước ta có một
nền đạo đức luân lý vững vàng thì phải “đem cái chân minh ở Âu Tây hòa hợp với chân

Nho giáo ở Á Đông chứ không phải là tự do độc lập ở đầu lưỡi ở mấy anh Tây học lem
nhem mà cũng không phải là quốc hồn quốc túy ngoài môi của các bác Hán học dở
mùa” [165]. Tư tưởng của Phan Châu Trinh như một lời kêu gọi, một lời chỉ dẫn chúng
ta phải xây dựng lại một nền luân lý Việt Nam bằng cách kế

20


thừa những giá trị luân lý tốt đẹp của luân lý cũ kết hợp với tiếp thu giá trị tiến
bộ trong luân lý phương Tây.
Tác giả Phạm Côn Sơn trong cuốn “Nền nếp gia phong” [109] đã nhấn mạnh,
trước sự suy đồi của nền đạo lý gia phong, chúng ta cần phải chỉnh đốn lại, xây
dựng lại nền nếp. Theo tác giả, “để xây dựng một gia đình nền nếp, mỗi người chủ
gia đình phải để tâm nhận thức và hoạch định một khuôn mẫu và một tập quán cho
tất cả mọi người trong gia đình noi theo” [109, tr.122]; phải kiến tạo nền nếp gia
phong, thiết lập lại gia phả. Bởi lẽ, gia phả là “căn bản truyền nối của gia đình mà
nhờ đó, người ta có thể truy tìm được nguồn cội và những người cùng một huyết
thống” [109, tr.127] và “không có gia phả người ta sẽ không biết đâu là chứng cớ
vịn vào đó để dạy bảo con cháu” sống có đức độ, lo làm ăn và noi gương tổ tiên.
Trong cuốn “Hiếu hạnh xưa và nay” [13], tác giả Cao Văn Cang khẳng định, xã
hội ngày nay cần phải giáo dục chữ hiếu. Để giáo dục chữ hiếu cần phải “chấn chỉnh lại
nền nếp gia đình”. Tác giả nhận định: “Nếu như một thời vì mưu sinh khó khăn mà
những người lớn đã lơ là việc gia huấn, con cháu lớn khôn mau lẹ, gây ra những điều
lỗi lầm thì đó là cả một sự thiếu sót cần phải sửa đổi”[13, tr.131]. Chính vì vậy, trong
giáo dục con cháu hiện nay, mỗi gia đình cần phải có một gia huấn thích hợp. “Gia
huấn không những hướng dẫn mọi thành viên trong gia đình sống phải đạo làm người...
mà còn phải tiến triển theo hướng mới phục vụ xã hội ngày nay”[13, tr125]. Tác giả nêu
lên “mục tiêu của gia huấn bây giờ” bao gồm nhiều vấn đề, trong đó, phải “cổ động
nam giới ý thức trách nhiệm là rường cột của gia đình cũng là thành viên chủ lực của xã
hội”; “cổ động nữ giới hăng hái gánh vác nhiệm vụ xã hội, song song với nghĩa vụ

trong gia đình và ở chức nghiệp”; con người phải “tránh thói ích kỷ nhỏ nhen, xa rời
những đam mê”; “phải biết tận dụng thời gian và tính tiết kiệm tiền bạc ... biết giữ
thăng bằng cho cuộc sống”; người cha, người mẹ “phải luôn quan tâm đến bổn phận
làm cha làm mẹ, có trách nhiệm với con cái. Không nên bê tha bỏ phế gia đình. Không
nên hưởng thụ một cách vô trách nhiệm”; làm con “phải có lòng hiếu thảo, tôn

21


×